Tải bản đầy đủ (.pdf) (322 trang)

Giáo trình phân tích đầu tư chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 322 trang )

CHƢƠNG 1 : MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ VÀ THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1 Môi trƣờng đầu tƣ
1.1.1 Khái niệm về môi trƣờng đầu tƣ
Bất kỳ một cá nhân hay một tổ chức nào cũng không
tồn tại một cách biệt lập mà thường xuyên tác động qua lại
với môi trường. Những sự thay đổi từ các yếu tố môi trường
xung quanh, có thể tạo ra những cơ hội, những thách thức
hoặc rủi ro ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hoặc kết quả
đầu tư. Để trở thành một nhà đầu tư thành công, nhà đầu tư
phải dành nhiều thời gian để khảo sát, phân tích và dự đoán
các biến đổi của môi trường và coi đó là một công việc đầu
tiên và thường xuyên của mình. Việc nghiên cứu môi
trường sẽ cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin quan
trọng, làm cơ sở cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư, mang
lại hiệu quả đầu tư cao nhất. Vậy môi trường đầu tư là gì?
Môi trường đầu tư là tổng hợp các điều kiện, các yếu tố
bên trong cũng như bên ngoài thường xuyên tác động ảnh
hưởng đến quyết định và kết quả đầu tư. Môi trường đầu tư
có thể là các yếu tố về kinh tế, xã hội, pháp luật, tài chính,
cơ sở hạ tầng và các yếu tố liên quan khác có ảnh hưởng
đến hoạt động của nhà đầu tư ở các mặt: kết quả đầu tư,
phạm vi đầu tư, mục tiêu đầu tư và chiến lược đầu tư.

1


Trên thực tế, môi trường không đứng yên mà luôn luôn
vận động, biến đổi. Do đó khi nghiên cứu môi trường chúng
ta cần phải xem xét môi trường ở cả hai trạng thái tĩnh và


động.
Nghiên cứu môi trường đầu tư ở trạng thái tĩnh là việc
xác định một môi trường đầu tư chứng khoán gồm những
yếu tố gì tác động, tính chất và mức độ ảnh hưởng của từng
yếu tố đó đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư và hiện
trạng các yếu tố của môi trường đầu tư.
Nghiên cứu môi trường đầu tư ở trạng thái động có ý
nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định mục tiêu và chiến
lược đầu tư. Đó là việc dự đoán được xu hướng vận động và
biến đổi của từng loại yếu tố và từng loại môi trường đầu tư.
Nghiên cứu mối liên hệ tác động qua lại của các yếu tô môi
trường và các cấp độ môi trường.
1.1.2 Phân loại môi trƣờng đầu tƣ
Căn cứ vào phạm vi và cấp độ môi trường, môi
trường đầu tư có thể được phân thành các loại sau:
1.1.2.1 Môi trường bên ngoài:
Bao gồm các yếu tố khách quan, bên ngoài có ảnh
hưởng đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Môi trường bên
ngoài bao gồm: môi trường vĩ mô, môi trường vi mô, và
môi trường quốc tế:

2


a. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô còn gọi là môi trường tổng quát, được
hình thành từ những điều kiện chung nhất của một quốc gia
nào đó. Môi trường vĩ mô là môi trường bao trùm lên hoạt
động của tất cả các tổ chức, các cá nhân, có ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của tất cả các tổ chức, các

cá nhân. Nó được xác lập bởi các yếu tố vĩ mô như: các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tự nhiên, dân số
và kỹ thuật công nghệ.
Khi nghiên cứu môi trường vĩ mô nhà đầu tư cần chú ý
các đặc điểm của nó. Môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lâu
dài đến các tổ chức và các cá nhân. Nhà đầu tư khó có thể
ảnh hưởng hoặc kiểm soát được môi trường vĩ mô - khó có
thể điều chỉnh được môi trường vĩ mô, trái lại phụ thuộc
vào môi trường vĩ mô. Mức độ tác động và tính chất tác
động của loại môi trường này khác nhau theo từng ngành,
theo từng doanh nghiệp, thậm chí khác nhau trong từng lọai
chứng khoán mà nhà đầu tư có ý định đầu tư. Sự thay đổi
của môi trường vĩ mô có tác động làm thay đổi cục diện của
môi trường vi mô và môi trường nội bộ. Mỗi yếu tố của môi
trường vĩ mô có thể ảnh hưởng đến nhà đầu tư một cách độc
lập trong mối liên kết với các yếu tố khác.
b. Môi trường vi mô:
Môi trường vi mô còn gọi là môi trường đặc thù, được
hình thành tùy thuộc vào những điều kiện sản xuất kinh
3


doanh trong từng ngành, và bởi đặc điểm hoạt động của
từng doanh nghiệp niêm yết trên thị trường. Nghiên cứu
môi trường vi mô là một nội dung hết sức quan trọng để nhà
đầu tư đưa ra quyết định nên lựa chọn đầu tư vào chứng
khoán nào để mang về hiệu quả cao nhất. Đây là loại môi
trường gắn trực tiếp với từng doanh nghiệp và phần lớn các
hoạt động và cạnh tranh của doanh nghiệp xảy ra trực tiếp
tại đây. Môi trường này thường bao gồm các yếu tố như:

nguồn nhân lực của doanh nghiệp, khả năng tài chính của
doanh nghiệp, năng lực của nhà quản trị doanh nghiệp...
c. Môi trường quốc tế
Vấn đề nghiên cứu môi trường quốc tế không chỉ đặt ra
với các công ty hoạt động trên thương trường nước ngoài
mà còn đặt ra cả đối với những công ty chỉ gắn với thị
trường trong nước và với những nhà đầu tư chứng khoán.
Có thể nói trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập ngày
nay thì không thể có một quốc gia nào lại không có mối
quan hệ với nền kinh tế thế giới, trái lại mối quan hệ phụ
thuộc giữa các quốc gia và cộng đồng kinh tế thế giới ngày
càng tăng. Trong bối cảnh như vậy chắc chắn rằng những
biến động của môi trường kinh doanh quốc tế sẽ có tác động
đến môi trường kinh doanh của các công ty hoạt động trong
nước và chắc chắn sẽ tác động đến nhà đầu tư.
1.1.2.2 Môi trường nội bộ (hoàn cảnh nội bộ):

4


Rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro
trong đầu tư chứng khoán chính là rủi ro từ sự sai lầm do
thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản
ứng thị trường nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu
tư... Môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố chủ quan của
nhà đầu tư có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. Cụ thể, môi
trường nội bộ gồm các yếu tố như: trình độ nhà đầu tư, khả
năng nghiên cứu, phân tích và phán đoán của nhà đầu tư,
năng lực tài chính của nhà đầu tư, khả năng ra quyết định
của nhà đầu tư …..

1.1.3 Sự cần thiết của việc nghiên cứu môi trƣờng đầu

Những yếu tố của môi trường đầu tư có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán, đến giá cả chứng
khoán một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà mỗi người tham
gia vào thị trường nên hiểu, nên phân tích trước và trong cả
quá trình thực hiện quản lý đầu tư, hoặc kinh doanh của
mình và nó là tiền đề quan trọng để tạo điều kiện cho quyết
định đầu tư, kinh doanh, quản lý của nhà đầu tư mang lại
hiệu quả cao.
Đối với mỗi chủ thể khác nhau, việc nghiên cứu môi
trường đầu tư có tầm quan trọng khác nhau:
a. Đối với người đầu tư: Qua việc xem xét các yếu tố
của môi trường đầu tư người đầu tư có thể dự báo được khả
năng hình thành của giá cả, mức sinh lời dự kiến, khả năng
5


bảo toàn vốn và khả năng sản sinh rủi ro. Đây là những yếu
tố mà tất cả mọi người đầu tư đều rất quan tâm.
Môi trường đầu tư có thể tác động đến nhà đầu tư chứng
khoán theo hai hướng cơ bản:
-

Hướng thuận lợi: tạo ra các cơ hội thuận lợi cho hoạt
động đầu tư, mang lại lợi nhuận càng cao.

-

Hướng nghịch: rủi ro xảy ra và gây thiệt hại cho nhà

đầu tư

Trong kinh tế thị trường, chẳng có hoạt động đầu tư
kinh doanh nào lại không có rủi ro. Lợi nhuận càng cao, rủi
ro càng lớn... Đầu tư chứng khoán cũng chịu tác động của
quy luật này, nhưng ở mức sâu đậm và đa diện hơn. Thật
hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà
đầu tư lại đòi hỏi và gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng,
tính hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác của các
thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư
chứng khoán. Chân dung nhà đầu tư chứng khoán điển hình
là người luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái góp
phần vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng và cũng rất nhẹ
dạ, cả tin; ranh ma và nhạy cảm. Và trong số họ, ai nắm
được thông tin tốt hơn cả thì sẽ dễ dàng chiến thắng và giảm
thiểu được nhiều rủi ro.
Nói cách khác, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có
nguồn gốc rất sâu đậm từ số lượng và chất lượng thông tin
mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu
6


tư. Rủi ro luôn rình rập ở mọi nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả
giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ, khi không nắm được các
thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan
đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình
thị trường... Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được
kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên
nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin
đến chậm hoặc bị cắt xén, không chính xác về hoạt động

kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường
pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”,
hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào
đó... đều có thể gây ra thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư
chứng khoán.Vì vậy việc nghiên cứu môi trường đầu tư là
cần thiết.
b. Đối với doanh nghiệp: Xem xét tổng quan các nhân tố
của môi trường đầu tư các nhà quản trị doanh nghiệp có thể
đánh giá thị trường, dự báo sự phát triển của thị trường, dự
báo các đối thủ cạnh tranh, những thuận lợi, khó khăn trong
quá trình kinh doanh và từ đó có quyết sách thích hợp làm
tăng giá trị doanh nghiệp.
c. Đối với nhà nước:
Nhà nước có nghĩa vụ vừa quản lý vừa xây dựng môi
trường đầu tư, nhằm mục tiêu:
- Giữ vững kỷ luật, kỷ cương của thị trường, đảm bảo
cho thị trường hoạt động theo quy chế và pháp luật.
7


- Tạo điều kiện để phát triển thị trường.
- Tạo động lực để các thành viên tham gia thị trường với
thái độ xây dựng.
- Ngăn ngừa những hành vi phá hoại, thao túng thị trường.
- Đạt mục tiêu cuối cùng là làm cho thị trường hoạt động
trung thực, công bằng và hiệu quả.
Để đạt được các mục tiêu đó, một trong những lĩnh vực
mà nhà nước cần quan tâm là môi trường vĩ mô của thị
trường. Hiểu rõ môi trường này nhà nước có thể:
-


Có biện pháp quản lý thích hợp hơn

-

Có các chính sách khuyến khích phát triển thích hợp
hơn

-

Điều chỉnh kịp thời các quy chế, biện pháp phù hợp
với môi trường và sự biến đổi của môi trường.

Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB): nếu các
nước đang phát triển muốn đạt tỉ lệ tăng trưởng cao, việc
tự do hóa thương mại phải được bổ sung bằng một môi
trường đầu tư lành mạnh. Các thể chế, chính sách và qui
định quản lý của nhà nước đóng vai trò hệ trọng trong việc
khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nếu chính phủ quá quan
liêu và tham nhũng, hoặc nếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ
tài chính kém hiệu quả, sẽ khó thuyết phục giới kinh
doanh đầu tư vào những cơ hội xuất khẩu tiềm năng, bởi
vì lợi nhuận thấp và không chắc chắn. Sở dĩ Trung Quốc
8


đã tăng trưởng rất nhanh trong thập niên vừa qua trong khi
các nước đang phát triển khác trì trệ là do Trung Quốc đã
tạo được một môi trường đầu tư đặc biệt hấp dẫn. Môi
trường đầu tư này đã giúp các doanh nghiệp không chỉ

gieo hạt đầu tư mà còn hái quả lợi nhuận. Những gương
thành công như vậy đã thu hút thêm các doanh nghiệp
khác đến Trung Quốc, góp phần làm tăng lượng đầu tư
nước ngoài cũng như số lượng các công ty xuất hàng
Trung Quốc ra thị trường thế giới.
d. Đối với nhà phân tích, bình luận:
Nếu hiểu rõ môi trường vĩ mô của thị trường thì nhà
phân tích, bình luận sẽ có căn cứ để đánh giá, phân tích thị
trường chính xác, sâu sắc hơn.
1.2 Môi trƣờng vĩ mô
1.2.1 Môi trƣờng kinh tế
Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của môi
trường đầu tư liên quan đến thị trường chứng khoán là môi
trường kinh tế. Đây là một yếu tố rất quan trọng thu hút sự
quan tâm của tất cả các nhà đầu tư. Sự tác động của các yếu
tố môi trường này có tính chất trực tiếp, và năng động hơn
so với một yếu tố khác của môi trường vĩ mô. Những diễn
biến của môi trường kinh tế vĩ mô bao giờ cũng chứa đựng
những cơ hội và đe doạ khác nhau đối với từng doanh
nghiệp trong các ngành khác nhau, và có ảnh hưởng tiềm
tàng đến các chiến lược của nhà đầu tư .
9


Có rất nhiều yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô.
Chúng ta xem xét môi trường kinh tế qua các mặt: Các chỉ
tiêu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân GDP, GNP,. ., lạm
phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ
ngoại tệ, cân đối ngân sách nhà nước, nợ nước ngoài, tỷ giá
hối đoái và một số phân tích kinh tế vĩ mô khác:

a. Tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế (Chỉ tiêu GDP, GNP)
Tổng sản phẩm quốc nội thường được viết tắt là GDP
(từ cụm từ đầy đủ tiếng Anh Gross Domestic Product) là
một con số thống kê cho biết tổng mức thu nhập của toàn
nền kinh tế quốc dân và tổng mức chi tiêu trên đầu ra của
hàng hóa và dịch vụ. GDP là số đo về giá trị của hoạt động
kinh tế quốc gia. là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh
thổ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một
năm. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự
phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.
GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc
tổng của các khoản chi tiêu, hoặc tổng giá trị gia tăng của
nền kinh tế. Theo cách tính tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế
học đưa ra một công thức như sau:
GDP = C + I + G + NX

10


Trong đó:
• C là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình)
trong nền kinh tế.
• I là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh
doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư.


G là tổng chi tiêu của chính phủ.

• NX là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng

xuất khẩu - nhập khẩu

GDP danh nghĩa và GDP thực tế:
GDP danh nghĩa là một cách tính tổng sản phẩm nội
địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo
giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào
thì lấy giá của thời kỳ đó. Trong khi GDP danh nghĩa
chỉ tổng số tiền chi phí cho GDP, thì GDP thực tế chỉ
việc điều chỉnh lại của con số này vì những lý do như sự
mất giá của đồng tiền để có thể ước lượng chuẩn hơn số
lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP.
GDP thứ nhất đôi khi được gọi là "GDP tiền tệ" trong
khi GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay
GDP "điều chỉnh lạm phát" hoặc "GDP theo giá năm
gốc"

11


Tổng sản lượng quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia
thường được viết tắt GNP (Gross National Product), là một
chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất
nước, nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản
phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm
ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông thường là một
năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài
nước)

Công thức tính tổng sản phẩm quốc gia
GNP = C + I + G + (X - M) + NR



C = Chi phí tiêu dùng cá nhân



I = Tổng đầu tư cá nhân quốc nội



G = Chi phí tiêu dùng của nhà nước



X = Kim ngạch xuất khẩu ròng các hàng hóa và dịch

vụ
• M = Kim ngạch nhập khẩu ròng của hàng hóa và
dịch vụ
• NR= Thu nhập ròng từ các tài sản ở nước ngoài (thu
nhập ròng)

12


GDP,GNP thường được dùng để đánh giá mức phát triển
kinh tế của cả nước, từng ngành, từng địa phương và từng
vùng lãnh thổ. Phân tích xu hướng của tổng sản phẩm quốc
nội, và tổng sản phẩm quốc dân nghĩa là số liệu về tốc độ
tăng trưởng của GDP và GNP hàng năm sẽ cho biết tốc độ

tăng trưởng của nền kinh tế và tốc độ tăng của thu nhập tính
bình quân đầu người, cho phép dự đoán dung lượng thị
trường của từng ngành và thị phần của doanh nghiệp. Phân
tích sự biến động của GDP trong quan hệ biến động với dân
số để xem xét mức tăng trưởng bình quân đầu người và từ
đó xem xét khả năng tích lũy của một quốc qia. Đánh giá
hiệu quả kinh tế, chi phí sản xuất và khả năng hoàn vốn đầu
tư ở từng ngành, từng khu vực kinh tế, đánh giá cơ cấu
ngành kinh tế….thông qua chỉ tiêu GDP, giúp nhà đầu tư
xem xét lựa chọn và đưa ra quyết định đầu tư. Do đó, để
đánh giá xu hướng phát triển chung của thị trường chứng
khoán, nhà đầu tư cũng cần phải xem xét đánh giá tốc độ
tăng trưởng GDP hoặc GNP .
GDP ở Việt Nam trong những năm (1995 - 2007) tăng
trưởng bình quân từ 7 - 10%, đây là mức tăng trưởng khá
cao. Chính điều này đã tác động, làm cho tốc độ tăng trưởng
của thị trường ở Việt Nam trong những năm qua là khá cao.

13


Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%)
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Dự
kiến
2008
GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44 7,0

(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, tr 69)

Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính

cho 2008
Thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt
Nam năm 2007 là kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tổng sản phẩm trong nước
ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn
14


năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm
gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc
độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung
Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các
nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu
vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm
nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng
kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33%
(riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và
10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức
8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Nếu không có thiên tai, dịch bệnh lớn như vừa trải qua, tốc
độ tăng GDP chắc chắn còn cao hơn 8,5%. Cơ cấu kinh tế
theo giá thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng
GDP khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới
20,0%/ so với 20,81% năm 2006, khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và
khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08%
trong 2 năm tương ứng. Nét mới trong năm 2007 là tỷ trọng
khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý
sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều
mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính

ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO. Năm 2008, do tốc
độ tăng giá (CPI) tăng nhanh nên Quốc hội đã giảm mục
tiêu tăng trưởng so với năm 2007, theo đó mục tiêu Quốc

15


hội đề ra cho cả năm 2008 với tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước chỉ là 7%
b. Lãi suất:
Lãi suất hiểu đơn giản là cái giá mà người đi vay
phải trả cho người có tiền cho vay. Khi phân tích nền kinh
tế nói chung để đi tới quyết định đầu tư vào thị trường
chứng khoán, nhất thiết phải xem xét đến lãi suất, yếu tố cơ
bản quyết định việc đầu tư. Lãi suất và xu hướng của lãi
suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng tới xu thế của tiết kiệm,
tiêu dùng và đầu tư, và do vậy ảnh hưởng tới hoạt động của
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư chứng khoán. Lãi suất
tăng sẽ hạn chế nhu cầu vay vốn để đầu tư mở rộng hoạt
động kinh doanh và đầu tư, ảnh hưởng đến mức lời của nhà
đầu tư, của các doanh nghiệp. Ngoài ra khi lãi suất tăng
cũng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng
nhiều hơn, do vậy cũng sẽ làm cho nhu cầu tiêu dùng giảm
xuống.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến
việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Nếu lãi suất mà ngân hàng trả cho người tiết
kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi
tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao nhưng lại có rủi ro
thấp hơn là đầu tư vào chứng khoán. Sự thay đổi về lãi suất

trên thị trường tiền tệ có tác động rất lớn đến cung cầu, giá
cả các loại chứng khoán. Một số chứng khoán dài hạn có lãi
16


suất thả nổi thường căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn
của ngân hàng để điều chỉnh. Hoặc khi định giá chứng
khoán tại một thời điểm nào đó trên thị trường, nhà đầu tư
có thể tham khảo lãi suất ngân hàng được hình thành trên
thị trường tiền tệ.
Do lãi suất là yếu tố cơ bản quyết định việc đầu tư,
nhà đầu tư cần nghiên cứu kỹ mối quan hệ giữa lãi suất và
giá chứng khoán.
a. Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu:
Đây là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá
của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi
suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với
lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ.
Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi
suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm và ngược lại, khi
lãi suất ngân hàng hạ thấp hơn lãi suất trái phiếu, giá trái
phiếu sẽ tăng.
b.

Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu:

Đây là mối quan hệ không trực tiếp và không hoàn toàn
diễn ra theo một chiều. Lý do ở chỗ, dòng tiền thu nhập của
cổ phiếu không cố định như của trái phiếu, mà chúng có thể

thay đổi cùng với lãi suất và mức thay đổi này có thể lớn
hơn hoặc nhỏ hơn thay đổi của lãi suất.
17


(1)Lãi suất tăng - giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng: xảy ra
khi giá hàng hóa bán ra của các công ty có thể tăng, dẫn đến
thu nhập của công ty tăng lên cùng với lạm phát do chi phí
đầu vào tăng. Do vậy, giá cổ phiếu trong trường hợp này có
thể giữ ổn định vì lãi suất chiết khấu tăng và dòng thu nhập
tăng bù đắp được cho nhau.
(2) Lãi suất tăng - giá cổ phiếu giảm: xảy ra khi các dòng
thu nhập tương lai của công ty tăng không nhiều hoặc thậm
chí giảm, vì trước đó công ty phải huy động vốn với lãi suất
cao, đến khi hàng hóa được sản xuất và bán ra thì lại gặp
phải sự cạnh tranh gay gắt, trong khi sức mua lại có hạn, thu
nhập của công ty giảm sút, công ty không có khả năng tăng
giá hàng hóa để bù lại mức lạm phát. Khi lãi suất giảm thì
cũng có thể xảy ra các khả năng tương tự.
(3)Lãi suất tăng - giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng: xảy ra
khi giá hàng hóa bán ra của các công ty có thể tăng, dẫn đến
thu nhập của công ty tăng lên cùng với lạm phát do chi phí
đầu vào tăng. Do vậy, giá cổ phiếu trong trường hợp này có
thể giữ ổn định vì lãi suất chiết khấu tăng và dòng thu nhập
tăng bù đắp được cho nhau.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, mối quan hệ giữa lãi suất
và giá cổ phiếu thường là quan hệ ngược chiều, nhất là
trong giai đoạn ngắn hạn, nhưng điều này không phải lúc
nào cũng đúng.
c. Mức độ lạm phát:

18


Bên cạnh lãi suất, yếu tố lạm phát cũng đóng vai trò
không kém vì nó dẫn đến sự khác nhau giữa lãi suất danh
nghĩa và lãi suất thực. Lạm phát cao hay thấp có ảnh hưởng
đến tốc độ đầu tư vào nền kinh tế. Ngoại trừ trường hợp lạm
phát nhỏ, lạm phát vừa phải (1 con số) có tác động tích cực
đến sự phát triển của nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát
đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của nền
kinh tế xã hội. Khi lạm phát quá cao sẽ không khuyến khích
tiết kiệm và tạo ra những rủi ro lớn cho nhà đầu tư, sức mua
của xã hội cũng bị giảm sút và làm cho nền kinh tế bị đình
trệ. Trái lại, thiểu phát cũng làm cho nền kinh tế bị trì trệ.
Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác dụng khuyến
khích đầu tư vào nền kinh tế, kích thích thị trường tăng
trưởng.
Lạm phát là một chỉ tiêu luôn được nhà đầu tư quan tâm,
bởi vì lạm phát cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế không ổn định,
lạm phát cao sẽ làm xói mòn kết quả sản xuất kinh doanh,
kết quả đầu tư. Cụ thể:
-

Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng
hóa bị tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp
khó khăn. Qui mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm
sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ
cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng
phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời
gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có

chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu
19


hướng bị đình đốn, phá sản. Bên cạnh đó việc đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính
xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác
hạch tóan chỉ còn là hình thức.
-

Người ta từ chối tiền trong vai trò là trung gian trao
đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng
hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều
này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối lọan.

-

Lạm phát xảy ra còn môi trường tốt để những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ,
tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo…

-

Thị trường chứng khoán, tín dụng cũng bị rơi vào
khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư
trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức
mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn
biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường
tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống
tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn

tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều
ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán và
thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị
rối loạn không thể kiểm soát nổi.

-

Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp
dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp
lực từ sự gia tăng của giá cả
20


-

…..

Như vậy, khi phân tích môi trường kinh tế vĩ mô, nhà
đầu tư không thể nào bỏ qua chỉ tiêu lạm phát. Mức độ lạm
phát vừa phải và ổn định là điều kiện hết sức quan trọng
nhằm đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững, là
điệu kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nói chung và
phát triển thị trường chứng khoán nói riêng.
d. Cán cân thanh toán:
Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế,
ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần
còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao
dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh
nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó.
Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài

sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ
xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một
năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người
cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào
bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía
người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước
được ghi vào bên tài sản có.
Theo quy tắc mới do IMF đề ra năm 1993 về cán cân
thanh toán, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm
bốn thành phần sau.:
(1) Tài khoản vãng lai
21


Tài khoản vãng lai bao gồm: Cán cân thương mại
hàng hóa, cán cân thương mại phi hàng hóa, các chuyển
khoản. Tài khoản vãng lai ghi chép những giao dịch về hàng
hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư
trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của
người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được
ghi vào bên "nợ". Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh
toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong
nước được ghi vào bên "có". Thặng dư tài khoản vãng lai
xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu
nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư.
Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập
nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản
vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài
chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững.

Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản
vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc
gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành
mạnh.
(2) Tài khoản vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ
phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất
cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất
động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền
22


tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia
khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người
sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của
người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản
vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào
ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
(3) Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân
hàng trung ương. Do tổng của tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng
giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối
tạo nên. Dự trữ ngoại hối có vai trò quan trọng trong việc ổn
định tiền tệ và nền tài chính quốc gia. Kinh nghiệm cuộc
khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 cho thấy: dự trữ
ngoại tệ thấp (cuối tháng 6/1997: 15tỷ USD) là một trong
những nguyên nhân làm cho đồng bath Thái lan bị “tấn
công” và khủng hoảng xảy ra.
(4) Mục sai số

Do khó có thể ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch
trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được và thực tế có thể
có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong
cán cân thanh toán như là mục sai số.
Cán cân thanh toán quốc tế do quan hệ xuất nhập
khẩu quyết định. Những căn bệnh trong nền kinh tế có thể
nảy sinh do sự thâm thủng mậu dịch và trong chừng mực
23


nào đó làm thay đổi môi trường kinh tế nói chung. Cán cân
thanh toán quốc tế ảnh hưởng nhiều đến khả năng trả nợ,
khả năng cân bằng ngân sách trong nước, khả năng duy trì
ổn định thị trường hối đoái và khả năng tích lũy của cả quốc
qia. Vì vậy, nó tác động rất nhiều đến thị trường chứng
khoán, đến quyết định đầu tư chứng khoán.
e. Xu hướng của tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là tỷ lệ
trao đổi giữa hai đồng tiền của hai nước. Cũng có thể gọi tỷ
giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính bằng một
đồng tiền khác. Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu
diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị đồng tiền nước này
(nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước
kia.
Ví dụ: tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar
Mỹ là 16045 VND/USD hay giữa Yen Nhật và Dollar Mỹ
là 116,729 JPY/USD hay giữa Dollar Mỹ và Euro là
1,28262 USD/Euro. Đồng tiền để ở số lượng một đơn vị
trong các tỷ lệ như những ví dụ trên gọi là đồng tiền định
danh hay đồng tiền cơ sở.

Sự biến động của tỷ giá làm thay đổi những điều
kiện kinh doanh nói chung, tạo ra những cơ hội và đe doạ
khác nhau đối với các doanh nghiệp, đặc biệt nó có tác động
điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu. Thông thường, chính
phủ sử dụng công cụ này để điều chỉnh quan hệ xuất nhập
24


khẩu theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Sự thay đổi tỷ giá
hối đoái có thể ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động xuất
nhập khẩu và ảnh hưởng tới hoạt động của cả nền kinh tế.
f. Thu nhập thực tế tính bình quân đầu người
Xu hướng tăng giảm của thu nhập thực tế tính bình
quân đầu người cũng là một yếu tố có tác động trực tiếp đến
quy mô và tính chất của thị trường trong tương lai. Nếu
không có hàng hóa chứng khoán thì không có thị trường
chứng khoán và thị trường chứng khoán có phát triển hay
không phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập bình quân đầu
người của người dân, phụ thưộc vào số tiền nhà đâu tư có
được dùng để đầu tư vào chứng khoán, phụ thuộc vào số
lượng người có thu nhập đủ để tích lũy và đầu tư vào thị
trường chứng khoán.
g. Hệ thống thuế và mức thuế:
Các điều khoản ưu đãi hay hạn chế của chính phủ với
các ngành được cụ thể hoá thông qua luật thuế. Sự thay đổi
của hệ thống thuế hoặc mức thuế có thể tạo ra những cơ hội
hoặc những nguy cơ đối với các doanh nghiệp, nó làm cho
mức chi phí hoặc thu nhập của nhà đầu tư thay đổi.
h.Các biến động trên thị trường tài chính:
Thị trường tài chính được coi là cơ sở hạ tầng, hệ

thống huyết mạch của nền kinh tế. Sự biến động của các chỉ
số trên thị trường tài chính có thể tác động, làm thay đổi giá
25


×