TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2011 - 2015
ĐỀ TÀI:
CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI
HUYỆN LẬP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP – BẤT CẬP VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN
Giáo viên hướng dẫn:
Thân Thị Ngọc Bích
Bộ môn Tư Pháp
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hoàng Minh
MSSV:5117406
Lớp: Tư Pháp K37
Cần Thơ, Tháng 11/2014
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
-----……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
-----……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
HĐTP
Bộ luật Tố tụng dân sự
Hội đồng Thẩm phán
HĐND
HTND
Hội đồng nhân dân
Hội thẩm nhân dân
NQHĐTP
TTDS
TAND
Nghị quyết Hội đồng thẩm phán
Tố tụng dân sự
Tòa án nhân dân
UBTVQH
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
UBND
Ủy Ban Nhân Dân
THADS
Thi hành án dân sự
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................2
5. Kết cấu của luận văn.................................................................................................2
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................3
1.1. Khái niệm chung..................................................................................................3
1.1.1. Khái niệm pháp luật thi hành án dân sự...........................................................3
1.1.2. Khái niệm quan hệ pháp luật thi hành án dân sự..............................................4
1.1.3. Khái niệm thi hành án dân sự ..........................................................................5
1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................................................7
1.3. Thành phần của quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự................................8
1.3.1. Chủ thể............................................................................................................8
1.3.2. Khách thể........................................................................................................9
1.3.3. Nội dung .......................................................................................................11
1.4. Vai trò của thi hành án dân sư..........................................................................11
1.4.1. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, các tổ chức và cá nhân...........11
1.4.2. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế ...........................................................................12
1.4.3. Bảo vệ quyền và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành
án dân sự.................................................................................................................13
1.4.4. Góp phần giữ gìn trật tự, kỹ cương, an toàn xã hội ........................................13
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ........................................................................................................................15
2.1. Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự ................................................................15
2.1.1. Các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.....................................15
2.1.2. Cơ quan thi hành án dân sự ...........................................................................16
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
2.1.2.1. Cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện...................................................16
2.1.2.2. Cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh ......................................................16
2.1.3. Chấp hành viên .............................................................................................16
2.2. Thủ tục thi hành án dân sự ...............................................................................18
2.2.1. Cấp, chuyển giao bản sao bản án, quyết định ................................................20
2.2.2. Quyền yêu cầu thi hành án, Thời hiệu thi hành án .........................................20
2.2.3. Chủ động ra quyết định thi hành án, ra quyết định thi hành án. .....................21
2.2.4. Tổ chức thi hành án.......................................................................................22
2.2.5. Hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án ...................25
2.2.6. Kết thúc thi hành án ......................................................................................33
CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN
HUYỆN LẤP VÒ - GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN........................................................38
3.1. Thực tiễn thi hành án dân sự ở huyện Lấp Vò.................................................38
3.1.1. Khái quát về Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò ...............................38
3.1.2. Khái quát về hoạt động Tư pháp huyện Lấp Vò.............................................39
3.1.3. Về tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự ở huyện Lấp Vò..............40
3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động thi hành án dân sự huyện Lấp
Vò ..............................................................................................................................40
3.2.1. Những thuận lợi ............................................................................................40
3.2.2. Những khó khăn............................................................................................43
3.2.2.1. Những tồn tại và hạn chế ........................................................................43
3.2.2.2. Nguyên nhân ..........................................................................................43
3.2.3. Một số vụ điển hình ......................................................................................44
3.3. Giải pháp hoàn thiện .........................................................................................48
3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về thi hành án dân sự...52
KẾT LUẬN ..................................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................56
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động THA nói chung và hoạt động THADS nói riêng có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với mọi phương diện của đời sống. Về mặt Nhà nước, thi hành án là một
trong những phương thức thực hiện quyền lực, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ lợi
ích của nhân dân. Đối với đời sống xã hội, THA góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho các cơ quan tổ chức và mọi công dân, tạo niềm tin vững chắc của nhân dân đối với
pháp luật của quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Hiến pháp 2013 khẳng định: “Bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.1
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
mục tiêu trong những năm tới chuyển biến mạnh mẽ trong công tác THADS, nâng cao
hiệu quả công tác THA, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống cơ quan THADS, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan
THA”. Nhiều năm qua, Chính phủ đã xác định công tác THADS là một trong những
trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác
này.
Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, vô số các quan hệ giao dịch được
phát sinh dẫn đến các tranh chấp cũng nhiều hơn, số lượng công việc mà các cơ quan tư
pháp phải giải quyết vì thế cũng ngày càng tăng, và tính chất cũng phức tạp hơn.
Trong những năm qua, công tác THADS ở huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ
chức thi hành dứt điểm; một số án có tính chất phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng về kinh
tế, trật tự an toàn xã hội cũng được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt
được phản ánh sự cố gắng, nổ lực của toàn nghành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ
cán bộ THADS nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương, sự phối hợp chặt chẽ của các nghành hữu quan trong việc thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả của công tác THA ở huyện
Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp vẫn còn là vấn đề phải bàn luận. Trong công tác THADS những
năm qua số án tồn đọng vẫn còn nhiều, với số lượng lớn ngày càng tăng, án xếp vào diện
không có điều kiện thi hành chiếm tỉ lệ lớn, nhiều vụ việc kéo dài đến nay vẫn chưa được
giải quyết dứt điểm đòi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ những ách tắc trong hoạt động
THADS.
1
Điều 106 Hiến pháp 2013
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
1
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
Từ những lý do trên, người viết đã lựa chọn đề tài: “ Công tác thi hành án dân sự
tại huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ thực tiễn công tác THADS ở huyện Lấp Vò tỉnh Đồng
Tháp, trên cơ sở đó góp phần đánh giá được thực trạng và tìm ra nguyên nhân dẫn đến án
tồn đọng để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc hiện
nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về THA và thực tiễn công
tác THADS ở huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp hiện nay thông qua số liệu của cơ quan
THADS huyện và các cơ quan liên quan đến THADS ở huyện Lấp Vò từ năm 2011 đến
năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra luận văn còn
kết hợp các phương pháp như: logic, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Đề tài: “Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp” ngoài lời
nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính gồm:
- Chương 1: Những vấn đề chung về thi hành án dân sự.
-
Chương 2: Quy định của pháp luật về công tác thi hành án dân sự.
Chương 3: Những vấn đề tồn tại trong công tác thi hành án tại huyện Lấp Vò.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
2
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thi hành án dân sự (sau đây xin gọi tắt là THADS) là một giai đoạn nhằm thực
hiện những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án Nhân dân trong cuộc
sống, biến các quyết định của Tòa án trong những bản án, quyết định đó thành hiệu lực
trong thực tế.
1.1. Khái niệm chung
THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự: hình phạt tiền, tịch thu
tài sản, truy thu tiền- tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết
định dân sự trong bản án, quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành
chính của Tòa án; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên
phải thi hành của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương
mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định).2 Đây là công đoạn cuối cùng trong hoạt
động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ việc của Tòa án nói riêng. Thông qua
đã, bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức và Nhà nước được bảo vệ, góp phần đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể nói THA dân sự là một
giai đoạn nhằm thực hiện những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án
nhân dân trong cuộc sống, biến các quyết định của Tòa án trong những bản án trở thành
thực tế.
1.1.1. Khái niệm pháp luật thi hành án dân sự
Pháp luật THADS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định về dân sự, bao gồm
các quy định về quyền, nghĩa vụ của người được THA, người phải THA, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan… Được quy định cụ thể từ Hiến pháp 2013, Bộ luật Dân sự 2005,
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 01/11 của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS… điều được coi là pháp luật THADS.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật THADS tuy còn những tồn tại
nhất định, nhưng pháp luật THADS đã chuyển hóa được vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực của chính quyền, ý chí của nhân dân và đồng thuận của xã hội để tạo ra những chuyển
biến tích cực về THADS.
Hiện nay, Bộ luật THADS đang được gấp rút soạn thảo để trình cơ quan có thẩm
quyền ban hành nhằm khắc phục những bất hợp lý, tháo gỡ khó khăn tồn tại trong công
tác THADS. Bộ luật THADS sau khi được thông qua sẽ là văn bản pháp luật vô cùng
2
Trương Thanh Hùng, “Giáo trình Luật tố tụng dân sự” , Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, 2008, tr. 7
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
3
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta. Lý do là một tranh chấp dù được giai quyết
bằng quy phạm pháp luật thực chất là thông qua các về tố tụng thì cũng điều dẫn đến giai
đoạn phải thi hành bản án của Tòa án. Bộ luật THADS xây dựng trên cơ sở quán triệt
quan điểm chỉ đạo điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực về THA bảo đảm được nhiệm vụ
quản lý nhà nước về THADS tập trung vào một đầu mối là Bộ tư pháp nhưng không tách
rời sự quản lý, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương, đồng thời xã hội hóa
một phần công tác THA là cơ sở pháp lý để tăng cường nâng cao hiệu quả hoạt động của
công tác THA nói riêng và ngành Tư pháp nói chung.
Như vậy có thể hiểu “PLTHADS là hệ thống các quy tắc xư sự chung thẻ chế hóa
đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THADS”.
1.1.2. Khái niệm quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Quan hệ pháp luật thi hành ấn dân sự là những quan hệ nảy sinh trong đời sống xã
hội trong đó các chủ thể tham gia có những quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định
và bảo đảm thưc hiện. Quan hệ pháp luật THADS là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội
dưới tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật.
Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được luật điều chỉnh. Quan hệ pháp
luật thi hành án cũng là một quan hệ xã hội được luật thi hành án điều chỉnh.
Cấu thành của một quan hệ pháp luật nói chung gồm 3 phần: chủ thể, khách thể, nội dung
quan hệ.
- Chủ thể: cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật.
- Khách thể: là những gì các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào
quan hệ pháp luật này
- Nội dung quan hệ pháp luật: quyền và nghĩa vụ của từng bên chủ thể
- Về Chủ thể: chủ thể tham gia vào pháp luật quan hệ dân sự gồm có cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác).
- Về khách thể: khách thể của quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự là mục đích
mà đương sự đã yêu cầu cơ quan thi hành án phải thi hành theo bản án, quyết định của
tòa án đã có hiệu lực pháp luật
- Về nội dung: nội dung quan hệ trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là các
quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định cho các chủ thể khi họ tham gia vào các quan
hệ pháp luật đó.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
4
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
1.1.3. Khái niệm thi hành án dân sự
THADS là một giai đoạn nhằm thực hiện những Bản án, Quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án. Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản pháp lý vẫn chưa có điều
luật nào nêu lên khái niệm cụ thể thế nào là THADS. Để làm rõ khái niệm THADS, trước
tiên cần phải làm rõ khái niệm THA.
THA là một hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định để đưa Bản án, Quyết định của Tòa án
hoặc Quyết định khác theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế nhằm bảo
đảm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.3
Đối với lĩnh vực THADS, trước hết cần phải hiểu thi hành án dân sự là thực hiện
các Bản án, Quyết định dân sự của Tòa án hoặc Quyết định khác do pháp luật quy định,
trên thực tế. Đó là các Bản án, Quyết định dân sự được quy định tại Điều 375 của Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004:
Điều 375. Những bản án, quyết định của Tòa án được thi hành
1. Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án được thi hành là những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay
mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở
lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Những Bản án, Quyết định ở khoản 1 vừa nêu không chỉ bao gồm những Bản án,
Quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế mà còn bao gồm Quyết
định dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất
chính, án phí trong Bản án, Quyết định của Tòa án về hình sự, Quyết định về phần tài sản
3
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái,”Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”, Dân chủ &
Pháp luật, số 5 (158)-2005.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
5
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
trong Bản án, Quyết định của Tòa án về hành chính, Bản án, Quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài, Quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có Quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt nam.
Căn cứ để đưa ra thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án được quy định tại Điều
376 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004:
Điều 376. Căn cứ để đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành khi có các căn cứ sau đây:
1. Bản án, quyết định được thi hành quy định tại Điều 375 của Bộ luật này;
2. Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Như vậy, những Bản án, Quyết định được đưa ra thi hành bao gồm hai loại, đó là:
Thứ nhất: những Bản án, Quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Đó là Bản án, Quyết định hoặc phần Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, Quyết định của Tòa án cấp phúc
thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, Quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài, Quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có Quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt nam.
Thứ hai: những Bản án, Quyết định dân sự của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay. Đó là những Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về
cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất
việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh
thần của công dân; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Để Bản án, Quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành phải thỏa mãn đồng thời
hai căn cứ: thứ nhất, Bản án, Quyết định đó phải thỏa mãn những điều kiện được quy
định tại khoản 1 Điều 375 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; thứ hai: phải có Quyết
định thi hành của cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự hiện nay còn hai quan điểm khác nhau về
nghĩa rộng và nghĩa hẹp về khái niệm “Dân sự”.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: khái niệm “Dân sự” trong thi hành án dân sự được
hiểu là những Bản án, Quyết định liên quan đến tài sản và nhân thân phi tài sản như Bản
án, Quyết định về giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia
đình, và một số loại án khác có tính chất dân sự 4. Quan điểm như thế vì dựa trên cơ sở
Điều 1 của Bộ luật dân sự năm 1995, theo đó quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản
và nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: khái niệm “Dân sự” ở đây phải được hiểu theo nghĩa
4
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái, “Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”, Dân chủ &
Pháp luật, số 5 (158)-2005.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
6
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
rộng, đó không chỉ bao gồm các Bản án, Quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các
loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình, và một số loại án khác có tính chất dân sự
của Tòa án, mà còn bao gồm các Bản án, Quyết định khác do pháp luật quy định. Xung
quanh vấn đề này có thể thấy pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, việc tổ chức thi
hành các Bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động) được thực hiện theo một thủ tục chung mà không có sự tách bạch
căn bản về thực thi án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, lao động 5.
Người viết đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ: theo quy định của pháp luật
hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác
nhau, nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án
dân sự đã nêu. Vì vậy, phạm vi thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm: Bán án, Quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về
tài sản trong Bản án, Quyết định hình sự về bồi thường thiệt hại; Quyết định về tài sản và
quyền tài sản trong Bản án, Quyết định hành chính; Bản án, Quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài, Quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt nam công nhận và
cho thi hành ở Việt nam. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật của nhiều nước
trên thế giới.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau:
Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp do Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên
tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, để đưa Bản án, Quyết định dân sự
có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc các Quyết định khác theo quy định của pháp luật
được thực hiện trên thực tế, nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa6.
1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
- Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản. Bản chất của các quan hệ dân
sự là quan hệ mang tính tài sản chính vì thế mà quá trình thi hành án dân sự cũng mang
tính tài sản.
- Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt. Xuất phát từ quyền tự định
đoạt của các chủ thể trong luật dân sự. Chủ thể có quyền được yêu cầu chủ thể khác thực
hiện những hành vi nhất định hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng
lợi ích.
- Thi hành án dân sự còn là hoạt động mang tính thỏa thuận. Pháp luật công nhận
sự thỏa thuận tự nguyện của người được thi hành án và người phải thi hành án về việc
5
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái, “Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”, Dân chủ &
Pháp luật, số 5 (158)-2005.
6
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái, “Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”, Dân chủ &
Pháp luật, số 5 (158)-2005.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
7
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
chấp hành quyết định của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức
xã hội.
- Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm
hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án, được sử dụng các biện pháp
cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động thi hành án dân sự phải tuân thủ những trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định.
- Trong quá trình thi hành án dân sự Chấp hành viên, cán bộ thi hành án độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật.
1.3. Thành phần của quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự
Khi nghiên cứu về khoa học pháp lý về nhà nước và pháp luật đã khẳng định
“quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh do tác động hữu cơ giữa quy phạm pháp
luật và sự kiện pháp lý tương ướng làm xuất hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể tham gia quan hệ đó”, từ đó có thể hiểu quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là
những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thi hành án dân sự do các quy pháp pháp
luật thi hành án dân sự điều chỉnh trong đó các chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối với
nhau và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Thành phần của quan hệ pháp luật về thi
hành án dân sự bao gồm các yếu tố cụ thể sau:
1.3.1. Chủ thể
Để hiểu rõ chủ thể trong thi hành án là gì thì trước tiên ta phải tìm hiểu chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự là gì, chủ thể tham gia pháp luật tố tụng dân sự là gì, để chúng
ta có cái nhìn tổng quát hơn cụ thể hơn về thành phần quan hệ pháp luật thi hành án dân
sư.
Theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự “là
những con người cụ thể tham gia làm nên quan hệ đó nhằm thực hiện các quyền và nghĩa
vụ pháp luật nhất định”, như vậy chủ thể tham gia vào pháp luật quan hệ dân sự gồm có
cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác).
Theo Điều 4, Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011) thì “cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự
tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hoặc của người khác”. Như vậy chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
bao gồm, cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Theo quy định quyền yêu cầu thi hành án dân sự tại Điều 7, Luật Thi hành án dân
sư năm 2008 thì “người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án,
quyết định có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án”. Như vậy
thì chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự bao gồm, người được thi
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
8
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
hành án, người phải thi hành án và cơ quan nhà nước về thi hành án dân sự, chấp hành
viên.
Người được thi hành án dân sự, là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền,
lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành.
Người phải thi hành án, là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong
bản án, quyết định được thi hành.
Cơ quan thi hành án dân sự, là cơ quan trực tiếp thực hiện thi hành bản án, quyết
định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Chấp hành viên, là người được nhà nước giao
nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của tòa án. Đây là chủ thể đặc biệt mang quyền
lực nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình có quyền áp dụng các biện
pháp cụ thể mà pháp luật quy định.
Trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự luôn tồn tại ba chủ thể với địa vị pháp
lý khác nhau, đó là cơ quan thi hành án dân dự, chấp hành viên với người phải thi hành
án và người được thi hành án. Cơ quan thi hành án và chấp hành viên tham gia quan hệ
pháp luật về thi hành án dân sự không phải vì lợi ích của chính mình, mà nhân danh cơ
quan nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước, nhằm đảm bảo thi hành trên thực tế phán
quyết của tòa án, đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Khách thể
Theo cách hiểu thông thường về quan hệ pháp luật dân sự thì “khách thể của một
quan hệ pháp luật là mục đích mà các chủ thể hướng tới khi thiết lập quan hệ, là những
lợi ích được nhà nước bảo đảm thực hiện”. Như vậy khách thể của quan hệ pháp luật về
thi hành án dân sự là mục đích mà đương sự đã yêu cầu cơ quan thi hành án phải thi hành
theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khách thể này được thực hiện
thi hành theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu luật pháp luật và được đảm bảo thi
hành bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước khi các bên không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Đối với Người được thi hành án dân sự: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 44
Luật Thi hành án dân sự và khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày
13/7/2008 của Chính phủ thì người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền
cho người khác xác minh điều kiện thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ
thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung
cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người
được thi hành án ủy quyền có yêu cầu. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đó từ chối
cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. Kết quả xác minh được công nhận và
làm căn cứ để tổ chức việc thi hành án, trừ trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết phải
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
9
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
xác minh lại. Việc xác minh lại của Chấp hành viên được tiến hành trong thời hạn 10
ngày, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp. Trường hợp người
được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật,
thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
Do vậy, khi yêu cầu thi hành án, người được thi hành án phải cung cấp thông tin
về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Để có được thông tin về
tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, người được thi hành thực
hiện việc xác minh điều kiện thi hành án theo quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân
sự. Trường hợp nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không
thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu
Chấp hành viên tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và
phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu
chứng minh.
Đối với Người phải thi hành án dân sự: Tại Điều 45 Luật THA dân sự quy định:
“Thời hạn tự nguyện THA là 15 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định thi hành án”; Vấn đề là tại sao việc tự nguyện THA đến khi
có quyết định THA mà còn ấn định thời hạn tự nguyện thi hành. Nếu người phạm tội mà
tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra,
thì có lẽ Toà án nhân dân không phải xét xử phần dân sự trong bản án hình sự mà còn áp
dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Người có lỗi vi phạm nghĩa vụ
dân sự mà tự nguyện thực hiện nghĩa vụ dân sự thì Toà án nhân dân sẽ giảm được áp lực
xét xữ vụ án dân sự…
Tại Điều 9 Luật THA dân sự quy định: “ Nhà nước khuyến khích đương sự tự
nguyện thi hành án; Cụm từ “Nhà nước…” trước hết tại sao không phải là Toà án nhân
dân đã ban hành bản án, quyết định có trách nhiệm khuyến khích các đương sự tự nguyện
thi hành ngay sau khi tuyên án; Vì việc khuyến khích đương sự tự nguyện THA không
tốn kém gì nhiều về công sức của Hội đồng xét xử, không ảnh hướng đến tính khách
quan công bằng trong việc tuyên án, mà mang lại được nhiều lợi ích chung.
Mặt khác, sơ kết 02 năm thực hiện Luật THADS năm 2008 cho thấy, quy định tại
Điều 175 về nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp xã; Điều 180 về nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành hình
phạt tù; Góp phần tháo gỡ được nhiều khó khăn vướng mắc trong THA dân sự hơn, so
với thời kỳ áp dụng Pháp lệnh THA dân sự năm 2004.
Tuy nhiên, người phải thi hành có đa dạng nơi cư trú và công tác, do vậy cũng có
đa dạng cơ quan, tổ chức nơi có người phải THA cư trú, công tác; Trong thực tiễn cũng
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
10
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
có một số cơ quan, tổ chức nơi có người phải thi hành cư trú công tác, tôn trọng bản án
quyết định của Toà án, mặc dù không có qui định về nhiệm vụ, quyền hạn trong THA
dân sự, nhưng vẫn tích cực tác động giáo dục thuyết phục người phải THA tự nguyện thi
hành, có hiệu quả. Ngược lại cũng có một số cơ quan, tổ chức nơi có người phải thi hành
không quan tâm hoặc tác động ngược, giúp người phải THA trốn tránh việc thi hành án,
làm cho việc THA thêm phức tạp, khó thi hành. s
-
Đối với Cơ quan thi hành án dân sự
1.3.3. Nội dung
Nội dung của một quan hệ pháp luật là các quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy
định cho các chủ thể khi họ tham gia vào các quan hệ pháp luật đó. Do vậy nội dung của
quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự là quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể trong quan
hệ về pháp luật thi hành án phải thực hiện theo đúng quy định pháp luậ khi bản án, quyết
định của tòa án đã có hiệu luật pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan
hệ pháp luật về thi hành án dân sự được pháp luật quy định cụ thể trong Luật thi hành án
dân sự năm 2008, văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành án dân sự và các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan có liên quan, cụ thể một số quy định như: Điều 6,
Luật thi hành án dân sư năm 2008 quy định về Thoả thuận thi hành án “Đương sự có
quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội, kết quả thi hành án theo thoả thuận được công
nhận” và “đương sự có quyền yêu cầu chấp hành viên có chứng kiến việc thoả thuận về
thi hành án” và “Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu
cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung
bản án, quyết định. Điều 7, Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về Quyền yêu cầu thi
hành án “Người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định
có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án”. Điều 9, Luật thi hành
án dân sự năm 2008 quy định về nghĩa vụ tự nguyện thi hành án “Người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định”.
1.4. Vai trò của thi hành án dân sư
1.4.1. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, các tổ chức và cá nhân
Theo Điều 5 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về Bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì “Trong quá trình thi hành
án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được
tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” và Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định “Bản
án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Như
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
11
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
vậy, việc thi hành án dân sự là nhằm mục đích làm cho các bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nhân dân được thực hiện trên thực tế và đúng quy định, nhằm đảm bảo quyền lợi
của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, mọi hành vi thi hành chậm bản án, thi hành không
đúng nội dung hoặc không thi hành điều xâm phạm và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và cá nhân đồng nghĩa với việc bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có
hiệu lực thi hành không được tôn trọng, pháp luật của nhà nước bị xem thường, vì vậy,
việc thực hiện đúng quy định về thi hành án dân sự không những dảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật mà còn bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức và cá nhân.
Để việc thi hành án dân sự đạt hiệu quả, đúng mục đích của quy định pháp luật về
thi hành án dân sự thì đòi hỏi toàn hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự, từ hoạt
động bộ máy đến hoạt động của chấp hành viên và của công chức, viên chức làm công
tác thi hành án dân sự phải được vận hành một cách nhip nhàng thống nhất, đúng pháp
luật và bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật hoặc của trọng tài
Thương mại phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và thi hành đúng quy định
pháp luật có như vậy thì việc thi hành án dân sự mới đảm bảo được quyền lợi của Nhà
nước, tổ chức và cá nhân.
1.4.2. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế
Hiện nay quá trình hội nhập kinh tế, xã hội, văn hóa quốc tế của nước ta diễn ra rất
mạnh mẽ, sâu rộng và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vưc
thi hành án dân sự, do thời kỳ mở cửa phát triển kinh tế nên có rất nhiều tổ chức, cá nhân
nước ngoài vào đầu tư, làm ăn trên lãnh thổ nước ta, do đó việc tranh chấp về dân sự và
khiếu kiện về dân sự là không tránh khỏi, trong thực tế có rất nhiều trường hợp thi hành
án dân sự nói chung và án tồn động nói riêng có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Việc
thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quan hệ dân sự, thương
mại, kinh tế trong điều kiện hội nhập, tạo niềm tin và thúc đẩy sự phát triển các quan hệ
quốc tế ngày càng sâu rộng. Vì vậy để góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, thì phải tổ chức thi hành án dân sự có hiệu quả dứt điểm các bản án, quyết định có yếu
tố nước ngoài của Tòa ná nhân dân và các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam góp phần đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó việc đẩy mạnh hợp tác về lĩnh vực thi hành án dân sự vừa
là yêu cầu vừa là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của cơ quan thi hành án trong giai
đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
12
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
1.4.3. Bảo vệ quyền và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
thi hành án dân sự
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc hoạt động của Nhà
nước, theo quy định tại Điều 8 Hiến Pháp năm 2013 quy định “Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự
đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức và công dân phải triệt để tuân theo và chấp
hành quy định của pháp luật, pháp chế xã hội còn là nguyên tắc xử sự theo pháp luật của
công dân, trong mối quan hệ giũa công dân với Nhà nước, công dân với các tổ chức xã
hội và giữa công dân với nhau, mọi người phải xử sự theo quy định pháp luật đã ban
hành và Theo Điều 4 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định “cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án,
quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”. Như vậy, theo
quy định của Luật thì tất cả các đối tượng có liên quan như cơ quan thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sư, các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác liên quan đến thi hành án dân sự phải có trách nhiệm thi hành bản án, quyết
định một cách nghiêm chỉnh và đúng pháp luật. Như vậy, ta thấy hiệu lực của bản án,
quyết định có được thi hành đúng quy định hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong
đó, các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tuân theo quy định pháp luật là yếu tố cơ
bản nhất. Do đó, việc chấp hành đúng quy định pháp luật về thi hành án dân sự nhất là
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân về dân sự và quyết định
của Trọng tài Thương mại không những đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn
góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước nước hiện nay.
1.4.4. Góp phần giữ gìn trật tự, kỹ cương, an toàn xã hội
Việc thi hành án dân sự là làm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án dân nhân được thực hiện trong thực tế, nếu không được tổ chức thi hành thì toàn
bộ kết quả của quá trình tố tụng trước đó trở thành vô nghĩa và kỹ cương, phép nước bị
xem thường vì Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước trong hoạt
động xét xử và nhân danh Nhà nước phán quyết ác vụ việc dân sự. Vì vậy, việc phán
quyết của Tòa án nhân dân tuyệt đối với được tôn trọng và được thi hành đúng quy định.
Việc thi hành án dân sự đsng quy định sẽ làm cho quan hệ xã hội bị xâm hại được khôi
phục lại tình trạng ban đầu, trật tự xã họi được lập lại. Bản án, quyết định được thi hành
một cách triệt để sẽ tác động rất lớn đến ý thức, nhận thức chấp hành pháp luật của
nguwoif thi hành án, người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và
của toàn xã hội, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân và làm cho
mọi người hiểu biết thêm về pháp luật để tuân thủ và làm theo quy dịnh của pháp luật góp
phần gìn giử trật tự kỹ cương và ổn định xã hội. Nội dung của các bản án là bảo vệ quyền
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
13
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại, nghĩ vụ dân sự là
nghĩa vụ bồi thường tài sản, mà tài sản có ý nghĩa rất lớn đến đời sống của người dân, do
đó quá trình giải quyết một vụ án, vụ việc được xem như kết thúc khi bản án, quyết dịnh
được thi hành xong. Nếu bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
lại không được thi hành mà chỉ nằm trên giấy thì không những pháp luật không được tôn
trọng mà còn ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, làm cho
khiếu nại, tố cáo kéo dài gây búc xúc trong nhân dân, làm lòng dân không yên, nhân dân
sẽ không tin vào Nhà nước, không tin vào bộ máy công quyền nữa. Vì vậy việc thi hành
tốt, đúng quy định thi hành án dân sự sẽ góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội và phát
triển kinh tế - xã hội đất nước
Kết luận chương 1: Quá trình phát triển của pháp luật THA dân sự cho thấy xu
hướng xã hội hóa trong lĩnh vực THA dân sự ngày càng được mở rộng biểu hiện trên một
số mặt sau: Các việc do Nhà nước chủ động thi hành ngày càng bị thu hẹp lại, đồng thời
việc THA do đương sự yêu cầu ngày càng chiếm vị trí chủ yếu trong THA dân sự; Bên
cạnh đơn yêu cầu, người được THA dân sự còn có nghĩa vụ cung cấp địa chỉ, tình hình
tài sản, thu nhập của người phải THA dân sự; khi trả đơn yêu cầu thì phải theo dõi, phát
hiện tài sản của người phải THA dân sự để yêu cầu trở lại;Người phải THA dân sự phải
chịu mọi chi phí cưỡng chế THA dân sự; Nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện trong quá
trình THA dân sự.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
14
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự
Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng hình sự, nhằm
đưa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành trên thực tế theo trình
tự thủ tục đã được quy định nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ mà tố tụng hình sự
đặt ra. Trong đó, việc thi hành án hình phạt tiền cũng là một mặt, một bộ phận trong công
tác thi hành án dân sự.
Theo Điều 13 Luật Thi hành án năm 2008 quy định về Hệ thống tổ chức thi hành
án dân sự thì: Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự bao gồm:
1. Cơ quan quản lý thi hành án dân sự:
a) Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;
b) Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
2. Cơ quan thi hành án dân sự:
a) Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh);
b) Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện);
c) Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành
án cấp quân khu).
Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự; tên
gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ quan thi hành án dân sự.
2.1.1. Các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
Về các cơ quan quản lý nhà nước tong THADS chia làm hai nhóm. Nhóm quản lý
theo lãnh thổ và nhóm quản lý theo ngành.
Quản lý theo lãnh thổ: Chính phủ; Bộ Tư pháp; Bộ Quốc phòng; Ủy ban nhân dân
7
các cấp . Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan được phân cấp theo từng cấp
cơ quan. Em cần trình bày rõ từng cấp cơ quan này có nhiệm vụ như thế nào.
Quản lý theo ngành: Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án
- Bộ Quốc phòng8.
7
Xem: Chương 8, Luật Thi hành án dân sự 2008.
Xem: Nghị định số 74/2009/NĐ-CP,
[truy cập ngày
20/02/2014].
8
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
15
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
2.1.2. Cơ quan thi hành án dân sự
2.1.2.1. Cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện
Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
THA dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định. Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật
chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan
THA dân sự cấp tỉnh; chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, THA dân sự theo quy
định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan THA dân sự cấp tỉnh. Lập hồ sơ đề nghị xét
miễn, giảm nghĩa vụ THA dân sự. Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định. Báo cáo công tác THA dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có
yêu cầu.
2.1.2.2. Cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh
Thực hiện việc quản lý, chỉ đạo về THA dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, bao gồm: Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật
trong hoạt động THA dân sự. Chỉ đạo hoạt động THA dân sự đối với cơ quan THA dân
sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ THA dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác
của cơ quan THA dân sự trên địa bàn. Kiểm tra công tác THA dân sự đối với cơ quan
THA dân sự cấp huyện. Tổng kết thực tiễn THA dân sự; thực hiện chế độ thống kê, báo
cáo công tác tổ chức, hoạt động THA dân sự theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THA
dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.
Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THA dân sự; phối hợp với cơ quan Công
an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho
người có nghĩa vụ THA dân sự đang chấp hành hình phạt tù.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THA dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của
Luật này.
Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của cơ
quan THA dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý THA dân
sự thuộc Bộ Tư pháp.
Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo quy định và báo
cáo công tác THA dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu.
2.1.3. Chấp hành viên
Theo quy định tại điều 17 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên là người
được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2
của Luật Thi hành án dân sự 2008. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp,
Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
16
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
Về vị trí, vai trò của Chấp hành viên: Chấp hành viên là một chức danh tư pháp
“được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định” của Tòa án và cơ quan
tài phán khác theo quy định của pháp luật. Chấp hành viên bao gồm Chấp hành viên sơ
cấp, Chấp hành viên trung cấp, Chấp hành viên cao cấp. (Điều 17 Luật Thi hành án dân
sự)
Về bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên: Bên cạnh những phẩm chất chung
của người cán bộ, công chức thì Luật Thi hành án dân sự còn quy định Chấp hành viên
phải đáp ứng được những tiêu chuẩn đặc thù với chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo đó
“Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo
đức tốt, có trình độ cử nhân Luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao
thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên”. Ngoài ra Chấp hành viên phải là người đã
được đào tạo về nghiệp vụ thi hành án dân sự.
Mỗi loại Chấp hành viên lại có những tiêu chuẩn riêng: Chấp hành viên sơ cấp
phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 3 năm trở lên; Chấp hành viên trung cấp phải
có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 5 năm trở lên, hoặc trong trường hợp đặc biệt
thì phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên; Chấp hành viên cao cấp
phải có thời gian làm chấp hành viên trung cấp từ 5 năm trở lên, hoặc trong trường hợp
đặc biệt thì phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên.
Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm sau khi đã trúng tuyển kỳ thi tuyển
Chấp hành viên. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác
đến cơ quan Thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên mà không
phải qua thi tuyển (Điều 17, 18 Luật Thi hành án dân sự).
Ngoài trường hợp Chấp hành viên đương nhiên được miễn nhiệm trong trường
hợp nghỉ hưu hoặc chuyển đến cơ quan khác thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, miễn
nhiệm Chấp hành viên trong trường hợp do hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe mà xét
thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc do năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác
mà không còn đủ tiêu chuẩn làm Chấp hành viên. (Điều 19 Luật Thi hành án dân sự).
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên: Luật Thi hành án dân sự đã bổ
sung nhiều quy định mới so với pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, nhằm đáp ứng
yêu cầu tác nghiệp của Chấp hành viên. Để thực hiện chức năng “thi hành đúng nội dung
bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành
án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan...”, Chấp hành viên có các quyền năng, nhiệm vụ cụ thể như: triệu
tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án; xác
minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu các cơ quan, tổ
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
17
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải
thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những
việc khác liên quan đến việc thi hành án. Đặc biệt, Chấp hành viên còn có quyền yêu cầu
cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật
và được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định. (Điều 20 Luật
Thi hành án dân sự).
Để nâng cao trách nhiệm, đồng thời để bảo đảm tính công minh khách quan của
Chấp hành viên trong công tác, Luật Thi hành án dân sự đã dành hẳn một điều quy định
những việc Chấp hành viên không được làm như: Tư vấn cho đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành trái pháp luật; can thiệp trái pháp luật vào
việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người
có trách nhiệm thi hành án; thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của
bản thân và của những người thân thích như: vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, cha nuôi, mẹ
nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô dì, anh, chị em ruột...; sách
nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi
hành án... (Điều 21 Luật Thi hành án dân sự).
2.2. Thủ tục thi hành án dân sự
Các quy định của Luật THA dân sự cho thấy, những quy định về thủ tục THA dân
sự đã góp phần tháo gỡ kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong công tác THA dân sự,
đặc biệt, đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết án tồn đọng, một vấn đề nhức nhối, kéo
dài trong nhiều năm qua, thể hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Tòa án.
Những vấn đề chung về trình tự, thủ tục THA dân sự, như trách nhiệm chuyển giao và
giải thích bản án, quyết định của toà án, thời hiệu yêu cầu THA dân sự, phí THA dân sự,
thẩm quyền ra quyết định THA dân sự, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục uỷ thác, hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ, trả đơn yêu cầu THA dân sự, thông báo về THA dân sự, miễn giảm
THA dân sự... đã có những quy định khá cụ thể phù hợp với tình hình phát triển kinh tếxã hội của đất nước, với tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính trong giai đoạn
hiện nay.
Điểm mới trong quy định về hướng dẫn quyền yêu cầu THA dân sự là khi ra bản
án, quyết định, Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại phải giải
thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu THA dân
sự, nghĩa vụ THA dân sự, thời hiệu yêu cầu THA dân sự. Quy định này nhằm bảo đảm
cho việc thực hiện quyền yêu cầu THA dân sự, hạn chế thấp nhất tình trạng nhận thức
không rõ về quyền yêu cầu THA dân sự dẫn đến tình trạng yêu cầu THA dân sự không
đúng nội dung quyền, nghĩa vụ theo bản án, quyết định hoặc yêu cầu THA dân sự khi đã
hết thời hiệu yêu cầu THA dân sự, vừa nâng cao trách nhiệm của Toà án và nghĩa vụ của
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
18
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương
LVTN: Công tác thi hành án dân sự tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và hướng
hoàn thiện
đương sự, vừa tạo điều kiện cho đương sự nhận thức về quyền, nghĩa vụ và thời hiệu yêu
cầu THA dân sự. Mặt khác, Toà án đã ra bản án, quyết định phải cấp cho đương sự bản
án, quyết định có ghi “Để thi hành”.
Đối với bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan THA dân sự chủ động ra
quyết định THA dân sự, Luật THA dân sự quy định Toà án chuyển giao cho cơ quan
THA dân sự trong thời hạn cụ thể đối với từng trường hợp như sau:
Đối với bản án, quyết định, phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc
thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam, thì Tòa án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao
cho cơ quan THA dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật.
Đối với bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc, thì Tòa án đã
ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan THA dân sự trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày ra bản án, quyết định.
Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án đã ra quyết định
phải chuyển giao cho cơ quan THA dân sự ngay sau khi ra quyết định.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật
chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan đến việc THA dân sự thì khi chuyển
giao bản án, quyết định cho cơ quan THA dân sự, Tòa án phải gửi kèm theo bản sao biên
bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác các liên quan.
Khi nhận bản án, quyết định do Toà án chuyển giao, cơ quan THA dân sự phải kiểm
tra, vào sổ nhận bản án, quyết định. Sổ nhận bản án, quyết định phải ghi rõ số thứ tự;
ngày, tháng, năm nhận bản án, quyết định; số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định và
tên Toà án đã ra bản án, quyết định; họ, tên, địa chỉ của đương sự và tài liệu khác có liên
quan. Việc giao, nhận trực tiếp bản án, quyết định phải có chữ ký của hai bên. Trong
trường hợp nhận được bản án, quyết định và tài liệu có liên quan bằng đường bưu điện thì
cơ quan THA dân sự phải thông báo bằng văn bản cho Toà án đã chuyển giao biết.9
9
THS. Cự Hoàng Hanh “Thi hành án dân sự huyện Phỳ Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế”
ngày 27 tháng 9 năm 2009.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích
19
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Sương