TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2012-2015
ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TÔN GIÁO
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
ThS. Nguyễn Lan Hương
Cao Thị Kiều
MSSV: S120035
LỚP LUẬT DT1263B1
CẦN THƠ -
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BNV: Bộ Nội vụ
CP: Chính phủ
NĐ: Nghị định.
PL: Pháp lệnh.
UBND: Ủy ban nhân dân.
UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
QLNN: Quản lý nhà nước.
TT: Thông tư
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ …….1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................ …….2
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. …….2
4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................... …….2
5. Cấu trúc đề tài. .................................................................................................... …….2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO……………………………………………………..3
1.1. Khái quát về tôn giáo ....................................................................................... …….3
1.1.1. Khái niệm về tôn giáo............................................................................... …….3
1.1.2. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo. ......................................... …….4
1.1.2.1. Bản chất của tôn giáo. .................................................................... …….4
1.1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo. ................................................................ …….6
1.1.2.3. Tính chất của tôn giáo. ................................................................... …….7
1.1.3. Ảnh hưởng của tôn giáo đến sự phát triển của xã hội ............................... ……...8
1.1.3.1. Những ảnh hưởng tích cực ............................................................ ……...9
1.1.3.2. Những ảng hưởng tiêu cực………………………………………………..9
1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo ............. ……...9
1.3. Khái quát quản lý nhà nước về tôn giáo.......................................................... …….12
1.3.1. Khái niệm về quản lý nhà nước .............................................................. …….12
1.3.2. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo ................................................. …….12
1.3.3. Đặc điểm quản lý nhà nước .................................................................... …….12
1.3.3.1. Chủ thể quản lý ............................................................................ …….12
1.3.3.2. Khách thể quản lý ........................................................................ …….13
1.3.4. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo ............................................... …….13
1.3.5. Mục tiêu, ý nghĩa của hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo ............... …….13
1.3.5.1. Mục tiêu ..................................................................................... …….13
1.3.5.2. Ý nghĩa ....................................................................................... …….14
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TRONG LĨNH VỰC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO………….15
2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo...................... …….15
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật . …….15
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tự do tín ngưỡng của công dân. .............................. …….16
2.1.3. Nguyên tắc thống nhất sinh hoạt tôn giáo và giữ gìn bản sắc văn hóa…… . 18
2.1.4. Nguyên tắc bảo đảm thống nhất, hài hòa giữa lợi ích cá nhân, cộng đồng, quốc
gia và xã hội.......................................................................................................... …….18
2.1.5. Nguyên tắc hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ của pháp luật. .............. ….…20
2.2. Cơ quan quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo. ......................... …….22
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về tổ chức tôn giáo. ............................................. …….24
2.3.1. Đăng ký hoạt động về tổ chức tôn giáo. .................................................. …….24
2.3.2. Công nhận tổ chức tôn giáo. ................................................................... …….26
2.3.3. Phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển nhà tu hành tôn giáo. .................. …….28
2.3.4. Viêc đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động tôn giáo. ...................... …….30
2.4. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. ......................................... …….32
2.4.1. Các hoạt động về tín ngưỡng và tôn giáo. ............................................... …….32
2.4.2. Cơ sở tín ngưỡng tôn giáo và tài sản của tôn giáo. .................................. …….32
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC
TRONG
LĨNH
VỰC
TỔ
CHỨC
VÀ
HOẠT
ĐỘNG
TÔN
GIÁO…………………………………………………………………………………….37
3.1. Thực trạng trong hoạt động quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo.
............................................................................................................................. …….37
3.1.1. Sơ lược về tình hình tín ngưỡng tôn giáo ở nước ta hiện nay. ................. …….37
3.1.2. Những kết quả đạt được.......................................................................... …….39
3.1.3. Những mặt hạn chế................................................................................. ….....42
3.1.4. Nguyên nhân hạn chế ............................................................................. …….44
3.2. Những yêu cầu khách quan đối với hoạt động quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt
động tôn giáo. ....................................................................................................... …….45
3.3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước về tổ chức và hoạt tôn giáo. .......................................................................... …….46
3.3.1. Phương hướng chủ yếu. .......................................................................... …….46
3.3.2. Giải pháp chủ yếu. .................................................................................. …….48
KẾT LUẬN ......................................................................................................... …….51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa con người đã tin vào các lực lượng siêu tự nhiên, họ xem đó là thần
thánh, cho rằng các thế lực siêu tự nhiên ấy quyết định số phận con người, con người
phải phục tùng và tôn thờ, có những quan niệm về tín ngưỡng, sùng bái một trong những
vị thần đó và có những nghi lễ thể hiện sự sùng bái ấy. Các vị thủ lĩnh, vua chúa ngày
xưa đã dựa vào các thế lực siêu tự nhiên ấy, vào sự tín ngưỡng tôn sùng của con người, tự
cho mình đã được vị thần nào đó ban quyền năng hay là con trời để cai tri họ, và tự đặt ra
những quy định cũng như hình thức trừng phạt.
Ngày nay cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, sự nhận thức và hiểu biết của
người cũng tiến bộ hơn. Tuy nhiên, còn một bộ phận người dân tin vào các thế lực siêu
nhiên chi phối đời sống của con người. Việt Nam là quốc gia có nhiều hình thức tôn giáo,
đa dạng về tổ chức, khác nhau về số lượng, số người theo tôn giáo còn khá đông. Vì vậy,
tôn giáo vẫn là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Tuy nhiên tôn giáo cũng là một
hiện tượng xã hội tác động hết sức phức tạp và sâu sắc đến mọi mặt đời sống của nhân
dân. Hiện nay tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình
thức khác nhau, tôn giáo được xem là một trong những vấn đề nhạy cảm, còn là nhân tố
gây mất ổn định về an ninh trật tự của xã hội không chỉ ở Việt Nam mà còn nhiều quốc
gia trên thế giới. Trong âm mưu “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch đã lợi dụng vào
tôn giáo, núp dưới các vỏ bọc là tổ chức tôn giáo để xuyên tạc các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta nhằm chống phá nền độc lập tự chủ của đất nước. Bởi vậy
không quốc gia nào không đặt ra vấn đề quản lý nhà nước về tôn giáo nhất là việc thành
lập và hoạt động của tổ chức tôn giáo.
Quản lý nhà nước về tôn giáo là một yêu cầu khác quan cần thiết. Quản lý của
nhà nước nhằm tạo điều kiện và đảm bảo các hoạt động của tôn giáo diễn ra bình thường,
lành mạnh, giúp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của con người mà pháp luật quy định.
Ngoài ra, quản lý nhà nước về tôn giáo giúpquan hệ giữa các tôn giáo, quan hệ giữa các
tín đồ mới đảm bảo được sự bình đẳng, các hành vi lợi dụng vào tôn giáo nhằm gây mất
an ninh trật tự, làm trái pháp luật, xâm phạm đến chủ quyền quốc gia đều bị nghiêm trị.
Chính vì lý do đó mà người viết chọn đề tài “Pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt
động tôn giáo” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Thông qua luận văn, người viết
mong muốn tìm hiểu về nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo, đánh giá tổng hợp tìm ra
các giải pháp và một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu với mục đích nhằm làm sáng tỏa một số vấn đề về lý luận, pháp
lý, thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo ở nước ta
hiện nay, đồng thời tìm ra những hạn chế thiếu sót, bất cập trong hoạt động quản lý nhà
1
nước về tổ chức cũng như hoạt động của tôn giáo, từ đó người viết đưa ra những phương
hướng giải quyết nhằm nâng cao hơn hiệu quản lý nhà nước về tôn giáo.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài người viết chủ yếu tìm hiểu qui định của
pháp luật về quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay,
những kết quả đạt được. Bên cạnh kết quả đạt được thì người viết tìm ra nguyên nhân của
hạn chế trong quản lý nhà nước về tôn giáo và những bất cập, vướng mắc khi áp dụng
pháp luật trên thực tế. Từ đó tổng hợp nhận xét và đưa ra phương hướng giải quyết nhằm
nâng cao hoạt động quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo đối với tình hình
nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu nội dung đề tài người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau: phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên cứu và phân tích luật viết, bên cạnh
đó còn sử dụng các phương pháp như: sưu tập thông tin, tài liệu, các văn bản quy phạm
pháp luật, các bài bình luận tổng hợp, ngoài ra còn tham khảo trên internet, các tạp chí
tạo cơ sở cho việc nghiên cứu và viết bài nhằm chuyển tải được nội dung của đề tài.
5. Cấu trúc đề tài
Kết cấu của luận văn bao gồm ba phần: Mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Trong đó phần nội dung của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1. Khái quát chung về hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo.
Chương 2. Pháp luật hiện hành về hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo.
Chương 3.Thực trạng và giải pháp về hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo.
Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo là một vấn đề khá rộng và
phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu cần có kiến thức và cả lý luận thực tiễn. Ngoài ra nó
còn đòi hỏi người viết phải biết nắm bắt những vấn đề cốt lõi, những thực trạng và vướng
mắc còn gặp phải, để từ đó đề ra phương hướng giải quyết. Lần đầu tiên người viết làm
quen với một đề tài nghiên cứu khoa học mà thời gian nghiên cứu còn hạn chế cũng như
vốn kiến thức, sự hiểu biết có giới hạn. Vì vậy luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, khiếm khuyết nhất định. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến đánh
giá, phê bình của quý Thầy, Cô và bạn bè cũng như người tham khảo.
2
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái quát về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một thuật ngữ không thuần Việt được du nhập từ nước ngoài. Thuật
ngữ tôn giáo có nguồn gốc từ Phương Tây, cụ thể là bắt nguồn từ thuật ngữ “religion”
(Tiếng Anh) và “religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là
“thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên”. Sau khi đạo Kitô giáo xuất hiện thì yêu cầu phải
có một tôn giáo chung nên khái niệm “religion” chỉ dành riêng cho Kitô giáo. Cho đến
khi đạo Tin Lành tách ra khỏi Công giáo thành lập đạo giáo riêng thì “religion” trở thành
thuật ngữ chỉ hai tôn giáo (Công giáo và Tin Lành) cùng thờ chung một chúa.
Khoản đầu thế kỷ XVIII thuật ngữ “Tông giáo” lần đầu tiên được xuất hiện ở Nhật
Bản, sau đó du nhập sang Trung Hoa và Việt Nam. Đến Việt Nam thuật ngữ “Tông giáo”
được gọi là “Tôn giáo” vì kỵ húy với vua Thiệu Trị1.
Trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều quan niệm, định nghĩa về tôn giáo khác nhau,
và khái niệm tôn giáo đã được các nhà nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi nhiều, và đưa ra rất
nhiều khái niệm khác nhau. Trong lịch sử đã có rất nhiều khái niệm về tôn giáo như:
“Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”.
Các nhà tâm lý học cho rằng: Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô
đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng có cô đơn thì chưa từng có tôn
giáo. Các nhà thần học thì cho rằng: Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con
người.
Còn C.Mác và Ph.Ăngghen có khái niệm về tôn giáo khác nhau, mỗi khái niệm
mang một khía cạnh. C.Mác khái niệm: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp
bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh
thần”2. Ph.Ăgnghen khái niệm: Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào đầu óc con
người của những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày.
Dù theo quan niệm nào đi nữa thì tôn giáo luôn đề cập đến vấn đề hai thế giới: đó
là thế giới vật thể hữu hình và vô hình, thế giới người sống và thế giới sau khi chết, thế
giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, nói đến tôn giáo là nói đến sự bất lực của con
người trong thế giới trần ai có nhiều đau khổ nên con người đã dựa vào thần thánh dù có
1
Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh - Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn - Khoa Nhân Học,
Tôn giáo là gì, [truy cập ngày 28/8/2014].
2
C. Mác - Ăngghen, NXB Sự Thật, Hà Nội 1980, tập 1, tr 14. (Trích dẫn trong Giáo trình Tôn giáo học Đại cương –
NXB Đại Học Huế-2009.
3
phần ảo tưởng, để yên tâm, tin tưởng và hy vọng sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn, để con
người tiếp tục sống trên trần thế. Như vậy tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng được chấp nhận một cách trực giác và tác động
qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như thế giới bên
kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng tùy thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn
cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành
bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn
giáo khác nhau3.
1.1.2. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1.1.2.1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội được hình thành và phát triển cùng với sự
tiến hóa của loài người cũng như sự phát triển của xã hội, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, tôn
giáo có nét tương đồng và khác biệt về tổ chức, lễ nghi cúng bái,…. Từ lúc có tôn giáo
đến nay tuy đã trải qua thời gian, không gian thay đổi và tôn giáo đã có sự điều chỉnh
nhưng bản chất và nội dung cơ bản vẫn không thay đổi.
Trong cuộc sống con người phải đối mặt với thế giới hiện thực, đối mặt với xã hội
có đầy sự bất công, bệnh tật, đối mặt với các hiện tượng tự nhiên như mây mưa, sấm,
chớp, thiên tai, bảo lũ,...và trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, xã hội đầy áp bức bóc lột,
nhưng sự hiểu biết của con người thì còn hạn chế không tìm ra cách giải thích về số phận
khốn khổ của họ, chưa biết được thực chất của sự bất công bóc lột đó, sự phân biệt giàu
nghèo, phân biệt sắc tộc, nên gắn tất cả những nỗi bất hạnh khổ ải đó cho Chúa, Trời,
xem đó là do số mệnh. Thế nên con người đã tìm đến tôn giáo, tin vào thần thánh nhằm
mong muốn được sự che chỡ của thần thánh, của Trời, của Chúa để có cuộc sống tốt đẹp
hơn. Vì vậy, về bản chất, tôn giáo không chỉ là sản phẩm của con người, do con người
sáng tạo ra gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và xã hội mà tôn giáo còn là hiện
tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh tự nhiên và sức
mạnh xã hội. Nói về vấn đề này V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị
bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt
đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu
tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu”4.
Tôn giáo là sự phản ánh nguyện vọng thuyết tha của con người mong muốn thoát
khỏi nỗi khổ ải, phản ánh một cách hoang đường hư ảo hiện thực khách quan đưa lại cho
con người niềm hy vọng về mặt tinh thần để quên đi nỗi đau hiện tại.
3
Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh-Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn-Khoa Nhân Học,
Tôn giáo là gì?, [truy cập ngày 07/7/2014].
4
Lênin toàn tập, NXB Tiến Bộ, Matxcơva 1979, tập 12, tr 169-171. (Trích dẫn trong Giáo trình Tôn giáo học Đại
cương –Nxb Đại Học Huế-2009).
4
Tôn giáo là hiện thực siêu hình của nhân loại, tuy nhiên tôn giáo còn chứa đựng giá
trị văn hóa phù hợp với đạo đức, đạo lý xã hội. Bản chất tôn giáo gắn với lợi ích
của con người nhất là phương diện tinh thần. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”
Ph.Ăngghen đã có nhận xét làm cho chúng ta thấy rõ bản chất của tôn giáo: “Tất cả mọi
tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của những
lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó có
những lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”5.
1.1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Lênin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh niềm tin tôn
giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm:
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo: là toàn bộ những nguyên nhân kinh tế xã hội tất yếu nảy sinh và nuôi dưỡng niềm tin tôn giáo. Trong đó có một số nguyên nhân
và điều kiện gắn liền với mối quan hệ giữa con người với con người, một số khác gắn với
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên: sự bất lực của con người trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Trong cuộc sống mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên thực hiện thông qua phương tiện và công cụ lao động mà con
người có, nhưng do trình độ sản xuất, khả năng tư duy và điều kiện kinh tế xã hội quá
thấp và con người luôn đối mặt với hiện tượng tự nhiên mà con người không hiểu biết.
Cụ thể là sự bất lực của con người nguyên thủy trong cuộc đấu tranh với thế giới tự nhiên
rộng lớn và bí ẩn là do sự hạn chế yếu kém của các phương tiện lao động, những phương
tiện tác động thực tế của họ vào thế giới xung quanh. Những phương tiện lao động này
càng kém bao nhiêu thì con người càng yếu đuối trước tự nhiên bấy nhiêu những lực
lượng tự nhiên càng thống trị con người, thế giới bao quanh người nguyên thủy đã trở
thành thù địch đối với họ. Và khi họ không đủ phương tiện lao động để đảm bảo được
cuộc sống, kết quả mong muốn trong lao động của họ. Người nguyên thủy tìm đến
phương tiện tưởng tượng hư ảo, họ gắn cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn,
thần thánh hóa những sức mạnh đó. Từ đó họ tự dựng lên những biểu tượng về tôn giáo
để thờ cúng.
Đến khi xã hội phân chia giai cấp, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Con người
cảm thấy bất lực trước sức mạnh của giai cấp thống trị, họ không giải thích được nguồn
gốc của sự phân hóa đó, không giải thích được nguồn gốc của sự áp bức và bóc lột, tất cả
họ quy về cho số phận cho định mệnh.
Không phải thế giới tự nhiên sinh ra tôn giáo mà tôn giáo là sản phẩm của con
người do mối quan hệ đặc thù của con người với giới tự nhiên, do trình độ sản xuất quy
định. Đây là nguồn gốc xã hội của tôn giáo.
5
C.Mác – Ph.Ănghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 1994, tập 20, tr 437.
5
Mối quan hệ giữa con người với con người: là bao gồm các mối quan hệ xã hội,
trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách
áp bức giai cấp cùng chế độ người bóc lột người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến và tư bản chủ nghĩa thì sự đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ
người bóc lột người là nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Khi người nô lệ, người
nông nô, người vô sản họ bần cùng về mặt kinh tế, bị áp bức về mặt chính trị, bị tước
đoạt những phương tiện và khả năng phát triển tinh thần, họ không tìm ra lối thoát của sự
kìm kẹp, áp bức trong cuộc sống hiện thực, nhưng họ đã tìm ra lối thoát đó ở trên trời, ở
thế giới bên kia. Cũng trong các hình thái kinh tế - xã hội này thì những mối quan hệ xã
hội phát triển một cách tự phát, nhưng quy luật phát triển của xã hội biểu hiện như những
lực lượng mù quáng, trói buộc con người và ảnh hưởng đến quyết định số phận của họ.
Những lực lượng đó trong ý thức con người được thần thánh hóa và mang hình thức của
những lực lượng siêu nhiên. Đây là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu của tôn
giáo. Như vậy sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về
kinh tế, áp bức bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức
của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình còn có giới hạn. Những hiện tượng tự
nhiên như mưa, bão, hạn hán, lũ lụt, núi lửa, động đất,… đã tác đông trực tiếp đến đời
sống con người, dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng. Và sự bất lực sợ hãi trước những
hiện tượng tự nhiên đó, khiến con người cầu khấn, thờ cúng các hiện tượng tự nhiên để
mong được che chở. Chính vì sự hạn chế của nhận thức mà con người đã mượn thần
thánh để lý giải cho các hiện tượng tự nhiên và để bù đắp cho sự nhận thức hạn chế của
mình. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều khoa học chưa khám phá và giải
thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo. Sự nhận thức của con người khi xa rời
hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng, thần thành hóa đối tượng. Mác viết:
Chính sự dốt nát của con người mà sinh ra tôn giáo, và chính tôn giáo lại kìm hãm con
người trong sự dốt nát ấy.
Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo: Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh
của tự nhiên và xã hội. Các nhà duy vật thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra thần
linh”. Lênin đã tán thành ý kiến đó và Người đã phân tích thêm là sự sợ hãi trước thế lực
mù quáng của tư bản – mù quáng vì nhân dân không thể đoán trước được nó là thế lực
lúc nào trong đời sống của người vô sản và tiểu thủ cũng bị đe dọa, đem lại cho họ sự phá
sản, làm cho họ phải duyệt vong, biến họ thành kẻ ăn xin, kẻ bần cùng, dồn họ vào cảnh
chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
6
Tóm lại, con người sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người. Tôn
giáo còn tồn tại lâu dài, chỉ khi nào những nguồn gốc của tôn giáo không còn nữa thì khi
đó tôn giáo sẽ tự mất đi.
1.1.2.3. Tính chất của tôn giáo
Mỗi tôn giáo đều có những đặc điểm riêng về giáo lý, giáo luật và lễ nghi, nhưng
các tôn giáo đều có chung tính chất:
Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng
của con người đạt tới mức độ nhất định. Tôn giáo không có sẵn trong xã hội loài người,
mà qua quá trình lao động, sản xuất phải đối mặt với thiên tai mà tự nhiên mang lại, và
qua quá trình chiến tranh giành tự do, độc lập…trong xã hội nhiều bất công, tôn giáo
được con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống hiện tại, nhất
là về mặt tinh thần.. Và tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử,
tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời
đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến một giai đoạn lịch sử
nhất định, khi con người nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi
con người làm chủ được tự nhiên, xã hội, làm chủ được bản thân mình và xây dựng được
niềm tin cho mỗi con người thì tôn giáo sẽ không còn.
Tính quần chúng: Lúc đầu tôn giáo sinh ra là để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng
của con người, nó đem lại niềm tin, hy vọng vào cuộc sống bình yên hơn trước những
thiên tai do tự nhiên mang lại và trước những bất công của xã hội có gia cấp mặt dù là hư
ảo, phản ánh sự khác vọng của con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẵng, và
dần dần tôn giáo trở thành cuộc sống tinh thần không thể thiếu đối với con người, tôn
giáo còn có tính nhân văn sâu sắc, giáo dục con người biết hướng thiện, cho nên đến nay
tôn giáo vẫn được nhiều người thuộc các tầng lớp xã hội tin theo, hiện nay số lượng tín
đồ tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số không riêng ở Việt Nam mà cả thế giới.
Tính chính trị của tôn giáo: Tuy tôn giáo mang tích chất duy tâm và có phần phản
khoa học vì tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới thực tại bằng các lực lượng siêu nhiên, giải
thích các hiện tượng tự nhiên xã hội một cách duy tâm và thần bí, nhưng nó có giá trị tích
cực, thực sự đem lại cho con người niềm tin vào cuộc sống. Đến khi xã hội phân chia giai
cấp thì giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị nhiều hơn để củng
cố quyền lực và duy trì địa vị thống trị của họ, biến tôn giáo thành công cụ áp bức đối với
quần chúng – giai cấp bị trị. Giai cấp bóc lột đã kết hợp chặc chẽ giữa thần quyền và thế
quyền để duy trì sự thống trị của giai cấp mình, nhất là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản,
giai cấp tư sản đã lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị một cách mạnh mẽ hơn.
Những cuộc thập tự chinh thời Trung cổ ở châu Âu hay những xung đột tôn giáo ở bán đảo
Balkan (Ban-căng), Ân Độ, Pakixtan,... đều không ngoài những mục đích đó. Hiện nay tôn
giáo đang phát triển đa dạng và phức tạp không chỉ ở quốc gia mà cả quốc tế. Vì vậy, cần
7
nhận thức rõ: đa số quần chúng đến với tôn giáo nhằm thõa mãn nhu cầu tinh thần; song
trên thực tế đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng để thực hiện mục đích
ngoài tôn giáo của họ.
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập hiện nay chúng ta cần tìm ra các biện pháp
tốt nhất và thích hợp nhất để giải quyết vấn đề tôn giáo.
1.1.3. Ảnh hưởng của tôn giáo đến sự phát triển của xã hội
1.1.3.1. Những ảnh hưởng tích cực
Tôn giáo là một thực thể xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, có
nguồn gốc hình thành và phát triển và có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống, văn hóa,
chính trị, xã hội của quốc gia.
Có thể nói tôn giáo tác động mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của bộ phận quần
chúng nhân dân, giúp con người có ý thức có trách nhiệm hơn trong cuộc sống, trong
việc mình làm, tạo nên niềm tin vững chắc cho con người khi gặp hoạn nạn. Khi mới ra
đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng của người lao động.
Tôn giáo mang tính nhân văn rất sâu sắc, có vai trò giáo dục nhân cách con người rất lớn
qua những tư tưởng như: Thiên Chúa giáo kêu gọi tình yêu thương giữa con người với
con người, trong Phật giáo thì Phật dạy chúng sinh lòng “từ bi bác ái”, “nhân quả luân
hồi”, “vô tư lượng tâm”, “cứu khổ cứu nạn”, từ bi, hỷ xả, vô ngã, bình đẳng trong xã hội,
lòng vị tha,… đã được con người tiếp thu và tự điều chỉnh hành vi của mình, tránh việc
ác mà làm nhiều việc có ích hơn cho bản thân và xã hội, hướng con người tới những giá
trị tốt đẹp của cuộc sống có ý thức có trách nhiệm, và đạo đức tôn giáo được hình thành
trên cơ sở niềm tin vào cái siêu nhiên như Chúa, Trời, Phật nên các tín đồ và cả những
người không theo đạo cũng thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác nó làm nảy
sinh tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng yêu thương giữa con người với con người.
Cho dù là tôn giáo nào cũng đều khuyên con người hướng thiện, tu tâm dưỡng tính,
khuyên con người sống phải có lòng “từ bi bác ai”, giúp đỡ nhau tránh làm đều ác. Đạo
đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc
hoàn thiện đạo đức cá nhân. Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, trước cuộc sống công
nghiệp hóa, hiện đại hóa con người luôn đối mặt với những thách thức, thì những triết lý
tư tưởng của tôn giáo làm cho con người thấy bình yên hơn. Trong thực tế cho thấy, quan
niệm đạo đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn
giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như
sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác. Đạo
đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc
hoàn thiện đạo đức cá nhân. Trên thực tế, những giá trị, chuẩn mực đạo đức của các tôn
giáo có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội.
8
1.1.3.2. Những ảng hưởng tiêu cực
Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích
cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị
lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá
nhân, hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ. Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo cũng còn
nhiều yếu tố tiêu cực. Cuộc sống hạnh phúc tốt đẹp trong tôn giáo chỉ là hư ảo, chứ tôn
giáo không đề cao cuộc sống trần thế, xem trần thế là nơi tạm bợ, vô thường. Trong giáo
lý của tôn giáo cho rằng sự bất hạnh, đau khổ của con người là do định mệnh, do số phận,
do kiếp trước kém tu, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nô lệ, biết sợ hãi
trước sức mạnh siêu nhiên, tôn giáo sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả
tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh, tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống
không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu tâm dưỡng tính làm điều cốt yếu
để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, thế giới bên kia nơi Thiên đường của
Chúa hay Niết bàn của Phật. Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm con
người trở nên nhu nhược, tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp, làm hạn chế tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của con người, chỉ bằng lòng với số phận không vượt khó vươn lên,
không tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong
niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm
lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế, mà đạo đức
tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, nhưng đó chỉ là thứ hạnh phúc hư ảo,
hão huyền. Và trong xã hội hiện nay không ít người dân tin vào sự bói toán mà ảnh
hưởng tới hạnh phúc gia đình gây tan vỡ hôn nhân, dâng lễ cúng bái để đuổi trừ tà ma để
chữa bệnh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng, gọi hồn…tạo cơ hội cho những ai
lừa đảo lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi. Điều đó dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến đời
sống xã hội làm mất đi nhân phẩm và đạo đức con người.
Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, là một phần đời sống tinh thần của con người
chính vì thế rất dễ bị kẻ xấu lợi dụng phục vụ cho nhu cầu chính trị, chống phá nhà nước,
chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử và hiện tại đã có không ít
cuộc chiến tranh và xung đột tôn giáo. Và ở nước ta nhiều thế lực thù địch đã và đang có
âm mưu chống phá cách mạng, như vụ bạo động năm 2001 ở Tây Nguyên.
1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo
Chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo là luôn tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước ta thể hiện bằng
hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn
giáo theo lịch sử phát triển của dân tộc. Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo rất đúng đắn, minh bạch và từng bước được hoàn thiện.
9
Chính sách về tôn giáo được Đảng và Nhà nước ta xây dựng một mặt dựa trên quan điểm
cơ bản của học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
Mặt khác căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì Đảng và Nhà nước ta luôn có
thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tin
thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và các tôn
giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hồi, thành kiến phân biệt đối xử với đồng bào có đạo,
chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc,
chống phá xã hội chủ nghĩa, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”.6 Sau Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 thì những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về tôn giáo được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Vừa qua Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12/01/2011 đến 19/01/2011 nêu rõ: “Tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm
tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” và đồng thời
xác định chủ trương: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo;
động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp
tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”7. Như vậy, quan điểm của Đảng ta
không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn đánh giá cao vai trò của các
tôn giáo đối với dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng
coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những
quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, tôn trọng quyền
được theo bất cứ tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo. Thực tế, những
chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến
pháp, pháp lệnh hay trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động
trong cuộc sống hàng ngày. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI về vấn đề tôn giáo được nêu cụ thể: “Tiếp tục hoàn thiện, chính sách pháp luật về
tín ngưỡng tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng, phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt
đời đẹp đạo, tham gia góp phần tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6
Hoàng Công Khôi, Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo từ thực tiễn của thành phố Hà
Nội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 (217) năm 2006, tr 6-8.
7
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
H.2011, tr51.
10
Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo, sinh hoạt theo hiên chương điều
lệ của các tổ chức tôn giáo, tôn giáo đã được Nhà nước công nhận đúng quy định của
pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tín ngưỡng tôn giáo để mê hoặc, chia rẻ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”8.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối
xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ
quyền, an ninh quốc gia. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền, nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc thông
qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích
người dân nói chung và đồng bào tôn giáo nói riêng về vật chất và tinh thần.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Nước ta hiện nay có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo,
phân bổ ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Vì vậy, công tác tôn giáo có liên
quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều ngành. Làm tốt công tác
tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ
cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ
máy làm công tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm
có đông đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng.
Bên cạnh đó vấn đề theo đạo và truyền đạo luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy
định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản
kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo,.. của mình theo đúng quy
định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
8
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
H.2011, tr81.
11
thủ Hiến pháp và pháp luật, không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động
mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền
đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
1.3. Khái quát quản lý nhà nước về tôn giáo
1.3.1. Khái niệm về quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi
toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối
nội, đối ngoại của nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội mang tính nhà nước nhằm tổ chức và
điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người. Cũng có thể hiểu
quản lý nhà nước là thực hiện bằng các cơ quan nhà nước các cấp đối với quá trình kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo,….nhằm huy động sức mạnh của xã hội
để đạt được những mục tiêu của chủ thể quản lý.
Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước với các hình thức quản lý khác:
quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần
thiết; quản lý nhà nước được thực hiện bằng bộ máy quản lý chuyên nghiệp; quản lý nhà
nước phải dựa chủ yếu trên cơ sở pháp luật; quản lý nhà nước thể hiện cả tính giai cấp và
tính xã hội; có đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước chuyên trách có chế độ đãi ngộ riêng.
1.3.2. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo
Quản lý nhà nước về tôn giáo là các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do
cơ quan hành chính nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân được nhà nước giao quyền quản
lý nhà nước thực hiện để thực hiện và tổ chức thực hiện các văn bản luật và văn bản của
cấp trên điều chỉnh vấn đề tôn giáo. Quản lý nhà nước đối với vấn đề tôn giáo là nhằm
tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đảm bảo các tôn giáo
sinh hoạt bình thường theo đúng pháp luật.
Cụ thể nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo là: quản lý các hoạt động tôn giáo
được pháp luật thừa nhận; quản lý việc sử dụng đất đai, cơ sở thờ tự, nâng cấp, sửa chữa;
quản lý hoạt động xuất bản kinh sách, ấn phẩm tôn giáo, hoạt động đối ngoại của tôn
giáo.
1.3.3. Đặc điểm quản lý nhà nước về tôn giáo
1.3.3.1. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, tổ chức mang quyền lực nhà nước tác
động đến đối tượng quản lý. Còn đối tượng quản lý là các tổ chức, công dân Việt Nam
hay người nước ngoài đang sống và làm việc trên lãnh thổ Vệt Nam cùng toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
12
Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo theo nghĩa rộng là các cơ quan nhà nước
thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp là các cơ quan nhà nước
thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp (như Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp).
1.3.3.2. Khách thể quản lý
Khách thể quản lý của nhà nước về tôn giáo là việc thành lập và hoạt động tôn
giáo của các tổ chức tôn giáo, các tín đồ theo đạo, chức sắc, nhà tu hành, việc tuyên
truyền giáo lý, giáo luật, in ấn phẩm tôn giáo, đảm bảo cho tổ chức tôn giáo và tín đồ tôn
giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ của pháp luật.
1.3.4. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo
Trong hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo thì Đảng và Nhà nước ta đặt ra một
số nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong lĩnh vực tôn giáo:
- Đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Tất cả
công dân có quyền và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật.
- Cá nhân và tổ chức các hoạt động tôn giáo phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp
luật, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của tín đồ được đảm bảo, có nghĩa
vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
- Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết
toàn dân. Những giá trị văn hóa tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và phát huy. Hoạt
động mê tín dị đoan bị phê phán và loại bỏ. Những hành vi lợi dụng tôn giáo gây mất trật
tự xã hội, chống phá cách mạng, ngăn cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ côn dân đều bị xử lý
theo pháp luật.
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ
chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng
và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
1.3.5. Mục tiêu, ý nghĩa của hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo
1.3.5.1. Mục tiêu
Quản lý nhà nước là một hoạt động có mục đích, mục tiêu, những mục đích, mục
tiêu cơ bản được định ra trước và kết quả của việc đạt được mục đích, mục tiêu đó là
phản ánh hiệu quả của việc quản lý. Để đạt hiệu quả của việc quản lý thì phải tiến hành
trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.
Mục tiêu của hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo là góp phần tích cực vào
việc xây dựng những giá trị văn hóa và chuẩn mực xã hội tốt đẹp, nhất là giá trị đạo đức
“tốt đời đẹp đạo”. Tạo nên mối quan hệ lành mạnh giữa con người với con người nhất là
đồng bào tôn giáo. Bảo đảm được nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, nhưng không
ngừng khắc phục đi đến bày trừ các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, ngăn ngừa lạm
dụng tín ngưỡng tôn giáo, nhằm đảm bảo ổn định về mặt xã hội và góp phần ổn định về
13
mặt chính trị, đi đến xây dựng đất nước phát triển kịp với thời đại nhưng không mất bản
sắc dân tộc. Bảo đảm mọi chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước được thực hiện
một cách nghiêm minh.
1.3.5.2. Ý nghĩa
Tôn giáo là đời sống tinh thần của nhân dân, là một vấn đề rất nhạy cảm, dễ bị kẻ
xấu lợi dụng, kích động, sẽ ảnh hưởng đến trật tự xã hội, chính trị quốc gia. Nên việc
quản lý Nhà nước đối với tôn giáo nói chung, về tổ chức và hoạt động của tôn giáo nói
riêng luôn là yêu cầu cấp thiết có ý nghĩa to lớn cho công cuộc xây dựng đất nước dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Nhằm góp phần tích cực vào việc
xây dựng giá trị văn hóa và chuẩn mực xã hội tốt đẹp, tạo nên những mối quan hệ lành
mạnh giữa con người với con người. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo còn làm
phát huy thêm những giá trị tốt đẹp – nhất là giá trị đạo đức, đúng với giáo lý của tôn
giáo luôn khuyên con người hướng thiện.
Bảo đảm nhu cầu tín ngưỡng của người dân được giải quyết một cách hợp lý. Tạo
lập và hình thành lối sống mới, xây dựng giá trị văn hóa phù hợp với bản sắc dân tộc,
khắc phục tệ nạn xã hội, phát huy nhân lực nhằm bảo đảm ổn định về mặt xã hội góp
phần ổn định về mặt chính trị.
Nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng tín ngưỡng, tôn giáo đi ngược với lợi ích dân tộc và
phát triển của xã hội. Nhằm đảm bảo cho chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước được thực hiện một cách nghiêm minh.
14
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động tôn giáo
Bất kỳ một chế định pháp luật nào cũng được thiết lập trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản xác định trước. Trong từng lĩnh vực Nhà nước quản lý cũng có những nguyên
tắc nhất định. Để đạt được những mục tiêu trong hoạt động quản lý nhà nước về tổ chức
và hoạt động tôn giáo thì Nhà nước ta đã đề ra một số nguyên tắc cơ bản.
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được thể hiện rõ trong
chương 2 của Hiến pháp 2013. Nhưng quy định mọi công dân được bình đẳng trước pháp
luật được quy định cụ thể tại Khoản 1, Điều 16, Hiến pháp năm 2013: “Mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật”.
Bảo đảm cho mỗi công dân được bình đẳng trước pháp luật nghĩa là mỗi công
dân trong hoạt động thực hiện pháp luật có quyền đòi hỏi được đối xử giống như nhau,
bất cứ công dân nào không phân biệt người đó là ai, già hay trẻ, nam hay nữ, là giàu hay
nghèo, có chức vụ hay không có chức vụ trong bộ máy nhà nước, theo hay không theo tín
ngưỡng, tôn giáo,…đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật.
Và trong mối quan hệ dân sự một khi các bên đã tham gia thì đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau trước pháp luật, nếu như bên nào vi phạm thì bị xử lý nghiêm minh
mà không bị phân biệt đối xử. Chẳng hạn như trong một hợp đồng mua bán hàng hóa một
bên là người theo Phật giáo, một bên là người không theo tôn giáo nào; khi có vi phạm
hợp đồng (không giao hàng đúng hẹn như đã thỏa thuận gây tổn thất cho bên còn lại) thì
phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, chứ không được phép cho mình là
là người của Phật nên được phép vi phạm và không cần bồi thường và ngược lại. Đây là
nguyên tắc bình đẳng được quy định tại Điều 5, Bộ Luật dân sự năm 2005: “Trong quan
hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính,
thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp
để đối xử không bình đẳng với nhau”.
Không chỉ thế tại Khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội
số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 về tín ngưỡng, tôn giáo (gọi tắt là Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo) cũng quy định: “1. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”.
Luật pháp Việt Nam không công nhận bất kỳ một sự đặc quyền, đặc lợi của bất
kỳ đối tượng tầng lớp nào trong xã hội. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử
lý theo pháp luật, trước pháp mọi công dân có tư cách giống như nhau.
15
Nhưng không có nghĩa là áp dụng pháp luật giống nhau một cách hình thức đối
với mọi công dân mà không chú ý đến các điều kiện xã hội và cá nhân cụ thể. Trong việc
áp dụng pháp luật được Nhà nước ta cân nhắc rất kỹ càng và đầy đủ về đặc điểm khách
quan, chủ quan, sự khác biệt của mỗi cá nhân về tuổi tác, sức khỏe, hoàn cảnh xã hội,
hoàn cảnh gia đình, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn,…. Ví dụ nguyên đơn, bị
đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vì lý do sức khỏe được phép ngồi trong
phiên Tòa xét xử.
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tự do tín ngưỡng của công dân
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản của mọi công dân và được quy
định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 24 của Hiến pháp năm 2013:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Tại Điều 1 của Pháp lệnh của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 21/2004/PLUBTVQH11 ngày 18/6/2004 về tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định: “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do
ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải
tôn trọng lẫn nhau”.
Nhưng trong dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo có quy định cụ thể hơn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và đề cao
được tính dân chủ, quyền con người khi có sự thay đổi giữa từ “công dân” và “mọi
người” và “người”, qua đó thấy quy định về đối tượng được tự do tín ngưỡng, tôn giáo
rộng hơn, và không những nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn
tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
“Điều 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được
xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Người có tín ngưỡng, tôn giáo; người không có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc người
có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.
Thông qua quy định mới này trong dự thảo không những thể hiện được quyền tín
nưỡng của mọi người mà còn nhằm bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng của mọi người,
16
phù hợp quy định tại Hiến pháp 2013, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về hoạt động
tín ngưỡng.
Tại Điều 2 của Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết về
biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân như sau: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào của công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Nghiêm cấm việc ép buộc
công dân theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại
hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh,
tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các
dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Mọi
tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo
quy định của pháp luật”.
Tuy văn từ câu chữ khác nhau nhưng nội dung và ý nghĩa của các quy định trên là
giống nhau, tất cả đều quy định và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân,
mọi công dân đều được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà không phải chịu sự
ép buộc hay áp bức nào. Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán nguyên tắc tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo theo đúng pháp luật. Đó chính là tôn
trọng và bảo đảm quyền được theo hay không theo một hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
nào đã được xã hội và luật pháp thừa nhận, quyền được sinh hoạt tôn giáo một cách bình
thường, bình đẳng, trong khuôn khổ của luật pháp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn
thể hiện ở quyền tự do lựa chọn, giữ gìn hay thay đổi tín ngưỡng tôn giáo, việc thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không được vi phạm pháp luật và làm tổn hại đến lợi
ích công cộng, các quyền tự do cơ bản của những người khác. Quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo không thể thoát ly khỏi những quy định của luật pháp quốc gia và quốc tế, với
truyền thống văn hóa, bản sắc dân tộc và điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của mỗi quốc
gia. Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và
tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ nghi lễ tôn giáo tại cơ
sỏ thờ tự.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng và quyền con người nói chung luôn
được Nhà nước ta coi là nguyên tắc trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà
nước ta từ lúc thành lập luôn lấy quyền con người làm mục tiêu đấu tranh và phấn đấu.
Thực tế ở Việt Nam, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không một tôn giáo nào
hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm. Mọi người dân Việt Nam hoàn toàn tự
17
nguyện, tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, không bị ép
buộc, cấm đoán. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước
Việt Nam tôn trọng và đảm bảo. Ở Việt Nam ngày càng có thêm nhiều tổ chức tôn giáo
được công nhận và hoạt động. Số lượng các tín đồ tôn giáo tăng nhanh. Các cơ sở thờ tự
liên tục được xây dựng, mở mang, tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo. Hoạt động in ấn,
phát hành kinh sách được xuất bản tự do theo nhu cầu của các tôn giáo. Công tác giáo
dục, đào tạo về tôn giáo được thúc đẩy. Các hoạt động đối ngoại về tôn giáo ngày càng
được đẩy mạnh… Có thể nói, đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như
hiện nay.
2.1.3. Nguyên tắc thống nhất sinh hoạt tôn giáo và giữ gìn bản sắc văn hóa
Những hoạt động tôn giáo mang ích nước lợi dân cùng với những giá trị văn hóa
đạo đức tốt đẹp “sống tốt đời đẹp đạo” phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của đồng bào tôn giáo được Nhà nước ta tôn trọng và phát huy. Giữ vững và phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đảng ta chính thức khẳng định
trong báo cáo chính trị: “phát huy những giá trị tố đẹp về văn hóa và đạo đức của tôn
giáo”9. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục nêu quan điểm đấy, và đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta không chỉ nêu “phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo” mà còn “tôn trọng” những giá trị ấy.
Nguyên tắc này được cụ thể hóa tại Điều 5 và Điều 14 của Pháp lệnh của Ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 về tín ngưỡng, tôn
giáo: “Điều 5: Tôn trọng giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có
công với nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân”.
“Điều 14: Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải được đảm bảo an toàn, tiết kiệm,
phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn, bảo vệ môi trường”.
2.1.4. Nguyên tắc bảo đảm thống nhất, hài hòa giữa lợi ích cá nhân, cộng đồng,
quốc gia và xã hội
Mục tiêu hoạt động của Nhà nước là mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người, sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Vì vậy
các quy định về quyền và nghĩa vụ công dân luôn chú ý đến lợi ích của cá nhân, cộng
đồng, quốc gia và xã hội phải được đảm bảo. Nhằm phát huy được sức mạnh của toàn bộ
cộng đồng dân tộc đảm bảo cho đại đoàn kết toàn dân, động lực chủ yếu của phát triển
được phát huy cao độ trong toàn cộng đồng dân tộc sống trên đất nước. Bảo đảm lợi ích
của các dân tộc, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa các dân tộc, phát huy sức mạnh
9
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H.,2011, tr128.
18
của từng dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại điểm a Khoản 1 Điều 7 Pháp lệnh
của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 về tín
ngưỡng, tôn giáo ở có quy định: “1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
a) Tập hợp đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn
giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng
để gắn bó đồng bào ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc,
tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã không ngừng đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức vận động, tập hợp, góp phần tăng
cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước không ích Đảng viên, cán bộ,
công chức và kể cả người dân bình thường đã tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi
trước, hưởng thụ đi sau và làm nên những thành tích rất vẻ vang cho quê hương đất nước.
Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, song bên cạnh đó
còn có không ít người họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích
riêng của mình trước, mà ngại gian khổ khó khăn, không có tính vương lên, kem tinh
thần trách nhiệm làm hại đến lợi ích của toàn dân, lợi ích cách mạng. Để bảo đảm thống
nhất lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng dân tộc và với quốc gia, Đảng và Nhà nước ta
không ngừng ra sức giáo dục về tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách
của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức trong đảng viên và trong toàn dân. Trong Đảng phải
thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh. Phải hoan nghênh và khuyến khích
quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm
túc. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ, phải đặt lợi ích của cách mạng, phải kiên
quyết quét sách chủ nghĩa cá nhân , nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập
thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật.
Trong nhân dân quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn luôn là một chế định
cơ bản của luật Hiến pháp Việt Nam, và được quy định rất cụ thể trong một số văn bản
quy phạm pháp luật khác. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên việc
đảm bảo thống nhất giữa lợi ích cá nhân, cộng đồng với lợi ích quốc gia và xã hội được
Nhà nước quy định trong Hiến pháp và bảo đảm thực hiện bằng mọi biện pháp, kể cả
biện pháp cưỡng chế. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Đó
là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Lợi ích của cá nhân với
cộng đồng và quốc gia luôn được đảm bảo, và đây còn là nguyên tắc bất biến được thể
19
hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh quan nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Đại đoàn kết dân
tộc là một truyền thống quý báu và lâu đời của dân tộc ta. Nhờ luôn luôn coi trọng, củng
cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc,
kết hợp với sức mạnh của thời đại, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành nhiều thắng lợi
vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, trong xây
dựng và phát triển cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày nay.
2.1.5. Nguyên tắc hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ của pháp luật
Tại Điều 5 Pháp lệnh của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 21/2004/PLUBTVQH11 ngày 18/6/2004 về tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại: “Nhà nước đảm bảo
quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật”. Các hoạt
động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được đảm bảo, những hoạt
dộng tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân được khuyến khích. Nhưng các hoạt
động tôn giáo phải tuân theo pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước đảm bảo nhưng phải tuân theo
pháp luật. Mọi tổ chức cá nhân hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải luôn được thực hành
trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn độc lập chủ quyền quốc gia. Các hình thức kỳ
thị, phân biệt đối xử về tự do tín ngưỡng, mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo thể hiện dưới hình thức nào phải bị phản đối, hoạt động mê tín dị đoan bị phê
phán và loại bỏ. Tổ chức tôn giáo thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Những hành vi lợi dụng tôn giáo nhằm chống lại Nhà nước, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ
công dân, phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân đều bị xử lý theo pháp luật. Tại
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 8 của Pháp lệnh của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số
21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 về tín ngưỡng, tôn giáo được quy định:
“1.Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân; 2. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền
chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác”.
Và trong dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
ở Điều 8 được quy định rõ hơn, tính cưỡng chế cao hơn, không phải là “không được phân
biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo…” nữa mà cụ thể là “nghiêm cấm việc phân biệt
20