Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Biểu tượng dòng sông trong ca dao trữ tình người việt (KL07168)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.46 KB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

BÙI THỊ TÌNH

BIỂU TƢỢNG DÕNG SÔNG TRONG
CA DAO TRỮ TÌNH NGƢỜI VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian

HÀ NỘI, 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

BÙI THỊ TÌNH

BIỂU TƢỢNG DÕNG SÔNG TRONG
CA DAO TRỮ TÌNH NGƢỜI VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

HÀ NỘI, 2015



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Lan và
các thấy cô trong tổ Văn học Việt Nam – khoa Ngữ Văn – trƣờng ĐHSP Hà Nội 2
đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận

Bùi Thị Tình


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung đƣợc triển khai trong khóa luận là kết quả nghiên
cứu của cá nhân tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của cô giáo – TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Ngƣời cam đoan
Bùi Thị Tình


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
5. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 3
6. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 6
7. Cấu trúc khóa luận .............................................................................................. 7
NỘI DUNG

Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT VỀ BIỂU TƢỢNG VÀ BIỂU TƢỢNG
DÕNG SÔNG......................................................................................................... 8
1.1. Biểu tƣợng ........................................................................................................ 8
1.2. Biểu tƣợng dòng sông ...................................................................................... 9
1.3. Khảo sát sự xuất hiện của biểu tƣợng dòng sông trong ca dao ...................... 12
Chƣơng 2. DẤU ẤN ĐỊA – VĂN HÓA CỦA BIỂU TƢỢNG DÕNG
SÔNG TRONG CA DAO ................................................................................... 16
2.1. Dòng sông mang dấu ấn vùng miền Bắc bộ .................................................. 16
2.1.1. Sông Tô Lịch – dấu ấn đất kinh kì .............................................................. 16
2.1.2. Sông Thƣơng – con sông cổ tích................................................................. 19
2.2. Dòng sông mang dấu ấn vùng miền Trung bộ ............................................... 21
2.2.1. Sông Hƣơng – dải lụa mềm của miền Trung .............................................. 21
2.2.2. Sông Thu Bồn – dòng sông hoài niệm ........................................................ 23
2.3. Dòng sông mang dấu ấn vùng miền Nam bộ ................................................. 25
Chƣơng 3. CÁC DẠNG THỨC VÀ Ý NGHĨA BIỂU TRƢNG CỦA
DÕNG SÔNG TRONG CA DAO ...................................................................... 30
3.1. Sông với cầu (31/711 lời).............................................................................. 30
3.1.1. Biểu trƣng cho khát vọng tình yêu ............................................................. 30
3.1.2. Biểu trƣng cho sự giao hòa tình cảm ......................................................... 34


3.2. “Sông” với “bến” (7/711 lời) ........................................................................ 37
3.3. Sông với thuyền – đò (76/711 lời) ................................................................. 38
3.3.1. Biểu trƣng cho sự gắn kết “đôi bờ” thƣơng nhớ. ........................................ 38
3.3.2. Biểu trƣng cho lời hẹn thề chung thủy ........................................................ 41
3.3.3. Biểu trƣng cho những kinh nghiệm sống .................................................... 44
3.4. “Sông” với “núi” (63/711 lời) ........................................................................ 46
3.4.1. Biểu trƣng cho “linh khí” của quê hƣơng, xứ sở ........................................ 47
3.4.2. Biểu trƣng cho sự xa cách tình cảm ............................................................ 50
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 52

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 54


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sông nƣớc từ lâu vốn là hình ảnh quen thuộc, dung dị nhất về quê hƣơng, bản
quán trong lòng mỗi ngƣời dân Việt. Từ xƣa đến nay, “sông” chảy trong tâm hồn nhân
dân Việt với biết bao buồn vui của một đời ngƣời, với biết bao thăng trầm, đổi thay của
thời cuộc. Ngƣời chƣa một lần qua sông, qua đò, chƣa từng sống cạnh sông nƣớc nhƣng
nghe câu hò của một chàng trai vùng sông nƣớc phƣơng Nam:
Hò ơ… Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ
Mùng ai có rộng, cho anh ngủ nhờ một đêm!
thì cũng thấy rất thú vị và tâm hồn lâng lâng, bắt nhịp. Sông hóa thành giá trị văn hóa
và có khả năng làm tƣơi mới tâm hồn con ngƣời.
Trong ca dao Việt Nam, dòng sông đƣợc gợi nhắc thật duyên dáng, mềm mại
nhƣ tấm lụa đào, chân thành, mộc mạc, đời thƣờng, pha trộn chút hƣơng đồng gió nội,
thênh thang nhƣ đồng lúa, và uyển chuyển nhẹ nhàng bởi đòn nƣớc lững lờ nhè nhẹ êm
trôi. Lẽ vì thế mà dòng sông đƣợc gợi nhắc trong ca dao cũng êm đềm nhƣ từng gợn
sóng, cũng hiền hòa nhƣ lòng mẹ bao dung, cũng ngọt ngào nhƣ dòng sữa trắng
trong….
Sông xanh phẳng lặng nƣớc đầy
Tình chung hai chữ nghĩa này giao hoan
[5, 1855]
Và cũng tình tứ, dịu dàng:
Đôi ta thƣơng mãi nhớ lâu
Nhƣ sông nhớ nƣớc, nhƣ nhành dâu nhớ tằm
[5, 871]
Ca dao Việt Nam là cái nôi của mọi ngọn nguồn hơi thở. Nó đƣợc ngƣời đời ví
nhƣ bầu sữa nóng của dân tộc, nhƣ ngƣời bạn mới lạ quen biết từ lâu đời. Cái hay, cái
đẹp của ca dao đƣợc thể hiện ở nhiều hình ảnh, phƣơng diện, nhiều yếu tố khác nhau,

nhƣng dòng sông là biểu tƣợng rất tiêu biểu, khiến nhiều nhà nghiên cứu đặt chân khám
phá mảnh đất tốt tƣơi này. Nói tới dòng sông trong tâm thức của ngƣời Việt là đề cập
tới rất nhiều vấn đề liên quan: điều kiện địa lí, môi trƣờng sống, tiến trình lịch sử, đặc

1


điểm dân tộc, phong tục, tập quán v.v… Trong giới hạn của một bài viết ngắn cũng là
một ý kiến phát biểu, chúng tôi chỉ nói đến dòng sông trong ca dao trữ tình. Vì vậy,
ngƣời viết mạnh dạn lựa chọn đề tài “Biểu tƣợng dòng sông trong ca dao trữ tình ngƣời
Việt” với mong muốn bƣớc đầu phác họa đƣợc cái nhìn tổng quan, những hiểu biết
chung về biểu tƣợng dòng sông và giá trị nghệ thuật của nó trong ca dao.
Qua khảo sát thực tiễn, ngƣời viết nhận thấy, cho đến nay có khá nhiều công
trình nghiên cứu về biểu tƣợng dòng sông, nhƣng chƣa có một công trình cụ thể nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và sắc nét về dòng sông trong ca dao trữ tình ngƣời
Việt. Có chăng chỉ là những bài viết khái quát, mang tính chất giới thiệu sơ bộ, hoặc
những khía cạnh sơ bộ, lẻ tẻ, tản mạn, hoặc tiếp cận tác phẩm nhƣ một ví dụ minh họa,
nhằm chứng minh cho một luận điểm nào đấy, mà chƣa thực sự đi sâu để làm nổi bật
từng “con sóng ngầm”… Vì thế, có thể khẳng định việc nghiên cứu biểu tƣợng dòng
sông trong ca dao trữ tình vẫn là một cánh cửa bỏ ngỏ.
Ngoài những lí do khoa học trên, tác giả bài viết mong muốn đề tài có ý nghĩa
góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong học tập và giảng dạy ca dao trong nhà trƣờng.
Xuất phát từ lí do trên, ngƣời viết lựa chọn đề tài “Biểu tƣợng dòng sông trong ca dao
trữ tình ngƣời Việt”.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài “Biểu tƣợng dòng sông trong ca dao trữ tình ngƣời Việt”, ngƣời viết
mong muốn đóng góp một phần nào đó trong việc tìm hiểu, khám phá biểu tƣợng dòng
sông trong ca dao Việt Nam. Đồng thời, qua đó thấy đƣợc giá trị nghệ thuật, nội dung,
tƣ tƣởng đƣợc gửi gắm qua hình ảnh.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

+ Đối tƣợng nghiên cứu: Biểu tƣợng dòng sông trong ca dao trữ tình ngƣời Việt
– một trong những biểu tƣợng quen thuộc và gần gũi trong đời sống của cƣ dân nông
nghiệp, cƣ dân sông nƣớc.
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Về tƣ liệu: Chúng tôi giới hạn việc khảo sát và nghiên cứu đề tài trong phạm vi
tƣ liệu ca dao trữ tình của ngƣời Việt. Có thể kể đến các công trình biên soạn và sƣu
tầm ca dao nhƣ: Kho tàng ca dao người Việt (Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật,

2


NXB Văn hóa thông tin, 1995); Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam, quyển IV
phần ca dao (Tập thể tác giả Viện văn học, NXBGD, 2001); Tục ngữ ca dao Việt
Nam (Vũ Ngọc Phan – NXB Văn học, 2004); và tập hợp những bài ca dao tƣơng tự.
- Về nội dung: Tìm hiểu biểu tƣợng dòng sông trong ca dao với những nét đặc
trƣng mang đậm dấu ấn văn hóa vùng miền; Khám phá các dạng thức biểu hiện của
biểu tƣợng dòng sông trong ca dao trữ tình của ngƣời Việt.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
- Phƣơng pháp quy nạp
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
5. Lịch sử vấn đề
5.1.

Nghiên cứu về biểu tƣợng trong ca dao Việt Nam

Ca dao dân ca Việt Nam là cây đàn muôn điệu đã phản ánh một cách thành công
và đầy đủ thế giới tâm hồn của ngƣời lao động Việt Nam xƣa. Nó đƣợc ví nhƣ câu hò
ngân dài nỗi nhớ, nhƣ nhịp mái chèo khua nƣớc đêm đêm. Đến với ca dao ta thấy cái

hay của văn chƣơng bình dân thật là vô tận và mỗi lời ca đều nhƣ lấp lánh ánh sáng kì
diệu của tiếng Việt. Trên từng con chữ, mỗi bài ca dao mang trong mình hơi thở và sức
sống con ngƣời. Việc nghiên cứu biểu tƣợng trong ca dao đã đƣợc nhiều nhà khoa học
quan tâm. Các công trình của Vũ Ngọc Phan, Bùi Công Hùng, Hà Công Tài, Nguyễn
Xuân Kính, Nguyễn Phƣơng Châm, Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Nguyễn Thị Ngân Hoa,
Triều Nguyên, Đặng Diệu Trang, Phạm Thu Yến... đều khẳng định sự tồn tại phổ biến
của các biểu tƣợng, giá trị thẩm mĩ, chức năng quan trọng của chúng trong ca dao. Một
số biểu tƣợng đã đƣợc đề cập khá chi tiết trong các bài viết.
Năm 1992, khi cho ra mắt độc giả cuốn Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính đã
dành hẳn một chƣơng viết về một số biểu tƣợng, hình ảnh. Tác giả đã cho thấy hệ thống
biểu tƣợng phong phú, đa dạng trong ca dao. Sau đó, tác giả đi sâu tìm hiểu một số biểu
tƣợng cụ thể nhƣ: Trúc, mai, hoa nhài, con cò, rồng, loan, phượng. Tuy nhiên, ở đây

3


mới chỉ dừng ở mặt nội dung, tức là biểu tƣợng đó có nghĩa nhƣ thế nào chứ chƣa tìm
hiểu hình thức của từng biểu tƣợng, và cách thể hiện của từng biểu tƣợng nhƣ thế nào.
Trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (1978), khi nói
về hình thức nghệ thuật của ca dao, tác giả viết: "Nhân dân mượn những vật vô tri để
nói lên tâm sự mình, mượn những chim muông, cho nó tính người, và mượn cả một số
cây để ví với người này người nọ". Đây là cơ sở hình thành các biểu tƣợng trong ca dao.
Tiếp đó, Vũ Ngọc Phan đã dành ít trang để tìm hiểu hình tƣợng con cò, con bống trong
ca dao. Những hình ảnh này chính là biểu tƣợng tƣợng trƣng cho đời sống nhân dân.
Năm 1988, tác giả Bùi Công Hùng đã chính thức đặt vấn đề “Biểu tƣợng thơ ca”,
trong đó đã trình bày khái niệm và phân tích một số biểu tƣợng trong ca dao: trăng, con
đò, dòng sông, mặt trời, đôi mắt, lá trầu, thuyền… và tác giả nhận định “Biểu tƣợng
nguyên sơ hiện lên trong ca dao, tục ngữ khá rõ ràng”
Cùng năm 1988, tác giả Hà Công Tài đã chú ý đến “Biểu tƣợng trăng trong thơ
ca dân gian”. Tác giả đã có những phát hiện mới về đặc điểm, vai trò của biểu tƣợng

trong thơ ca dân gian. “Biểu tƣợng trong thơ ca dân gian thì cực kì phong phú. Chỉ
riêng biểu tƣợng thiên nhiên nhƣ trăng sao, núi đồi, cây cỏ, sông nƣớc… đã có thể tới
mức bách khoa về địa lí – phong tục Việt Nam trong đại ngàn thời gian và không gian
lịch sử. Nhƣng hơn hết chúng ta có thể từ đó mà tìm hiểu mĩ học dân tộc, về đặc điểm
tƣ duy thơ ca dân tộc, đồng thời góp thêm một hƣớng tiếp cận mới cho thơ”.
Một số bài viết trên tạp chí cũng đề cập tới một số biểu tƣợng, nhƣ:
Con chim quyên trong ca dao, Triều Nguyên, 2001
Những thế giới nghệ thuật ca dao, Phạm Thu Yến.
5.2.

Một số công trình, bài viết đề cập tới biểu tƣợng dòng sông trong ca dao trữ

tình ngƣời Việt.
PGS.TS Đặng Văn Lung, Trƣởng Ban Văn học dân gian, Viện văn học phát
biểu: “Tất cả các dân tộc trên thế giới suốt mấy nghìn năm chỗ nào cũng có dân ca và
ca dao. Vì thế nói về ca dao dân ca của một dân tộc hoặc ca dao dân ca nói chung là vấn
đề rất lớn. Nó tồn tại rất lâu, từ hàng ngàn năm trƣớc và nhƣ các nhà khoa học nghiên
cứu trƣớc đây, các học giả đã nói ca dao ra đời khi trong lòng mình có những điều
muốn thể hiện ra, muốn nói lên. Những điều đó đƣợc gọi là ca dao”.

4


Nói về nhận xét trên, ta thấy ca dao chính là cái nôi để ngƣời Việt gửi gắm
những tâm tƣ, tình cảm, những suy tƣ, trăn trở của mình đối với cuộc sống, với sự vật,
sự việc xung quanh mình. Nghiên cứu về ca dao dân ca không chỉ cho thấy những nét
đẹp văn hóa của ngƣời Việt Nam mà còn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu đời,
yêu ngƣời thiết tha. Ca dao là kết tinh thuần túy của tinh thần dân tộc, là nét đẹp trong
văn hóa dân gian Việt Nam. Triết lí nhƣ vậy để ta hiểu rõ hơn về hình ảnh dòng sông
đƣợc gợi nhắc trong ca dao nhƣ một lẽ tất yếu để qua đó nói lên nỗi lòng mình.

Trong bài viết: “Hình tƣợng sông nƣớc trong ca dao trữ tình Nam Bộ”, Trần Thị
Diễm Thúy có nói: “Trong ca dao dân ca Việt Nam nói chung, sông thƣờng đƣợc nhắc
đến nhƣ một đặc trƣng cho quê hƣơng, cho miền quê… Tuy nhiên, không ở đâu hình
ảnh sông đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần với những giá trị thẩm mĩ sâu sắc, phong phú nhƣ
trong ca dao dân ca trữ tình Nam Bộ. Hình ảnh quen thuộc trong ca dao trữ tình Bắc Bộ
là cây đa, mái đình,… gợi rõ nét văn hóa cổ truyền của nông thôn Bắc Bộ. Ca dao
Trung Bộ là hình ảnh của núi đèo, ruộng, rú, truông, phá… thể hiện một không gian cao
rộng từ địa hình tự nhiên của vùng đất…. Nhìn chung, thiên nhiên sông nƣớc trong ca
dao Nam Bộ đƣợc xây dựng thành những bức tranh nghệ thuật khá đa dạng, phản ánh
nhận thức và thái độ thẩm mỹ của ngƣời Nam Bộ, cụ thể là nông dân Nam Bộ. Đặc
điểm này tạo nên tính địa phƣơng của ca dao dân ca Nam Bộ, góp phần làm phong phú
thêm tiến trình phát triển chung của ca dao dân ca Việt Nam”.
Trong một bài viết có tên “Vị thế địa – văn hóa của Hà Nội nghìn xƣa trong bối
cảnh môi sinh lƣu vực sông Hồng và cả nƣớc Việt Nam”, cố giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng
đã vẽ ra tứ giác nƣớc của Hà Nội trong đó có hai con sông quan trọng: sông trƣớc là
sông Nhị và sông sau là sông Tô. Giáo sƣ Vƣợng cũng cho rằng: “…các cửa ô cơ bản
ngày trƣớc của thủ đô Hà Nội đều là cửa nƣớc (đúng với khái niệm Watergate), ví dụ:
Ô Cầu Giấy nằm ở ngã ba Tô Lịch – Kim Ngƣu…” và tƣ duy sông nƣớc ấy còn có liên
quan đến việc hình thành nên những cảng thị nhƣ mặt tiền của cả một vùng duyên hải
miền Trung. Thƣợng tọa Thích Nguyên Đức, trụ trì chùa Hồ Sơn, Tuy Hòa cũng cho
rằng ngay cả việc dựng chùa, tƣởng nhƣ chỉ cần chọn nơi hẻo lánh, “thâm sơn cùng
cốc” để thuận tiện cho việc tu hành, thì thực ra yếu tố nƣớc vẫn đƣợc tính đến đầu tiên.

5


Suối nƣớc, giếng nƣớc nhà chùa thƣờng rất trong và ngọt, không chỉ có trong văn
chƣơng của “Nguyễn Tuân”. Vậy nên ca dao vẫn in dấu:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng

Bên bờ nhãn vải hai hàng
Dƣới sông cá lội từng đàn tung tăng
[5, 1247]
Nguyễn Thị Thu Trang có viết trong “Sông nƣớc trong tâm thức ngƣời Việt”:
“Sông nƣớc vừa là hình ảnh chung của đất nƣớc vừa rất cá biệt, vừa là tự nhiên khách
quan vừa thể hiện tính bản địa, sự khác biệt của văn hóa mỗi vùng miền”.
“Sang sông trong văn hóa và văn học Việt” của Nguyễn Thị Tuyết có đề cập:
“Sông nƣớc hiện diện ở khắp mọi nơi trên đất nƣớc Việt Nam và ai cũng mang trong
mình hình ảnh một con sông quê hƣơng, một dòng sông tuổi thơ, dù có quá nửa đời
phiêu dạt vẫn khát khao trở về, trở về để úp mặt vào dòng sông quê (Nguyễn Trọng
Tạo), vào lòng mẹ bao dung vô bờ… Sông nƣớc trong tâm thức ngƣời Việt không chỉ
phản ánh môi trƣờng sống, tiến trình lịch sử của dân tộc mà còn hình thành nên phong
tục tập quán, tâm tính, kiểu tƣ duy, cách ứng xử của từng con ngƣời cụ thể. Sang sông
vừa là nhu cầu tất yếu, gắn với đời sống tâm lý tình cảm của con ngƣời, vừa thể hiện sự
dạt dào ở tầm triết học mang tính ẩn dụ sâu sắc”.
Tất cả những công trình trên tuy đã đề cập và khai thác ở nhiều khía cạnh xung
quanh biểu tƣợng dòng sông nhƣng chỉ dừng lại ở cái chung nhất mà chƣa đi sâu vào
biểu tƣợng của dòng sông trong ca dao Việt nhìn từ góc độ văn hóa.
6. Đóng góp của khóa luận
- Về khoa học: Nghiên cứu, phân tích, làm rõ đặc điểm của biểu tƣợng dòng sông
về nhiều mặt: dòng sông với văn hóa vùng miền, dòng sông với các dạng thức khác
nhau. Từ đó góp phần làm nổi bật đặc sắc của biểu tƣợng dòng sông trong sự đối sánh
với ca dao nói chung.
- Về thực tiễn: Khóa luận góp thêm tiếng nói cho những ai muốn đi sâu hơn về
biểu tƣợng dòng sông trong ca dao trữ tình ngƣời Việt.

6


7. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của khóa luận
đƣợc bố cục thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Giới thuyết về biểu tƣợng và biểu tƣợng dòng sông
Chƣơng 2: Dấu ấn địa – văn hóa của biểu tƣợng dòng sông trong ca dao
Chƣơng 3: Các dạng thức và ý nghĩa biểu trƣng của dòng sông trong ca dao

7


NỘI DUNG
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT VỀ BIỂU TƢỢNG VÀ BIỂU TƢỢNG DÕNG SÔNG
1.1. Biểu tƣợng
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của PGS. Lê Bá Hán – GS.TS Trần Đình Sử GS. Nguyễn Khắc Phi nhận định:
Biểu tượng ( tiếng Pháp: representation hoặc symbole)
Trong triết học và tâm lí học, biểu tƣợng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một
hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong
đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt.
Biểu tƣợng nhƣ là thuật ngữ của mĩ học, lí luận văn học và ngôn ngữ học còn
đƣợc gọi là tƣợng trƣng, nó có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Văn học phản ánh cuộc sống
bằng hình tƣợng nghệ thuật. Đặc điểm cơ bản của hình tƣợng nghệ thuật là sự tái hiện
thế giới, làm cho con ngƣời và thế giới hiện lên y nhƣ thật. Nhƣng hình tƣợng cũng là
hiện tƣợng đầy tính ƣớc lệ. Bằng hình tƣợng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hoàn
toàn mang tính biểu tƣợng. Cho nên, trong nghĩa rộng, biểu tƣợng là đặc trƣng phản
ánh cuộc sống bằng hình tƣợng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tƣợng là
một phƣơng thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tƣợng nghệ thuật đặc biệt
có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát đƣợc bản chất của một hiện tƣợng nào đấy,
vừa thể hiện một quan niệm, một tƣ tƣởng hay một triết lí sâu xa về con ngƣời và cuộc
đời, nhƣ hình tƣợng “Đạm Tiên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, hình tƣợng “cây
sồi” trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtoi, hay hình tƣợng “bò khoang” trong
Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. Loại biểu tƣợng là hình tƣợng nghệ thuật thể

hiện tập trung nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính quan niệm, thông qua các mô
hình đời sống của văn học nghệ thuật.
Là một phƣơng thức chuyển nghĩa của lời nói, biểu tƣợng có quan hệ gần gũi
với ẩn dụ, hoán dụ. Giống với hoán dụ, ẩn dụ, biểu tƣợng đƣợc hình thành trên cơ sở
đối chiếu, so sánh cả hiện tƣợng, đối tƣợng có những phƣơng diện, khía cạnh, những
đặc điểm gần gũi, tƣơng đồng, nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý niệm cụ thể,
sáng tỏ về hiện tƣợng hay đối tƣợng đó. Tuy nhiên, biểu tƣợng không phải bao giờ cũng

8


là những hoán dụ, ẩn dụ. Biểu tƣợng không loại bỏ ý nghĩ cụ thể, cảm tính của vật
tƣợng trƣng hoặc của hình tƣợng nghệ thuật. Khác với ẩn dụ, hoán dụ, ý nghĩa của biểu
tƣợng tồn tại cả ở ngoài văn bản mà chúng ta đang tiếp xúc. Bởi vì quá trình tạo nghĩa
của mỗi biểu tƣợng thƣờng có lịch sử lâu đời hàng vạn năm, gắn liền với quá trình hình
thành quan niệm về thế giới của con ngƣời cổ xƣa. Cho nên, thần thoại, truyền thuyết,
ca dao, truyện cổ tích, văn học trung đại là những cái kho biểu tƣợng khổng lồ. Truyền
thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ sáng tạo ra biểu tƣợng “Rồng, Tiên”. Ca dao Việt
Nam cũng sáng tạo ra những biểu tƣợng tuyệt vời nhƣ “dòng sông”, “con cò”. Không
hiểu đƣợc những biểu tƣợng có tính chất truyền thống ấy, ta không hiểu đƣợc chiều sâu
của thơ ca nghệ thuật.
Là hiện tƣợng lịch sử, biểu tƣợng chịu sự chi phối của ngôn ngữ, tâm lí, quan
niệm của dân tộc và thời đại. Cho nên, muốn khám phá ý nghĩa của biểu tƣợng, ta phải
thực sự thâm nhập vào từng khía cạnh để tƣờng tận về nó.
Theo Từ điển Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê: : “Biểu tƣợng là hình ảnh tƣợng
trƣng, là hình ảnh của nhận thức, cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong
đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt”.
Nhƣ vậy, có thể hiểu biểu tƣợng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tƣợng
của thế giới xung quanh, đƣợc hình thành trên cơ sở các cảm giác và các tri giác đã xảy
ra trƣớc đó, đƣợc giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới đƣợc hình thành trên

cơ sở những hình ảnh đã có từ trƣớc. Biểu tƣợng không phải hoàn toàn là thực tế, bởi vì
nó đƣợc xây dựng lại từ thực tế sau khi đã đƣợc tri giác. Biểu tƣợng chính là hiện tƣợng
chủ quan của đối tƣợng về hiện tƣợng khách quan đã đƣợc tri giác từ trƣớc.
Biểu tƣợng trong ca dao là một loại nghệ thuật biểu tƣợng, xây dựng bằng ngôn
từ với những quy ƣớc của cộng đổng [106].
1.2.

Biểu tƣợng dòng sông

Sông gắn liền với nƣớc. Nƣớc là vật chất tối cần cho sự sống. Sông cung cấp
nƣớc làm nên cuộc sống, sông là đƣờng lƣu chuyển tự nhiên nhƣ mạch máu đến khắp
cơ thể. Dòng sông là dấu ấn tiền nhân đóng lên trời đất. Chính vì thế dòng sông đã đi
vào trong văn học và trở thành biểu tƣợng mang nhiều tầng nghĩa.

9


Theo J.E.Cirlot trong cuốn “Tính biểu tƣợng của khu rừng và dòng sông”, Duy
Đoàn chuyển ngữ từ bản tiếng Anh của Jack Sage, nhận định: Dòng sông là một biểu
tƣợng lƣỡng nghĩa bởi vì nó tƣơng ứng với quyền năng sáng tạo của cả tự nhiên lẫn thời
gian. Một mặt, nó biểu thị cho sự màu mỡ, tƣới tiêu đều đặn cho đất đai; mặt khác nó
biểu trƣng cho dòng thời gian bất khả quy hồi và hệ quả dẫn đến, biểu trƣng cho ý
nghĩa về sự mất mát và lãng quên”.
Theo cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier có viết: Biểu
tƣợng sông hay dòng chảy đồng thời là biểu tƣợng của khả năng vạn vật, của tính lƣu
chuyển của mọi dạng thể (F. Schoun).
Dòng sông trên cao của truyền thuyết Do Thái là dòng sông của những ân huệ,
của những ảnh hƣởng của trời. Những dòng sông trên cao chảy xuống thẳng đứng theo
trục của thế giới; sau đó tỏa ra theo chiều nằm ngang từ trung tâm ra bốn phƣơng, đến
tận đầu mút của thế giới: đó là bốn con sông của Địa đàng.

Ở ngƣời Hi Lạp, các dòng sông là những đối tƣợng thờ cúng: các dòng sông hầu
nhƣ đƣợc thần thánh hóa nhƣ là con của các Đại dƣơng hay là Cha của các Nữ thần.
Ngƣời ta cúng cho các sông các lễ vật bằng cách nhấn chìm dƣới những con sóng
những con bò và những con ngựa sống. Ngƣời ta chỉ có thể qua sông sau khi đã tuân
thủ những nghi lễ tẩy uế và cử hành cầu nguyện.
Boyne, một trong những con sông chính của Ailen, trong sách Dindshenchas hay
Lịch sử những địa danh, đƣợc coi nhƣ là hình ảnh của con sông lớn vũ trụ: mọi thứ đều
đến từ đó, mọi thứ đều quay về đó.
Platon dùng một công thức ngắn gọn hơn khi nói: người ta không thể hai lần
bước xuống một dòng sông (Cratyle 402a).
Trong văn học Việt Nam nói chung và ca dao nói riêng, dòng sông đƣợc gợi
nhắc bình dị, trong trẻo, hiền hòa. Nói đến sông là nói về tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc,
nói đến sông là nói đến những hình ảnh sóng đôi nhƣ sông với cầu, sông với bến, từ đó
giúp ta liên tƣởng tới nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Trong ca dao, dòng sông hiện
lên với nhiều nét nghĩa:

10


Thứ nhất, hình tƣợng sông khơi dậy ý niệm một cái gì đó mênh mông vô tận nên
xu hƣớng phổ biến nhất là lấy đặc điểm hình thể: dài, rộng, sâu, bao la của sông để gợi
liên tƣởng về sự xa cách, sự bền vững, cái lớn lao, bất tận:
Ơn cha rộng thênh thênh tựa biển
Nghĩa mẹ dài dằng dặc tựa sông…
[2, 353]
Hay:
Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn
Núi lở, non mòn, nghĩa bạn không quên
[2, 189]
Thứ hai, xu hƣớng mƣợn những sự vật có liên quan với sông để gợi những liên

tƣởng khác nhau về thân phận con ngƣời, về đời ngƣời: Cánh bèo gắn bó với dòng
sông, trôi dạt lênh đênh trên dòng sông không biết phƣơng hƣớng, không biết đâu là
bến bờ… Trong ca dao, hình ảnh cánh bèo trên sông đƣợc dùng để biểu đạt ý niệm thân
phận, số phận con ngƣời.
Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo
Thiếp than phận thiếp nhƣ bèo trôi sông
[2, 451]
Và dòng đời cũng nhƣ dòng chảy trên sông, sông cũng trở thành phƣơng tiện thể
hiện những ý niệm trừu tƣợng về đời ngƣời:
Gió thổi lao xao khúc sông nào sóng nấy
Thuyền em đi giữa dòng anh thấy anh thƣơng
[2, 289]
Khúc sông chật hẹp khôn tùy
Lo cho thân bậu sá gì thân qua
[2, 304]
Trong mạch tƣ duy ấy, sông còn gợi lên những liên tƣởng về những cảnh đời nhƣ “gạo
chợ nƣớc sông” trôi nổi:
Đạo nào bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn gạo chợ nƣớc sông

11


[2, 472]
Thứ ba, xu hƣớng mƣợn hình tƣợng sông làm biểu tƣợng về chính con ngƣời.
Chiều sâu của sông tạo một ý niệm về lòng ngƣời khó hiểu:
Sông sâu sào vắn khó dò
Kia kìa con tạo đƣa đò âm cung
[2, 500]
Về chính con ngƣời:

Tiếng anh nho sĩ học trò
Thấy sông vội lội, không dò cạn sâu
[2, 241]
Trong những mối quan hệ nhất định với một yếu tố thiên nhiên khác, sông biểu
đạt những ý niệm về các mối quan hệ tƣơng quan nhiều mặt:
Ví dụ nhƣ sông và cá, đặt trong trƣơng quan trai gái:
Chim buồn tình, chim bay về núi
Cá buồn tình, cá lủi xuống sông
Anh buồn tình, anh dạo chốn non bồng
Dạo miền sơn nƣớc, xuống chốn ruộng đồng mới gặp em
[2, 221]
Với những hiểu biết trên, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu dòng sông trong ca dao ở
những phƣơng diện khác nhau, mang những nét đặc trƣng trong từng cảm nhận.
1.3.

Khảo sát sự xuất hiện của biểu tƣợng dòng sông trong ca dao

Ca dao là mảnh đất nghệ thuật vô tận. Khám phá thế giới nghệ thuật trong ca
dao, ngƣời viết đi sâu vào biểu tƣợng dòng sông trong ca dao Việt. Qua quá trình khảo
sát thực tiễn và tƣ liệu, tác giả nhận thấy rằng đây là một biểu tƣợng có sức sống tiềm
tàng, vƣợt qua đại ngàn của không gian và thời gian, làm nên nét riêng biệt cho ca dao
dân ca Việt Nam. Bất cứ nơi đâu trên văn đàn nghệ thuật, ta đều tìm thấy hơi thở của
ngọn nguồn dân tộc qua những bài ca dao truyền thống. Biểu tƣợng dòng sông cũng là
một trong số những đề tài quen thuộc, quyến luyến bƣớc chân của nhiều nhà nghiên
cứu.

12


Khảo sát trong quyển “Ca dao dân ca Nam Bộ” của Bảo Định Giang, Nguyễn

Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị - NXB TPHCM, 1994 (kí hiệu TL1), hình
tƣợng sông có tần số xuất hiện 144 lần và việc sử dụng hình tƣợng sông nƣớc ở đây
không nhằm tái hiện hình ảnh một con sông cụ thể nào mà chủ yếu bị chi phối bởi các
đặc thù của cảm xúc và mục đích biểu tƣợng hóa nghệ thuật – Sông trở thành một biểu
tƣợng nghệ thuật khi đƣợc sử dụng với nghĩa bóng ổn định.
Khảo sát trong quyển “Kho tàng ca dao ngƣời Việt” của Nguyễn Xuân Kính,
Phan Đăng Nhật – NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 1995 (tập I, II, III, IV), hình tƣợng
dòng sông có tần số xuất hiện rất cao: 711 lần. Từ tƣ liệu cụ thể, chúng tôi nhận thấy
dòng sông đƣợc xuất hiện với các nét nghĩa và dạng thức khác nhau.
Từ kết quả khảo sát, không khó để nhận ra biểu tƣợng dòng sông xuất hiện với
một tần số cao trong ca dao ngƣời Việt. Từ Bắc vô Nam, địa danh nào cũng có những
bài ca dao thể hiện đặc trƣng quê mình. Rõ ràng là, địa vực lƣu trú với những con sông
trải dài từ Bắc chí Nam đã hình thành nên mỗi quan hệ gắn bó giữa con ngƣời với dòng
sông. Bên cạnh đó, nghề trồng lúa nƣớc bắt ngƣời nông dân phải gắn bó bền bỉ với
dòng sông, bởi sông nhƣ một nguồn sống bất tận cung cấp nƣớc cho con ngƣời, phục vụ
sản xuất, lao động. Khát vọng sống hòa hợp với tự nhiên của con ngƣời xƣa đã đƣợc
nhắc đến trong thần thoại:
“Suối nguồn thì sâu
Bất chấp hạn hán, nƣớc dâng lên
Nhƣ là dòng sông
Thắng biển cả…”
Sông là linh hồn của con ngƣời trong đời sống hằng ngày, hình ảnh này đi vào ca
dao nhƣ một tất yếu không thể không nhắc đến:
Ở đâu năm cửa chàng ơi
Sông nào sáu khúc nƣớc chảy xuôi một dòng…
[5, 1700]
Hay:
Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu


13


Nong tằm, ao cá, nƣơng dâu
Đò xƣa bến cũ nhớ câu hẹn hò
[5, 1503]
Ca dao không phải là sản phẩm của tƣ duy trừu tƣợng, của sự khái quát hóa khoa
học, mà chủ yếu là sản phẩm của sự suy tƣ, xúc cảm, là tiếng nói của tâm hồn, tình
cảm. Cái đƣợc gọi là “ý” hay “tƣ tƣởng” hoặc “chủ đề” ở trong ca dao thƣờng không
tồn tại dƣới dạng trừu tƣợng khái quát hóa, mà tồn tại dƣới dạng cảm tính, gắn với
những cảm xúc nhất định. Vì vậy, gần gũi với đời sống con ngƣời, với những lợi ích
thiết thực không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, dòng sông đƣợc gợi
nhắc trong ca dao gắn liền với bản sắc văn hóa mỗi vùng miền.
Bản sắc văn hóa là nét đặc trƣng cho từng miền quê ở Việt Nam, nó thể hiện nét
đẹp phong tục, tập quán của nơi đó. Gắn bó với bản sắc văn hóa lâu đời, bền bỉ và
trƣờng tồn nhất chính là những nét đẹp của dân gian. Một trong những số đó chính là
văn học dân gian – kho tàng lƣu giữ và phát huy vẻ đẹp cho từng vùng miền. Mỗi địa
danh, mỗi vùng miền đều có một kho tàng ca dao dân ca nói riêng, nói lên vẻ đẹp về
thiên nhiên, con ngƣời, về món ăn đặc sản… Nhƣng tất cả đều mang một nét chung đó
là thể hiện tình cảm, suy nghĩ của con ngƣời Việt Nam về những vùng đất trù phú của
quê hƣơng ta:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dƣới sông cá lội từng đàn tung tăng
[5, 1247]
Cùng với tre xanh, cây đa, giếng nƣớc, sân đình – những hình ảnh quen thuộc
của làng Việt cổ, thì dòng sông cũng gắn liền với bao biến cố thăng trầm của lịch sử và
trở thành biểu tƣợng đặc sắc góp phần tạo nên nét riêng cho văn hóa mỗi vùng miền.
Sông Lam Giang càng ngày càng rộng

Núi Hồng Lĩnh mỗi bậc mỗi cao
[5, 1845]

14


Bài ca dao nhƣ dẫn bƣớc chân ta đến miền sông nƣớc nƣớc mênh mang, cho ta
khám phá cái vẻ đẹp của một miền lam thủy nên thơ, trữ tình mà ƣớp đầy hƣơng thơm
bởi lòng ngƣời say đắm. Lời ca nhƣ thấm đẫm bản chất, đặc trƣng của miền quê nơi
đây, mang theo ƣớc vọng tới những con ngƣời muốn khám phá nơi này.
Từng câu ca dao đều phảng phất trong nó những nét đẹp về con ngƣời, về sự trù
phú mà thiên nhiên đã ban tặng cho những vùng miền trên đất nƣớc Việt Nam. Nơi mà
những vùng đất với những ngƣời con anh dũng, bất khuất chống giặc ngoại xâm, sẵn
sàng ngã xuống để mạng lại độc lập, tự do, ấm no cho đất nƣớc, nơi có tài nguyên màu
mỡ, phong phú mà thiên nhiên, tạo hóa đã ƣu ái ban tặng cho chúng ta. Làm sao không
nhớ những bãi bồi phù sa, những miền sơn cƣớc…? Tất cả đều đƣợc in dấu trong tâm
trí ngƣời Việt:
Con sông kia nƣớc chảy lờ đờ
Con thuyền lững đững với trăng mờ nào soi
Con sông kia bên lở bên bồi
Lở kia lở mãi bên bồi bồi thêm
[5, 466]
Hình ảnh con sông với bãi bờ hai bên hiện lên cho thấy cảnh sắc miền quê thật
thanh bình, dân dã. Ẩn sau đó là tình cảm gắn bó thiết tha của con ngƣời với cảnh sắc
quê hƣơng.
Tiểu kết:
Dòng sông từ đời sống thực tại, với những thuộc tính tự nhiên đƣợc “đồ chiếu”
trong ca dao, trở thành biểu tƣợng nghệ thuật độc đáo. Xuất hiện trong ca dao trữ tình
ngƣời Việt, dòng sông hiện hữu nhƣ một sinh thể sống động, mang đậm bản sắc văn
hóa vùng miền và chứa đựng những nét nghĩa biểu đạt phong phú, góp phần diễn tả đời

sống tâm hồn của con ngƣời.

15


Chƣơng 2. DẤU ẤN ĐỊA – VĂN HÓA CỦA BIỂU TƢỢNG DÕNG SÔNG
TRONG CA DAO TRỮ TÌNH NGƢƠI VIỆT
Với đặc điểm địa lý nhiều sông ngòi, kênh rạch, văn hóa Việt Nam đƣợc hình
thành mang những nét đặc trƣng riêng. Nói đến bản sắc văn hóa tức là nói đến cái bất
biến của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, văn hóa là sự hợp
nhất của nhiều hệ thống tạo thành, chứ không phải sự tách rời, riêng lẻ của từng vật.
Từng bộ phận: thiên nhiên, Tổ quốc, gia đình đều có ảnh hƣởng rất lớn trong quá trình
hình thành và phát triển văn hóa dân tộc. Vì vậy, giữ gìn nền văn hóa dân tộc vừa là bảo
tồn sự đa dạng văn hóa Việt, vừa là sự phát triển văn hóa Việt Nam.
Với ngƣời Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nƣớc, thì sự gắn bó tự
nhiên lại cáng bền chặt và lâu dài. Chính vì điều kiện tất yếu này mà dòng sông là biểu
tƣợng luôn song hành với ngƣời Việt, trở thành biểu tƣợng đặc trƣng và quen thuộc, đi
liền trong hành trình sống và lao động sản xuất.
2.1. Dòng sông mang dấu ấn vùng miền Bắc bộ
2.1.1. Sông Tô Lịch – dấu ấn đất kinh kì
Đất Kinh Kì – mảnh đất ghi dấu đậm nét văn hóa nghìn năm Thăng Long – Hà
Nội. Nơi đây có những con ngƣời, những địa danh, di tích làm nên nét đặc sắc văn hóa
cho một miền quê. Ai ngang qua Hà Nội cũng đều chạnh lòng thƣơng nhớ câu ca:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch bao quanh xóm làng
[5, 1247]
Từ ngày Lí Thái Tổ định đô Thăng Long và trải qua các triều Lý – Trần Lê, sông Tô
Lịch có một sức sống mạnh mẽ, phong phú.
Trƣớc hết, hai bên sông xuất hiện nhiều làng dân cƣ đông đúc, kinh tế phát triển,
nhiều công trình kiến trúc, chủ yếu là chùa, quán và cũng tại hai triền sông Tô này, xuất

hiện nhiều danh nhân văn hóa đất nƣớc – bên tả ngạn gồm phần đất của hai huyện Thọ
Xƣơng, Vĩnh Thuận, ngoài thành nội, còn có 61 phƣờng nợ thủ công, dân thập tạm trại,
từ Lệ Mật sang khai khẩn, trồng lúa, rau, hoa.

16


Nói về dấu ấn văn hóa bên dòng Tô Lịch, có rất nhiều điều mến thƣơng, có rất
nhiều thứ ca ngợi, để mà nhớ, để mà thƣơng, để ai đó dẫu đi xa hay gần kề đất mẹ, cũng
vẫn một lòng nhớ đến con sông quê. Sông Tô Lịch gắn liền với những cái tên mang dấu
ấn của nhiều làng nghề và nhiều nhân tài đất kinh đô. Theo sử chép, trên sông xƣa kia
chở thuyền hàng và thủy quân có thể đi lại vì có hai cửa thông với sông Hồng. Cửa
Thiên Phù ở phía Tây – bắc Hồ Tây, đón nguồn nƣớc từ sông Hồng chảy về vùng
Nghĩa Đô, và cửa Hƣơng Bài là cửa thứ hai.
Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm lịch sử, sông Tô Lịch mang nhiều tên nhƣ: Tô
Lịch, Lai Tô, Hƣơng Bài, Địa Bảo. Ngay từ thế kỉ VI, sách Lƣơng thƣ, Trần Thƣ của
Trung Quốc đã ghi lại rằng: năm 545 Nam Việt đế Lí Bí cho đắp dựng một tòa thành
bên một dòng sông, đƣợc gọi là “Tô Lịch giang thành” (Thành sông Tô Lịch). Theo
sách Việt Điện U Linh, Tô Lịch là tên một vị hiền tài quê ở Thăng Long có nhiều công
đức giúp dân làng nơi ông sinh trƣởng nên khi ông mất, dân thờ kính, phong ông là
Long Đỗ thần hoặc Tô Lịch giang thành. Dƣờng nhƣ con sông nhỏ bé giữa lòng thủ đô
này đã đi vào lòng ngƣời, đi vào trong từng trang sách sử từ ngàn đời, để cho đến tận
bây giờ, vẻ xanh tƣơi của nó vẫn hiện hữu không phai.
Dòng sông hiền hòa nhƣ trúc mai, bao dung nhƣ lòng mẹ ấy đã đi vào ca dao xƣa
một cách tự nhiên, thuần túy. Hình ảnh những ngƣời ngƣời đi dọc ven sông đã trở thành
hình ảnh thân quen với những ngƣời dân sinh sống tại Hà Nội, và câu ca trên chính là
sự gợi nhắc khéo léo, tinh tế và ý vị.
Sông Tô nƣớc chảy quanh co
Cầu Đông sƣơng sớm, Quán Giò trăng khuya
Buồn tình vừa lúc phân chia

Tiếng ai nhƣ đã bên kia hẹn hò
[5, 1853]
Tô Lịch là nhánh của sông Nhĩ Hà, là dòng sông cổ của Thăng Long, chảy trong
địa phận thủ đô Hà Nội. Dòng chính sông Tô Lịch chảy qua Thanh Xuân, Hoàng Mai
và Thanh Trì, còn đƣợc gọi là Kim Giang. Vì thế, ngƣời xƣa và nay vẫn thƣờng nói: Tô
Lịch là sông quê hƣơng của ngƣời Hà Nội. Con sông ven đê đã quá quen thuộc, gần gũi
với ngƣời dân nơi đây. Nó không chỉ là nơi cung cấp cho con ngƣời nguồn nƣớc sinh

17


hoạt, tƣới tiêu, mà còn là đƣờng giao thông thuận lợi giúp nhân dân trao đổi, buôn bán,
giao lƣu giữa các vùng miền, dân tộc. Câu ca dao trên khiến ta thấy hiện hữu trƣớc mắt
là một dòng sông đầy ắp nƣớc, dân Kẻ Chợ sống ở hai bên bờ sông buôn bán tấp nập,
trên bến dƣới thuyền. Hợp với sông Thiên Phù, vị trí hợp lƣu của hai con sông này đã
tạo nên nét “duyên thầm” chợ phiên Hà Nội – Chợ Bƣởi.
Chợ Bƣởi một tháng sáu phiên
Ngày tƣ, ngày chín cho duyên đèo bòng
[5, 651]
Không biết từ lúc nào, nó đã tồn tại trong lòng ngƣời Hà Nội nhƣ một nét văn
hóa riêng, và đƣợc coi là nét “duyên thầm” của mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn
hiến này. Đến với phiên chợ này, ngƣời đi chợ không chỉ đƣợc thỏa mãn nhu cầu mua
sắm theo sở thích của mình mà còn đƣợc nhìn, ngắm và cảm nhận không khí phiên chợ
giống nhƣ một phiên chợ nông thôn nhà quê, khiến giữa chốn phồn hoa đô thị, ta vẫn
đƣợc thƣởng thức cái dân dã, bình yên thôn quê. Theo câu ca dao, ngƣời xƣa tiếp
chuyện rằng: xƣa kia bƣởi vùng mạn ngƣợc theo dòng chảy của sông Tô và sông Thiên
Phù chảy trôi về rất nhiều, ngƣời ta vớt lên bán, và dần dần có thói quen gọi vùng này
là vùng bƣởi, đến khi hình thành nên chợ, cũng đƣợc gọi là chợ Bƣởi. Bao năm tháng
đã trôi đi, ngôi chợ đã tạo nên những nét văn hóa khá đặc sắc cho khu vực Hà Thành.
Đây là con sông vàng, sông bạc, sông buôn, sông bán, thuyền mành chen vai sát cánh,

con sông kinh tế và cũng là con sông văn hóa nhƣ ca dao về “Hà Nội nghìn xƣa” đã
miêu tả:
Sông Tô nƣớc chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Thon thon hai mũi chèo hoa
Lƣớt đi lƣớt lại nhƣ là bƣớm bay
[5, 1853]
Vẻ đẹp của sông không chỉ đƣợc dệt nên bởi dòng nƣớc trong xanh, bởi dấu ấn
văn hóa ngàn đời, mà nó còn đƣợc tô điểm từ những gì bình dị cuả quê nhà: con thuyền
với mũi chèo hoa, bƣớm bay vòng lƣợn… Bức tranh đƣợc chấm thêm mấy nét mà trở
nên sinh động, diệu kì nhờ bút pháp nghệ thuật của ngƣời xƣa.

18


Đời sống sông Tô Lịch thật phong phú. Nó chứa đầy ắp những sự tích và di tích
văn hóa. Cảnh đẹp hi hữu của Thủ đô này vẫn ngát hƣơng một dòng trong để ngàn đời
khúc ca còn vọng mãi:
Sông Tô một dải lƣợn vòng
Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài
[5,1853]
Hà Nội ngày nay đã khác xƣa nhiều, song cái nét đong đƣa của dòng sông lúc
vơi khi đầy vẫn mang vóc dáng riêng, ghi dấu ấn văn hóa đặc sắc cho một vùng miền.
2.1.2. Sông Thƣơng – con sông cổ tích
Mỗi con sông gắn liền với mỗi vùng đất, đều mang dáng vẻ riêng. Tên mỗi con
sông ngân lên chính cái hồn của nó vậy. Nếu nhƣ sông Đuống trƣờng kì, hình tƣợng
qua những câu thơ đứt ruột:
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trƣờng kì

(Hoàng Cầm)
Thì mềm mại, trìu mến, mộng mơ, nhƣng cũng rất cá tính, chính là dòng sông Thƣơng:
Sông Ngâu, sông Cả, sông Đào
Ba con sông ấy đổ vào sông Thƣơng
[5, 1846]
Sông Thƣơng, hay còn gọi là sông Nhật Đức, là một con sông lớn ở địa phận các
tỉnh Lạng Sơn – Bắc Giang – Hải Dƣơng và là một chi lƣu của sông Thái Bình. Thời
phong kiến, khi quan, quân lên trấn ải biên thùy Lạng Sơn thì gia quyến của họ đƣợc
phép tiễn đƣa đến con sông này, ngƣời đi, kẻ ở chia tay nhau ở đây thật là thƣơng cảm.
Từ đó, ngƣời nơi này gọi là sông Thƣơng:
Con sông sâu nƣớc dọc đò ngang
Mình về bên ấy ta sang bên này
Đƣơng cơn nƣớc lớn đò đầy
[5, 1846 – 1847]

19


×