Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong đời mưa gió của nhất linh, khái hưng và chúa đã tạo ra đàn bà của simone colette (KL07172)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.3 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

CAO THỊ HƯƠNG

KIỂU NHÂN VẬT NỮ NỔI LOẠN
TRONG ĐỜI MƯA GIÓ CỦA NHẤT LINH,
KHÁI HƯNG VÀ VÀ CHÚA ĐÃ TẠO RA ĐÀN BÀ
CỦA SIMONE COLETTE

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI – 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********

CAO THỊ HƯƠNG

KIỂU NHÂN VẬT NỮ NỔI LOẠN
TRONG ĐỜI MƯA GIÓ CỦA NHẤT LINH,
KHÁI HƯNG VÀ VÀ CHÚA ĐÃ TẠO RA ĐÀN BÀ
CỦA SIMONE COLETTE

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học


Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn Thị Vân Anh

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ
Nguyễn Thị Vân Anh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ
văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lý luận văn học và các bạn sinh viên đã giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Cao Thị Hương


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Thạc sĩ
Nguyễn Thị Vân Anh. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình nghiên
cứu nào từng công bố.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2015
Sinh viên


Cao Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HỌC SO SÁNH .............. 6
1.1. Khái niệm văn học so sánh và sự hình thành bộ môn Văn học so sánh ....... 6
1.1.1. Khái niệm văn học so sánh ...................................................................... 6
1.1.2. Sự hình thành bộ môn Văn học so sánh ................................................... 9
1.2. Các loại hình nghiên cứu văn học so sánh.................................................. 10
1.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng ........................................................................... 10
1.2.2. Nghiên cứu song song............................................................................. 14
1.2.3. Nghiên cứu liên ngành ........................................................................... 17
1.3. Ý nghĩa và tác dụng của bộ môn Văn học so sánh .................................... 18
CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA KIỂU NHÂN VẬT NỮ NỔI
LOẠN TRONG ĐỜI MƯA GIÓ CỦA NHẤT LINH – KHÁI HƯNG VÀ VÀ
CHÚA ĐÃ TẠO RA ĐÀN BÀ CỦA SIMONE COLETTE................................. 19
2.1. Tính cách hồn nhiên, tươi trẻ ..................................................................... 19
2.2. Hình tượng người phụ nữ nổi loạn như là một phương tiện biểu hiện tư
tưởng nữ quyền ............................................................................................... 23



2.2.1. Người phụ nữ với khát vọng vượt thoát khỏi những cổ lệ, giáo điều hà
khắc ................................................................................................................. 23
2.2.2. Người phụ nữ được khắc họa đậm nét ở phương diện bản năng tính dục..27
2.3. Bi kịch của sự “lệch chuẩn” ...................................................................... 30
2.4. Thủ pháp đối lập trong miêu tả nhân vật ................................................... 35
CHƯƠNG 3: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA KIỂU NHÂN VẬT NỮ NỔI LOẠN
TRONG ĐỜI MƯA GIÓ CỦA NHẤT LINH – KHÁI HƯNG VÀ VÀ CHÚA
ĐÃ TẠO RA ĐÀN BÀ CỦA SIMONE COLETTE ............................................ 40
3.1. Sự miêu tả ngoại hình nhân vật ................................................................. 40
3.2. Phương thức miêu tả mặt bản năng dục tính .............................................. 43
3.3. Tính chất của sự nổi loạn .......................................................................... 49
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng hướng con người tới các giá
trị chân – thiện – mĩ cao nhất. Văn hào Nga – M. Gorki từng khẳng định “văn học là
nhân học”. Điều này đồng nghĩa với việc xác quyết đối tượng miêu tả chủ yếu trong
văn học chính là con người. Con người trong văn học là trung tâm kết tinh mọi giá
trị và là điểm tựa để nhà văn nhìn ra thế giới. Bởi vậy, tác phẩm văn học không bao
giờ vắng bóng nhân vật. Nó là một phương tiện thiết yếu bộc lộ tư tưởng, quan niệm
nghệ thuật cũng như lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời, về con người.
Chính vì thế, nghiên cứu tác phẩm văn học không thể không tiếp cận nhân vật văn
học. Việc nghiên cứu nhân vật văn học sẽ giúp nhận diện những diễn biến tư tưởng,
cảm quan đời sống và phong cách nghệ thuật của nhà văn, từ đó có cơ sở để khẳng
định những đóng góp riêng của nhà văn vào tiến trình văn học dân tộc.
1.2. Từ xưa tới nay, người phụ nữ không chỉ hiện hữu như một tất thể trong
thực tế đời sống mà còn trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong các sáng tác thi ca

nhân loại. Thực tiễn văn học cho thấy, trong suốt trường kì lịch sử, người phụ nữ
luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi và bị phụ thuộc. Họ bị trói buộc bởi những
thành kiến bảo thủ, lạc hậu mà chế độ phụ quyền thiết lập nên.Tuy nhiên, xã hội
ngày càng tiến bộ, người phụ nữ cũng ngày càng ý thức được giá trị, vai trò của
mình. Họ đã tự vươn lên để tìm cách giải phóng cho mình, chủ động đi tìm hạnh
phúc và sống theo cá tính bản thân. Đó được xem là sự phá cách, “nổi loạn” của
giới nữ để vượt thoát ra khỏi những khuôn phép, lề thói kìm buộc người phụ nữ,
đồng thời đả phá vào những tư tưởng đạo đức cố hữu lỗi thời nhằm lấy lại sự công
bằng cho giới mình.
1.3. Đời mưa gió của Nhất Linh – Khái Hưng và Và chúa đã tạo ra đàn bà
của Simone Colette là hai tác phẩm cùng viết về sự “nổi loạn” của giới nữ. Hai tác
phẩm cũng đồng thời là đại diện cho hai dân tộc, hai nền văn hóa khác nhau.
Nghiên cứu về hai tác phẩm này đã có nhiều bài viết, nhận xét đánh giá trên nhiều

1


khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, song, nó chưa được nhìn nhận ở phương diện
văn học so sánh.
1.4. Từ lâu, văn học so sánh đã trở thành một bộ môn quan trọng trong
nghiên cứu văn học. Ở Việt Nam hiện nay, nó cũng đã được đưa vào giảng dạy ở
các trường Đại học và Cao đẳng. Cũng đã có một số chuyên luận giới thiệu lý
thuyết và các công trình nghiên cứu cụ thể về Văn học so sánh như: “Góp phần tìm
hiểu văn học so sánh” của Nguyễn Văn Dân, “ Mấy vấn đề về văn học so sánh và so
sánh văn học” của Lê Đình Cúc, “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh, “Nhà
văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan, “Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến
tiểu thuyết cổ Việt Nam” của Nguyễn Xuân Hòa … Các công trình này có đóng góp
là áp dụng lý thuyết văn học so sánh vào việc nghiên cứu trong thực tiễn. Tuy
nhiên, hiện trạng nghiên cứu của bộ môn này hiện nay còn chưa xứng đáng với tiềm
năng của nó.

1.5. Dựa trên tinh thần nghiên cứu đó, tác giả khóa luận lựa chọn đề tài
“Kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong Đời mưa gió của Nhất Linh – Khái Hưng và Và
chúa đã tạo ra đàn bà của Simone Colette” với mục đích làm rõ những điểm tương
đồng và khác biệt về kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong hai tác phẩm. Đồng thời, với
đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ góp một phần công sức vào việc khẳng định vị trí
của bộ môn Văn học so sánh và ứng dụng của bộ môn này trong thực tiễn nghiên
cứu văn học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về tiểu thuyết Đời mưa gió đã có nhiều nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá tác
phẩm này ở các khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số ý kiến, đánh giá, bình
luận như:
Trong Lời giới thiệu tác phẩm Đời mưa gió, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cho
rằng: “Tuyết trong Đời mưa gió là mẫu hình mới, sản phẩm của lối ăn chơi trác
táng” [13; tr.5].
Trong cuốn Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng
đánh giá: “Tuyết là mẫu hình mới của tự do cá nhân… Tuyết chỉ tôn thờ sự hưởng

2


thụ và ảo tưởng một cõi tự do tuyệt đối, “không bao giờ trở thành vật sở hữu của ai”
nhưng lại muốn sở hữu tất cả. Đó là sự phát triển méo mó của ý thức cá nhân” [21;
tr.55].
Giáo trình Văn học Việt Nam 1930 – 1945, tập I, cũng có nhận định về tác
phẩm này: “Với Đời mưa gió của Nhất Linh và Khái Hưng, cái tự do cá nhân đã trở
thành con người cá nhân trầm trọng, chủ nghĩa lãng mạn đã nhiễm thêm chất độc
của tâm lý trụy lạc” [18; tr.143].
Trong bài viết “Những ấn tượng còn đọng lại” in trong cuốn Tự lực văn
đoàn: Trào lưu – tác giả, Bùi Hiển nhận xét: “Tuyết trong Đời mưa gió lao vào con
đường trụy lạc với triết lý của con thiêu thân, với một tuyên ngôn liều lĩnh trắng

trợn mang màu sắc cá nhân chủ nghĩa cực đoan (…), tính cách ấy có phần cách biệt
xa lạ so với hoàn cảnh và tâm lý xã hội chung thời bấy giờ” [9; tr.430].
Tuy nhiên, cũng trong cuốn Tự lực văn đoàn: Trào lưu – tác giả thì tác giả
Hà Minh Đức với bài “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn” lại đề
cập đến nhân vật Tuyết với tư cách là một kiểu nhân vật mới mẻ trong văn chương
Tự lực văn đoàn, đại diện cho lớp phụ nữ sống “phá cách”, vươn lên giải phóng cho
mình [9; tr.52-53].
Đối với tiểu thuyết Và chúa đã tạo ra đàn bà, theo quan sát của chúng tôi, vì
tác phẩm này mới được dịch ra ở Việt Nam (Nguyên Thiện dịch năm 2012) cho nên
chưa có một công trình nghiên cứu nào về tác phẩm. Trong khi đó, ở phương Tây,
nó được biết đến nhiều hơn qua đời sống điện ảnh. Khi tìm hiểu các bài viết về Và
chúa đã tạo ra đàn bà với tư cách là một tác phẩm văn học thì chúng tôi nhận thấy
các bài viết mới chỉ dừng lại ở những nhận xét sơ lược mang tính chất giới thiệu
sách, giới thiệu tác phẩm mà thôi.
Như vậy, qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu kể trên, chúng tôi nhận thấy,
hai tác phẩm Đời mưa gió và Và chúa đã tạo ra đàn bà cũng đã được các nhà
nghiên cứu bàn đến ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên vấn đề nhân vật nữ “nổi
loạn” trong hai tác phẩm kể trên chưa được nghiên cứu khách quan, cụ thể ở thế đối
sánh. Do đó, dựa trên lý thuyết văn học so sánh và đặc điểm của hai cuốn tiểu

3


thuyết Đời mưa gió và Và chúa đã tạo ra đàn bà, tác giả khóa luận lựa chọn đề tài
“Kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong Đời mưa gió của Nhất Linh – Khái Hưng và Và
chúa đã tạo ra đàn bà của Simone Colette” với mục đích làm rõ sự tương đồng và
khác biệt trong việc thiết tạo kiểu nhân vật của hai tác phẩm. Đồng thời qua đề tài
này chúng tôi hi vọng sẽ góp phần ứng dụng lý thuyết văn học so sánh vào nghiên
cứu trong thực tiễn văn học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
- Áp dụng lý thuyết của Văn học so sánh vào việc nghiên cứu đề tài “Kiểu
nhân vật nữ nổi loạn trong Đời mưa gió của Nhất Linh – Khái Hưng và Và chúa đã
tạo ra đàn bà của Simone Colette” nhằm thấy được những nét đặc sắc cũng như giá
trị của mỗi tác phẩm.
- Đối chiếu kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong hai tác phẩm để nhận biết những
ảnh hưởng, sáng tạo và những đặc thù của mỗi tác phẩm.
- Góp phần khẳng định sự thành công về đề tài nữ giới của hai tác giả qua hai
tác phẩm của mình ở những thời điểm lịch sử khác nhau. Việc nghiên cứu đề tài này
còn góp phần khẳng định vị trí, tầm quan trọng của bộ môn Văn học so sánh trong
bối cảnh nghiên cứu văn học hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu so sánh kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong hai tác phẩm nêu trên ở
cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật nữ trong hai tác phẩm Đời mưa gió của Khái Hưng và Và chúa đã
tạo ra đàn bà của Simone Colette.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khóa luận tập trung phạm vi nghiên cứu trong hai tác phẩm:
- Đời mưa gió của Nhất Linh – Khái Hưng, NXB Đại học và giáo dục
chuyên nghiệp, 1989.
- Và chúa đã tạo ra đàn bà của Simone Colette, NXB Trẻ, 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận có sử dụng một số

phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
Trong các phương pháp kể trên, phương pháp so sánh được chúng tôi sử
dụng là phương pháp trọng yếu.
6. Đóng góp của khóa luận
- Về phương diện lý luận, khóa luận góp phần làm rõ đặc trưng của Văn học
so sánh với tư cách là một bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn học
dân tộc.
- Trên cơ sở so sánh kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong Đời mưa gió của Nhất
Linh – Khái Hưng và Và chúa đã tạo ra đàn bà của Simone Colette, khóa luận chỉ
ra nét tương đồng cũng như khác biệt trong cách xây dựng hình tượng hai nhân vật
của hai tác giả.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về văn học so sánh
Chương 2: Sự tương đồng giữa kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong Đời mưa gió của
Nhất Linh – Khái Hưng và Và chúa đã tạo ra đàn bà của Simone Colette
Chương 3: Sự khác biệt giữa kiểu nhân vật nữ nổi loạn trong Đời mưa gió của Nhất
Linh – Khái Hưng và Và chúa đã tạo ra đàn bà của Simone Colette

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HỌC SO SÁNH
1.1. Khái niệm văn học so sánh và sự hình thành của bộ môn Văn học so sánh

1.1.1. Khái niệm văn học so sánh
Trên thế giới hiện nay, thuật ngữ văn học so sánh đã trở nên rất đỗi quen
thuộc trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học. Trong đời sống, trong sáng tạo
nghệ thuật, kể cả trong nghiên cứu văn học, bằng thói quen hoặc từ ý thức thẩm mĩ,
người ta thường dùng thao tác so sánh. Nhưng các thao tác ấy, phần nhiều chỉ biến
khái niệm trừu tượng hiển hiện thành hình ảnh sinh động, thành hình tượng nghệ
thuật, khơi gợi trực tiếp ấn tượng, xúc cảm. Còn các công trình học thuật, trước thế
kỷ XVII – XVIII, chỉ mới dừng lại đối sánh những hiện tượng trong cùng một nền
văn học. Khi đó, chúng chỉ là thao tác so sánh, ở cấp độ phương pháp, tức so sánh
văn học.
Vậy thế nào là văn học so sánh? Xuất phát từ các cách nhìn nhận và ở các
thời điểm khác nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa về văn học so
sánh. Một số nhà văn học so sánh cho rằng, bản thân từ văn học so sánh là cái tên
chưa thực sự đầy đủ, còn dễ gây nên hiểu lầm. Wellek cho rằng: “So sánh là
phương pháp mà tất cả phê bình và khoa học đều sử dụng, bất luận thế nào nó cũng
không thể trình bày đầy đủ về quá trình đặc thù của nghiên cứu văn học”. Hơn nữa,
do mỗi nước lại có cách biểu đạt và phiên dịch khác nhau về từ văn học so sánh,
nên trọng điểm mà họ nhấn mạnh cũng khác nhau. Ví dụ, từ so sánh trong văn học
so sánh tiếng Pháp là comparée, nó ám chỉ trong lịch sử văn học đã từng nảy sinh
quan hệ văn học giữa các nước. Trong tiếng Anh, comparative là tính từ, nó làm
định ngữ cho từ literature (văn học). Còn ở Trung Quốc, hai chữ so sánh (比较 : tỷ
giáo) trong tiếng Hán dễ làm cho người ta nghĩ đến động tác so sánh, đồng thời từ
văn học so sánh trong tiếng Hán về mặt chữ không có hàm nghĩa là nghiên cứu văn
học. Mặc dù các nước lý giải văn học so sánh là khác nhau nhưng do tính quy ước

6


của bản thân ngôn ngữ, nên khái niệm văn học so sánh được các nước thừa nhận.
Người ta tiếp nhận cách nói giản lược này.

Trong mục từ “Văn học so sánh” viết trong cuốn “Trung Quốc đại bách khoa
toàn thư”, giáo sư Nhạc Đại Vân ở Đại Học Bắc Kinh đưa ra một giới định: “Văn
học so sánh – một phân nhành của nghiên cứu văn học, xuất hiện vào cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX. Nó là một khoa học nghiên cứu so sánh một cách lịch sử quá
trình có tác dụng tương hỗ giữa hai nền văn học dân tộc trở lên, nó nghiên cứu mối
quan hệ tương hỗ hình thức nghệ thuật và hình thái ý thức của các nền văn học dân
tộc đó”.
Daniel – Henri Pageaux cũng có định nghĩa tương tự: “Văn học so sánh là
chuyên ngành nghiên cứu mối quan hệ tương đồng, quan hệ họ hàng hay ảnh hưởng
giữa văn học với các lĩnh vực nghệ thuật hay các lĩnh vực tư duy khác, giữa các sự
kiện hay văn bản văn học, những mối quan hệ này có thể gần hay xa, trong không
gian hay trong thời gian, miễn là chúng thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau, hoặc
nhiều văn hóa khác nhau, cho dù có chung một truyền thống” [29].
Remak, nhà nghiên cứu Hoa Kì, định nghĩa có phần đầy đủ hơn: “Văn học so
sánh là nghiên cứu văn học vượt ra ngoài phạm vi của một nước và nghiên cứu mối
quan hệ văn học với tri thức khác và lĩnh vực tín ngưỡng, bao gồm nghệ thuật (như
hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc), triết học, lịch sử, khoa học tự nhiên, tôn
giáo, … Nói gọn lại, đó là đem văn học một nước mà so sánh với văn học của một
hay nhiều nước khác, so sánh với các lĩnh vực biểu hiện khác của loài người” [28].
Tại Việt Nam, sự quan tâm đến văn học so sánh cũng được thể hiện trong
nhiều bài viết khá công phu. Trương Đăng Dung trong bài báo “Văn học dịch và
những vấn đề lý luận của văn học so sánh” định nghĩa rằng: “Văn học so sánh là
một trong những ngành khoa học văn học nghiên cứu mối quan hệ qua lại cũng như
những đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa các nền văn học nhằm tiếp cận tiến
trình văn học lớn nhất: Văn học thế giới” [6; tr.21]. Nguyễn Văn Dân thì định
nghĩa: “Văn học so sánh là một bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa
các nền văn học dân tộc” [4; tr.19]. Như vậy, các nhà nghiên cứu đã nói tới đặc

7



trưng quan trọng nhất của bộ môn Văn học so sánh là nghiên cứu so sánh tác giả,
tác phẩm… giữa các quốc gia trong nền văn học thế giới.
Về “Văn học so sánh” có nhiều ý kiến nghiên cứu, song xét về bản chất văn
học so sánh là tên gọi một hệ thống phương pháp luận, một bộ môn trong khoa
nghiên cứu văn chương. Nó phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù của bộ môn.
Cụ thể, nó chỉ bao hàm những so sánh liên văn học: nó tiến hành đối sánh các nền
văn học dân tộc với nhau. Quá trình đối sánh này phải đảm bảo tính khách quan, phi
định kiến: nhà nghiên cứu không vì lòng tự tôn, tự ti dân tộc, mà nhân danh văn học
so sánh để hạ thấp các nền văn học dân tộc khác, hoặc mặc cảm về văn học dân tộc
mình. Thao tác so sánh phải trên cơ sở cùng loại: tác phẩm sánh cùng tác phẩm, tác
giả đi bên tác giả, … Sự so sánh phải đa diện, nhiều cấp độ, nhiều hệ thống. Tất cả
đều hướng về lợi ích quốc tế, giải quyết mọi cái riêng qua cái chung. Sự giàu có của
văn học thế giới phải hội tụ từ vẻ đẹp phong phú, đặc sắc của từng nền văn học dân
tộc. Ngược lại, văn học từng dân tộc, cũng nhờ đặt trong hệ thống, mà thấy mình
độc đáo, đầy sức sống.
Mục đích của văn học so sánh, vì thế, là xác định tính khái quát của văn học
nhân loại, đồng thời chứng minh tính đặc thù của mỗi nền văn học dân tộc. Đó cũng
là quá trình giải quyết cái chung và cái riêng, cái quốc tế và cái dân tộc. Mọi trường
phái văn học so sánh, muốn thật sự khách quan, khoa học, đều phải tuân thủ các
nguyên tắc và các mục đích cụ thể này.
Nói một cách ngắn gọn thì có thể hiểu văn học so sánh là sự nghiên cứu đối
chiếu, so sánh giữa hai hay nhiều hiện tượng (tác giả, tác phẩm, trào lưu,…) thuộc
các nền văn học dân tộc để chỉ ra mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc, là sự
so sánh giữa văn học và các lĩnh vực biểu hiện khác của nhân loại.
Khi nghiên cứu về định nghĩa văn học so sánh, chúng ta cũng cần phải lưu ý
để phân biệt được hai khái niệm: văn học so sánh và so sánh văn học. Đây là hai
khái niệm thường có sự nhầm lẫn khi sử dụng, cho nên, cần khẳng định rằng: Văn
học so sánh khác với so sánh văn học. Văn học so sánh là một bộ môn khoa học độc


8


lập; còn so sánh văn học chỉ là một phương pháp của tất cả các ngành nghiên cứu
văn học.
1.1.2. Sự hình thành bộ môn Văn học so sánh
1.1.2.1. Điều kiện hình thành bộ môn Văn học so sánh
Văn học so sánh hình thành dựa trên nhiều yếu tố, trong đó có hai điều kiện
cơ bản là điều kiện văn hóa – xã hội và điều kiện học thuật.
- Điều kiện văn hóa – xã hội:
Văn học thế giới đã có mối liên hệ từ xa xưa nhưng ý thức hệ của con người
chưa hướng nhiều tới sự tác động, ảnh hưởng qua lại đó. Phải tới thế kỉ XIX, khi xã
hội loài người có sự chuyển đổi hình thái kinh tế, nhu cầu giao lưu về mọi lĩnh vực,
trong đó có văn học thì mới hình thành nền văn học thế giới và lúc đó ý thức so
sánh mới bắt đầu.
Sự ra đời của bộ môn Văn học so sánh liên quan trực tiếp đến sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản và ý thức chủ nghĩa thế giới. Phương thức sản xuất của chủ
nghĩa tư bản không ngừng thúc đẩy mối liên hệ và giao lưu các mặt kinh tế thị
trường cũng như giao lưu về văn hóa.
Từ trào lưu văn học lãng mạn chủ nghĩa cuốn hút toàn châu Âu và sự thức
tỉnh của văn học thế giới chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX là điều kiện
cho sự ra đời của Văn học so sánh.
- Điều kiện học thuật:
Từ đầu thế kỉ XIX, sự phát triển cực thịnh của khoa học lịch sử tạo điều kiện
cho sự phát triển nở rộ của các bộ môn lịch sử văn học.
Phương pháp so sánh được áp dụng ngày càng chuyên sâu trong nhiều ngành
khoa học (như Lịch sử ngôn ngữ học so sánh, Lịch sử folklore so sánh, …).
1.1.2.2. Quá trình phát triển của bộ môn Văn học so sánh
Giai đoạn thứ nhất – nửa cuối thế kỉ XIX: Giai đoạn hình thành và khẳng
định. Xây dựng nền móng cho bộ môn phải kể đến công lao của các nhà nghiên cứu

lịch sử văn học các nước Anh, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Mĩ Latinh.

9


Giai đoạn thứ hai – nửa đầu thế kỉ XX: Giai đoạn phát triển. Giai đoạn này
tập trung vào nghiên cứu ảnh hưởng và vay mượn. Đóng góp lớn cho giai đoạn này
là một số tác giả nghiên cứu văn học người Pháp như: Fernand Baldensperger, Paul
Van Tieghem, Marius – Francois Guyard… với trường phái thực chứng – lịch sử.
Giai đoạn thứ ba – nửa sau thế kỉ XX đến nay: Giai đoạn hoàn chỉnh bộ môn
Văn học so sánh. Giai đoạn này, Văn học so sánh vượt qua chủ nghĩa thực chứng,
khắc phục lý thuyết vay mượn để nghiên cứu các mối quan hệ quốc tế (trực tiếp hay
không trực tiếp). Đồng thời cũng mở rộng đối tượng nghiên cứu của nó sang lĩnh
vực các hiện tượng tương đồng. Giai đoạn này có sự góp công của các nhà nghiên
cứu Mĩ, Pháp như: René Wellek, R. Étiemble… hay các nhà nghiên cứu Nga – Xô
như V. M. Zirmunsky, E. M. Meletinsky…
1.2. Các loại hình nghiên cứu văn học so sánh
1.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng
1.2.1.1. Khái niệm
“Ảnh hưởng” là khái niệm hạt nhân của phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng.
Khái niệm “ảnh hưởng” của văn học so sánh khác với khái niệm “ảnh hưởng” mang
ý nghĩa chung chung. Thông thường nói ảnh hưởng là chỉ sự vật này có tác động tới
sự vật khác, dẫn đến sự phản ứng và phản hồi của sự vật sau. “Ảnh hưởng” của văn
học so sánh nhấn mạnh đến “tính ngoại lai”, nó quan tâm đến sự xâm nhập của yếu
tố ngoại lai.
Nghiên cứu ảnh hưởng (còn gọi là nghiên cứu các mối quan hệ trực tiếp)
trong văn học so sánh là “việc dùng phương pháp lịch sử để xử lí các mối liên hệ
thực tế tồn tại giữa các nền văn học dân tộc khác nhau, căn cứ của nó là sự giao lưu
tiếp xúc lẫn nhau giữa các nền văn học dân tộc. Nghiên cứu ảnh hưởng nhấn mạnh
đến thực chứng và liên hệ thực tế, phàm các suy luận hoặc phán đoán thiếu căn cứ

thực tế đều không thuộc phạm trù nghiên cứu ảnh hưởng” [15; tr.71].
Chẳng hạn, chúng ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng giữa hai nhà văn như Vũ
Trọng Phụng và Zola; nghiên cứu ảnh hưởng giữa nhà văn với trào lưu văn học như

10


Bích Khê với thơ tượng trưng Pháp; hay nghiên cứu ảnh hưởng giữa hai nền văn
học như văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc, …
Nghiên cứu ảnh hưởng là loại hình nghiên cứu có sức thuyết phục, cũng là
phương pháp xuất hiện sớm nhất. Đóng góp cho loại hình nghiên cứu này là các nhà
nghiên cứu người Pháp như F. Baldenseprger, P.V. Tieghem, M. F. Guyard, …
1.2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu được các hiện tượng văn học theo hướng so sánh ảnh hưởng,
trước tiên người nghiên cứu phải đặt giả thiết (phải có tư tưởng thì mới có giả thiết).
Tiếp đến phải tìm tư liệu để chứng minh và làm sáng tỏ giả thiết đó. Sau khi có tư
liệu, người viết sử dụng phương pháp phân tích những tư liệu đó để tìm cội nguồn,
tìm sự sáng tạo của đối tượng so sánh. Và cuối cùng, dùng phương pháp tìm ảnh
hưởng và siêu ảnh hưởng để nghiên cứu về đối tượng.
1.2.1.3. Điều kiện nảy sinh ảnh hưởng
Điều kiện nảy sinh ảnh hưởng bao gồm phải có cái gây ảnh hưởng và cái
chịu ảnh hưởng.
Cái gây ảnh hưởng là cái phải có sức lan tỏa, về mặt nào đó phải có vị trí
vượt trội dẫn đầu hoặc phải có một số nhân tố phù hợp với điều kiện của cái chịu
ảnh hưởng.
Cái chịu ảnh hưởng bao gồm hoàn cảnh xã hội của nước tiếp nhận (mức độ
cởi mở của chính trị, tinh thần dân tộc, kết cấu tâm lý văn hóa) và truyền thống
nghệ thuật, thói quen thưởng thức của nước đó. Ngoài ra, sự ảnh hưởng cũng phụ
thuộc vào điều kiện nội tại của cá nhân người chịu ảnh hưởng (tư tưởng, cá tính, khí
chất, hứng thú của nhà văn với một hiện tượng văn học cụ thể).

1.2.1.4. Tính chất và mức độ ảnh hưởng
Về tính chất ảnh hưởng, có thể nhìn nhận ở hai khía cạnh, đó là ảnh hưởng
trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp hay ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực.
Ảnh hưởng trực tiếp là sự tiếp xúc, tiếp nhận trực tiếp. Ảnh hưởng gián tiếp
là tiếp xúc, tiếp nhận qua “môi giới” như dịch thuật, bình luận, giới thiệu,… Ảnh
hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp có mối quan hệ mật thiết. Ảnh hưởng trực

11


tiếp thường thúc đẩy ảnh hưởng gián tiếp, nhưng rồi ảnh hưởng gián tiếp lại chuyển
hóa thành ảnh hưởng trực tiếp. Chẳng hạn như, một số chí sĩ Đông Du Nhật Bản, họ
thông qua Trung Quốc để học tập phương Tây, ngược lại, một số sách dịch Tây học
thời cận đại Trung Quốc có không ít danh từ trong Trung văn đều vay mượn của
Nhật Bản.
Ảnh hưởng tích cực là sự ảnh hưởng có khả năng thúc đẩy, làm phong phú
sáng tác của các nước khác. Hoặc cũng có thể nói, cái chịu ảnh hưởng tiếp nhận,
tiêu biến nhân tố ngoại lai, sáng tác dựa trên các tác phẩm ưu tú. Ngược lại, ảnh
hưởng tiêu cực làm ngăn cản, phá hoại sáng tác của nước khác. Hay nói cách khác,
cái chịu ảnh hưởng chống lại hoặc phủ định một số nhân tố của cái gây ảnh hưởng.
Ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực trong một số trường hợp chúng xen lẫn
nhau. Chẳng hạn, vào thời Ngũ Tứ ở Trung Quốc, ảnh hưởng của các trào lưu văn
học phương Tây với văn đàn Trung Quốc đã làm phong phú các sáng tác, nhưng
đồng thời cũng tạo ra sự đứt đoạn giữa văn học mới với văn học truyền thống.
Về mức độ ảnh hưởng, có thể là sự vay mượn ở cấp độ đề tài, chủ đề, cốt
truyên; hay ảnh hưởng về kỹ thuật viết văn; ảnh hưởng về quan niệm…
1.2.1.5. Các loại hình nghiên cứu ảnh hưởng
Nghiên cứu ảnh hưởng không chỉ dừng lại ở cái ảnh hưởng, mà phải đứng từ
góc độ của cái chịu ảnh hưởng, phải xuất phát từ yêu cầu xã hội thực tế của cái chịu
ảnh hưởng mới thấy hết giá trị đặc thù dân tộc của nó. Ảnh hưởng không đơn giản

chỉ là sự sao chép, vay mượn, mô phỏng, học tập mà còn là vấn đề đồng hóa, sáng
tạo, vượt lên để sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ mới.
Nghiên cứu ảnh hưởng được đặt trên nhiều phương diện. Về cơ bản, có thể
nghiên cứu theo các hướng sau:
- Nghiên cứu ảnh hưởng giữa nhà văn với nhà văn, chẳng hạn như Lỗ Tấn và
Gogol, Vũ Trọng Phụng và Zola, Maiakovski với Trần Dần, …
- Nghiên cứu ảnh hưởng giữa tác phẩm với tác phẩm. Ví dụ: Huyền thoại phố
phường của Nguyễn Huy Thiệp – Con đầm pích của Puskin, Thiên sứ của Phạm Thị
Hoài và Cái trống thiếc của Gunter Grass, …

12


- Ảnh hưởng giữa nhóm tác phẩm với nhóm tác phẩm. Ví dụ: văn học hiện thực
Việt Nam 1930-1945 (Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố) – văn học hiện thực
Pháp thế kỉ XIX (Balzac, Standhal), …
- Ảnh hưởng giữa nhóm nhà văn với nhóm nhà văn. Chẳng hạn: nhóm thơ Bình
Định (Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan…) với nhóm thơ tượng trưng Pháp
(Baudelaire, Verlaine…), …
- Ảnh hưởng giữa nhà văn với một nền văn học. Ví dụ: Đào Tiềm, Đỗ Phủ trong thi
ca Việt Nam; Paustovski, Lỗ Tấn, Gorki, Hugo, Balzac … ở Việt Nam.
- Ảnh hưởng giữa nhà văn với trào lưu văn học. Ví dụ: Xuân Diệu với chủ nghĩa
tượng trưng, Bích Khê và thơ tượng trưng Pháp, …
- Ảnh hưởng giữa thể loại văn học với thể loại văn học, chẳng hạn như: Thơ cổ điển
Việt Nam và thơ cổ điển Trung Quốc, truyện đường rừng của Thế Lữ với truyện
quái dị của Hoffmann, …
- Ảnh hưởng giữa nền văn học với nền văn học: Văn học La Mã và văn học Hy Lạp,
văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc, …
- Ảnh hưởng giữa trào lưu với trào lưu: Văn học hiện thực Việt Nam và văn học
hiện thực Pháp, thơ lãng mạn Việt Nam và thơ lãng mạn Pháp, chủ nghĩa tượng

trưng và thơ mới Việt Nam, …
1.2.1.6. Ưu thế và hạn chế của nghiên cứu ảnh hưởng
Bằng tinh thần thực chứng khoa học, lý luận tỉ mỉ và tác phong nghiên cứu
cẩn trọng, nghiên cứu ảnh hưởng trong văn học so sánh trên thực tế đã làm phong
phú thêm di sản văn học nhân loại.
Nghiên cứu ảnh hưởng, mặc dù có rất nhiều ý nghĩa đối với văn học thế giới,
song nó cũng tồn tại những hạn chế như:
Thứ nhất, do quá thiên vào các mối quan hệ thực tế, chú trọng nguồn gốc,
ảnh hưởng và khảo chứng tư liệu nên nghiên cứu ảnh hưởng đã bỏ qua tính chỉnh
thể của tác phẩm và cá tính sáng tạo của nhà văn, ít nhiều làm cản trở sự cảm thụ
giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.

13


Thứ hai, nghiên cứu ảnh hưởng nhấn mạnh đến thực chứng nên phạm vi
nghiên cứu của nó ít nhiều cũng bị hạn chế và việc tổng kết các quy luật của văn
học gặp những trở ngại khó khắc phục.
Mặc dù có một số hạn chế như vậy nhưng ngày nay nghiên cứu ảnh hưởng
vẫn được phát triển là bởi sự tiếp xúc và giao lưu văn học giữa các nước ngày càng
được mở rộng.
1.2.2. Nghiên cứu song song
1.2.2.1. Khái niệm
Nghiên cứu song song (nghiên cứu song hành, nghiên cứu đồng đẳng) là việc
nghiên cứu hai nền văn học khác nhau trở lên mà giữa chúng không có mối liên hệ
trực tiếp.
Theo Hồ Á Mẫn: “Nghiên cứu song song là dùng phương thức suy luận logic
để nghiên cứu hai nền văn học dân tộc, hoặc hai nền văn học dân tộc trở lên giữa
chúng không có quan hệ trực tiếp” [15; tr.48].
Ví dụ: So sánh truyện cổ tích Việt Nam và truyện cổ tích Grim.

Nghiên cứu song hành có thể quan sát văn học các nước khác nhau từ nhiều
góc độ, nhiều phương diện. Do đó, nó có phạm vi nghiên cứu rất rộng. Nghiên cứu
song hành chú trọng tính văn học của đối tượng, chú trọng so sánh chủ đề, thể loại,
hình tượng nhân vật, phong cách nhà văn,…
Đây là hướng nghiên cứu được các nhà nghiên cứu luận Hoa Kỳ đề xuất.
1.2.2.2. Mục đích
Các hiện tượng văn học khác nhau là do đặc tính nhân loại như đời sống sinh
hoạt khác nhau, các điều kiện vật chất khác nhau,… Nghiên cứu song song giúp
chúng ta phát hiện ra những hiện tượng tương đồng của văn học nhân loại cũng như
phát hiện những nét đặc sắc có tính dân tộc, văn hóa vùng miền. Hơn thế nữa,
nghiên cứu song song còn giúp chúng ta hiểu nhau giữa sự bất đồng về văn hóa,
chính kiến.
Nghệ thuật ngôn từ được phân hóa từ nghệ thuật nguyên hợp mà thành thơ
ca. Các thể loại văn học, con đường phát triển, hành trình văn học của các dân tộc

14


cũng giống nhau. Vì vậy, nếu không nghiên cứu vấn đề này thì sẽ không thấy tính
cộng đồng trong nghiên cứu văn học thế giới.
1.2.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp được sự dụng chủ yếu trong nghiên cứu song hành là
nghiên cứu trực tiếp và nghiên cứu gián tiếp.
Những yếu tố đem so sánh phải có ý nghĩa nhất định, đặc biệt người nghiên
cứu phải coi trọng tính văn học của vấn đề đem so sánh.
1.2.2.4. Cơ sở nghiên cứu song hành
Cơ sở nghiên cứu của hướng nghiên cứu song hành là dựa vào tính phổ quát
và tính đặc thù của văn hóa, văn học.
- Tính phổ quát của văn hóa, văn học:
Con người có hình thức sinh mệnh giống nhau (như sinh, lão, bệnh, tử, ngũ

quan, tâm – sinh lý,…). Do đó, việc thể nghiệm cõi nhân sinh đều có những tình
cảm tương tự, tương đồng (như yêu – ghét, sướng – khổ, hợp – tan, sống – chết,…).
Bản thể văn học và các hình thưc tồn tại của nó trong các nền văn học dân
tộc cũng có nhiều nét tương đồng (thể loại, chủ đề, các thủ pháp nghệ thuật, con
đường phát triển, hành trình văn học của các dân tộc, quan niệm nghệ thuật về thế
giới, quan niệm về văn học,…). Những đặc điểm này làm thành cái siêu cá thể, siêu
lịch sử của văn học.
- Tính đặc thù của văn hóa, văn học:
Tuy có những tương đồng mang tính loại hình, song các hình thức thể
nghiệm trạng thái nhân sinh và thủ pháp trong văn học lại được thể hiện trong
truyền thống văn hóa, lịch sử, đặc thù của mỗi dân tộc. Do đó, trong các hình thức
tồn tại và tiến triển của văn học, sự khác biệt của các hiện tượng văn học ở mỗi
quốc gia là một tất yếu.
Nghiên cứu so sánh song hành giúp chúng ta phát hiện những nét tương đồng
của nhân loại cũng như phát hiện những nét đặc sắc có tính chất dân tộc, văn hóa
vùng miền.

15


Tùy theo những mục đích nghiên cứu cụ thể và nhà nghiên cứu cụ thể mà
nhà nghiên cứu cần nhấn mạnh đến cái chung hay cái đặc thù.
1.2.2.5. Một số lĩnh vực nghiên cứu
- Nghiên cứu tác giả, chẳng hạn như: Herder (Đức) với Diderot (Pháp),
Shakespeare (Anh) với Thang Hiển Tổ (Trung Quốc), Goeth (Đức) với Đỗ Phủ
(Trung Quốc), …
- Nghiên cứu tác phẩm, ví dụ: So sánh Vua Lia (Shakespeare) và Lão Gôriô
của (Balzac), Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Truyện Xuân Hương (khuyết danh –
Hàn Quốc), Số đỏ (Vũ Trọng Phung) và Đường công danh của Nikodem Dyzma
(Moxtovich), …

- Nghiên cứu bút pháp nghệ thuật. Ví dụ: Kỹ thuật dòng ý thức trong Ulysses
(James Joyce), Đi tìm thời gian đã mất (Marcel Proust) và Âm thanh và cuồng nộ
(Fauklner)…
- Nghiên cứu thể loại. Ví dụ: So sánh truyện ngắn Sekhov với truyện ngắn O.
Henry (Kết cấu và bố cục), truyện cổ tích Việt Nam và truyện cổ tích Grim, …
- Nghiên cứu cảnh tượng, hình ảnh, chi tiết. So sánh những hình ảnh như mặt
trăng thiên nhiên, núi đồi, lễ hội, tập tục, tín ngưỡng,… trong các tác phẩm của các
dân tộc khác nhau.
- Nghiên cứu quá trình văn học. Ví dụ: So sánh thơ Trung Quốc hiện đại với
thơ Việt Nam hiện đại, so sánh trào lưu văn học phi lý của Pháp và của Anh, …
1.2.2.6. Ưu thế và hạn chế của nghiên cứu song hành
Nghiên cứu song hành có ưu thế giúp mở rộng không gian nghiên cứu của
văn học so sánh, khuynh hướng này một mặt chú ý nghiên cứu sâu các đặc tính
thẩm mĩ của văn học, mặt khác có khả năng cung cấp những khái quát phổ biến về
các quy luật phát triển của văn học.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên, nghiên cứu song hành còn có những
hạn chế:
Một là, lý luận chưa đủ tỉ mỉ và sự thuyết phục cần thiết.

16


Hai là, việc tuyển lựa đối tượng thiếu hạn định nghiêm ngặt nên có nguy cơ
làm phai nhạt đặc trưng của bộ môn.
1.2.3. Nghiên cứu liên ngành
Văn học so sánh không dừng lại ở việc nghiên cứu hai hiện tượng thuộc hai
nền văn học dân tộc khác nhau mà còn đặt vấn đề nghiên cứu so sánh liên ngành.
Nghiên cứu so sánh liên ngành đặt vấn đề so sánh hai lĩnh vực, hai loại hình
nghệ thuật, văn học khác nhau trở lên. Nghiên cứu liên ngành là sự mở rộng văn
học so sánh, tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học với các loại hình văn hóa nghệ

thuật khác dưới điều kiện duy trì tính chủ thể của văn học.
Đây là hướng nghiên cứu mới, xuất hiện tương đối muộn, bắt đầu từ những
năm 1960, do học giả người Mĩ H. Remak (1916 – 2009) đề xuất. Theo Remak, văn
học so sánh phải là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của loài
người.
Trong bài báo “Văn học so sánh: Định nghĩa và chức năng” (1962), Remak
từng viết: “Văn học so sánh nghiên cứu văn học vượt ra ngoài phạm vi của một
nước, đồng thời nghiên cứu quan hệ văn học với những lĩnh vực tri thức và tín
ngưỡng khác (như nghệ thuật, triết học, các khoa học xã hội, tôn giáo,…). Nói gọn
lại, đó là đem văn học một nước mà so sánh với văn học của một hay nhiều nước
khác, so sánh với các lĩnh vực biểu hiện khác của loài người” [28].
Phạm vi khảo sát của nghiên cứu văn học so sánh liên ngành gồm hai nội
dung cơ bản:
Thứ nhất, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với các loại hình nghệ thuật
khác (văn học với hội họa, văn học với âm nhạc, văn học với điện ảnh,…).
Thứ hai, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với các hình thái ý thức xã
hội khác (văn học và tôn giáo, văn học và đạo đức, văn học và tâm lý học, văn học
và khoa học kỹ thuật,…).
Như vậy lĩnh vực nghiên cứu của văn học so sánh đã được mở rộng hơn,
vượt ra ngoài khung so sánh văn học trước đó.

17


Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, những chuyển biến về phạm vi nghiên cứu tất
yếu dẫn đến những chuyển biến sâu sắc đối với chính bộ môn Văn học so sánh.
Việc mở rộng phạm vi của Văn học so sánh cần duy trì tính chủ thể của văn học
(tính chất vì văn học của bộ môn) để tìm tòi mối liên hệ nhiều mặt giữa văn học với
các lĩnh vực biểu hiện khác của con người.
1.3. Ý nghĩa và tác dụng của bộ môn Văn học so sánh

Văn học so sánh giúp mở rộng tầm mắt nghiên cứu và cải tiến phương pháp
nghiên cứu học thuật.
Văn học so sánh giúp nghiên cứu sâu sắc văn học bản quốc và văn học ngoại
quốc, từ đó giúp nhận thức rõ lịch sử văn học, lí luận văn học trong và ngoài nước.
Như vậy có thể thể thấy, văn học so sánh có một tầm quan trọng đặc biệt
trong nghiên cứu văn học. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, văn học so sánh có
triển vọng ngày càng lớn về giao lưu hội nhập, giúp thúc đẩy mối liên hệ và giao
lưu văn hóa, văn học giữa các nước.

18


CHƯƠNG 2
SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA KIỂU NHÂN VẬT NỮ NỔI LOẠN
TRONG ĐỜI MƯA GIÓ CỦA NHẤT LINH – KHÁI HƯNG
VÀ VÀ CHÚA ĐÃ TẠO RA ĐÀN BÀ CỦA SIMONE COLETTE
Đời mưa gió của Nhất Linh – Khái Hưng và Và chúa đã tạo ra đàn bà của
Simone Colette là hai cuốn tiểu thuyết cùng viết về sự “nổi loạn” của giới nữ, mà
qua đó các nhà văn đều lên tiếng đòi quyền bình đẳng cho nữ giới, vươn tới giải
phóng người phụ nữ ra khỏi những quan niệm truyền thống lỗi thời, những giáo
điều hủ tục. Ở đây, chúng tôi xin lưu ý tới khái niệm nhân vật “nổi loạn”. Theo Từ
điển tiếng Việt, “nổi loạn” là “nổi lên làm loạn” [17; tr. 949]. Từ cách hiểu đó, có
thể diễn giải thêm: nổi loạn là đứng lên chống lại, phủ định lại một nền tảng cũ,
cũng có thể là đứng lên lật đổ một thế lực nào đấy. Theo các nhà nghiên cứu lý luận
văn học, nhân vật “nổi loạn” là nhân vật đi lệch với tư tưởng, ý đồ sáng tạo ban đầu
của nhà văn. Tuy nhiên, cả hai nhân vật nữ chính trong hai tác phẩm kể trên được
các tác giả xây dựng với những mục đích rõ ràng, cho nên, nhân vật “nổi loạn” ở
đây không hiểu theo quan điểm của các nhà nghiên cứu mà theo bản chất của từ
“nổi loạn” trong Từ điển tiếng Việt. Với những tư tưởng mới mẻ, tiến bộ và những
hành động “nổi loạn” của mình, nhân vật đã đứng lên chống lại những thành kiến

lỗi thời, đả phá vào thành trì lễ giáo trói buộc người phụ nữ, đồng thời lên tiếng đòi
quyền tự do, bình đẳng cho nữ giới. Với cách hiểu như trên, khi tìm hiểu, nghiên
cứu hai tác phẩm, chúng tôi nhận thấy nhân vật Tuyết trong Đời mưa gió và Juliette
Hardy trong Và chúa đã tạo ra đàn bà có nhiều điểm tương đồng như sau:
2.1. Tính cách hồn nhiên, tươi trẻ
Tuyết và Juliette đều là những cô gái hiện đại với những tư tưởng hết sức
mới mẻ trong tình yêu, trong hôn nhân, gia đình, trong lối sống, quan niệm sống. Ở
họ có sự hồn nhiên, tươi trẻ của những cô gái mười tám, đôi mươi.
Tuyết trong Đời mưa gió vốn xuất thân là con nhà quý phái, giàu có, cô được
học chữ Pháp từ nhỏ và được gia đình rất mực cưng chiều. Năm mười bốn tuổi đậu

19


×