Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Khảo sát tỉnh đa dạng vật nuôi trong hệ thắng chăn nuôi tại xã hải bắc, huyện hải hâu tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.39 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN
===£0CŨ03===

NGUYỄN THỊ HẠNH

KHẢO SÁT TÍNH ĐA DẠNG VẬT NUÔI
TRONG HỆ THÓNG CHĂN NUÔI TẠI XÃ
HẢI BẮC, HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM
ĐỊNH

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC

• • • •

Chuyên ngành: Sư phạm Kĩ thuật Nông nghỉệp
Người hướng dẫn khoa học ThS. LƯU THỊ UYÊN

HÀ NỘI, 2015

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo khoa Sinh - KTNN,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp của mình.


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô Lưu Thị Uyên trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu của em.
Tuy nhiên do thời gian có hạn và khả năng nghiên cứu khoa học còn hạn chế, bởi vậy
không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo để khóa luận
của em được hoàn thiện hơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên



Nguyễn Thị Hạnh

Kính gửi:
- Phòng đào tạo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Khoa Sinh- Kĩ thuật nông nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp K37.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu, các
số liệu trình bày trong khóa luận là trung thực và không trùng với kết quả của tác giả khác.


LỜI CAM ĐOAN
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên

Nguyễn Thị Hạnh


DANH MỤC BẢNG


MỞ ĐÀU
1. LÍ DO CHỌN ĐÈ TÀI

5


Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên sinh học đa dạng và
giàu có. Sự đa đạng được thế hiện không chỉ ở sự có mặt của những loài động vật,
thực vật hoang dã quý hiếm với nguồn gen đặc hữu mà còn ở nguồn gen vật nuôi,
cây trồng truyền thống có giá trị kinh tế cao, đây là nguồn thực liệu quan trọng đảm

bảo sự phát triến nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, đóng góp quan trọng
đối với phát triển kinh tế đất nước. [4]
Theo Báo cáo quốc gia về đa dạng sinh học, Việt Nam là một trong những nước
có nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật, nguồn gene phong phú và đặc hũu. Đen
nay, khoảng 49.200 loài sinh vật được xác định gồm 7.500 loài/chủng vi sinh vật;
20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước; 10.500 loài động vật trên cạn; 2.000 loài
động vật không xương sống và cá ở nước ngọt; trên 11.000 loài sinh vật biển. Riêng
vật nuôi, Việt Nam có 14 loài gia súc và gia cầm đang được chăn nuôi chủ yếu, bao
gồm 20 giống lợn; 27 giống gà; 10 giống vịt; 7 giống ngan; 5 giống ngỗng; 5 giống
dê; 3 giống trâu; 1 giống cừu; 4 giống thỏ; 3 giống ngựa,...[l]
Nguồn gen bản địa là tài sản quý, như lời ông Keith Hammond- chuyên gia của
tổ chức Nông lương quốc tế (FAO): “Sự đa dạng vật nuôi là duy nhất và không thể
thay thế, ngành công nghệ sinh học mới mẻ cải tiến giống đến đâu chăng nữa thì
vẫn không thể thay thế được sự đa dạng đã mất”.[9]
Tuy nhiên, có một thực trạng đang xảy ra cho nền nông nghiệp Việt Nam là hơn
80% giống cây trồng bản địa đã mất đi trên đồng ruộng sau những phong trào hiện
đại hóa. Giống vật nuôi đang mất đi với tốc độ 10%/năm mà một trong những
nguyên nhân cơ bản là sự du nhập các giống mới, đặc biệt là những giống lai năng
suất cao, đã làm lãng quên và loại trừ dần các giống bản địa. [12]
Trong bối cảnh đó, nhằm mục tiêu khảo sát độ đa dạng về con giống trong hệ
thống chăn nuôi tại một địa phương cụ thể, chúng tôi đã chọn xã Hải Bắc, huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định - một xã có mật độ dân số khá cao, cảnh quan nông nghiệp

6


rõ ràng, sản xuất chăn nuôi phát triến để triển khai đề tài: “Khảo sát tỉnh đa dạng
vật nuôi trong hệ thắng chăn nuôi tại xã Hải Bắc, huyện Hải Hâu. tỉnh Nam Đinh ”

2. MỤC TIÊU NGHIÊN cứu

-

Khảo sát tập đoàn con giống trong hệ thống chăn nuôi xã Hải Bắc

-

Những yếu tố ảnh hưởng đến đa dạng vật nuôi tại địa phương.
Việc nghiên cứu hoạt động sản xuất chăn nuôi nói chung và
khảo sát độ đa dạng tập đoàn con giống trong chăn nuôi nói
riêng còn cho phép hiểu được vùng nghiên cứu này, hiểu
biết sự đa dạng của các nông hộ, các khó khăn của họ và
đánh giá cụ thế tiềm năng phát triến chăn nuôi.
CHƯƠNG 1 TỐNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Đa dạng sinh học và tính bền vững của hệ thống nông nghiệp

1.1.1.

Đa dạng sinh học trong hệ sinh thái nông nghiệp [9]

Cũng như các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nông
nghiệp bao gồm đa dạng trong loài (do số kiểu gen trong loài quyết định) và đa dạng
khác loài (do số loài quyết định). Sự đa dạng như vậy trong các hệ sinh thái tự nhiên
thuần thục thường đạt ở mức rất cao, và nó đảm bảo cho tính on định cao nhất của
hệ thống. Còn trong các hệ sinh thái nông nghiệp, con người chỉ chủ động đưa vào
sản xuất một số loài cây trồng và vật nuôi đã được thuần hoá. Do đó hệ sinh thái
nông nghiệp thường kém đa dạng sinh học hơn rất nhiều so với các hệ sinh thái tự
nhiên. Và đó cũng chính là lý do cơ bản dẫn đến tính kém mềm dẻo, ổn định của các
hệ sinh thái nông nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể nâng cao tính đa dạng sinh

học trong các hệ sinh thái "nhân tạo" này.
Theo Southwood và Way (1970), đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nông
nghiệp phụ thuộc vào 4 yếu tố sau: (1) đa dạng thảm thực vật ở trong và xung quanh
hệ sinh thái nông nghiệp; (2) sự duy trì thường xuyên các cây trồng, vật nuôi khác
nhau trong hệ sinh thái; (3) mức độ luân phiên cây trồng theo không gian và thời
gian; và (4) mức độ tách biệt hệ sinh thái nông nghiệp ra khỏi thảm thực vật tự
nhiên.[3]

7


Đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nông nghiệp được tạo lên bởi thành
phần loài và kiểu gen của các sinh vật chính như: cây trồng, vật nuôi, côn trùng, các
động vật ăn cỏ, ăn thịt và ký sinh khác, cũng như vi sinh vật cùng các sinh vật phân
huỷ khác. Tuy nhiên trong quá trình phát triển nông nghiệp chuyên canh, thâm canh
theo hướng công nghiệp hoá, đã dần làm mất đi tính đa dạng sinh học trong các hệ
sinh thái nông nghiệp. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến
sự kém ổn định và bền vững của các hệ sinh thái nông nghiệp. Chính vì vậy, một
trong những chiến lược của phát triển nông nghiệp bền vững hiện nay là bảo vệ, duy
trì và nâng cao tính đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nông nghiệp.
1.1.2.

Ý nghĩa của đa dạng sinh học trong nông nghiệp

Ngày nay, các công trình nghiên cứu khoa học đều khẳng định vai trò và ý
nghĩa của đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nông nghiệp, nó góp phần đặc biệt
quan trọng trong phát triến nông nghiệp bền vững.
Đa dạng sinh học trong hệ sinh thái nông nghiệp không những chỉ làm cho hệ
sinh thái trở lên "mềm dẻo” hơn, trước những biến động của môi trường (thời tiết,
khí hậu, đất đai và sâu bệnh), mà còn làm cho sản xuất nông nghiệp trở lên có hiệu

quả hơn, bền vững hơn về kinh tế và xã hội. [5]
Đa dạng các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi sẽ đáp ứng được đầy đủ hơn các
nhu cầu khác nhau của xã hội, hạn chế được thấp nhất những rủi ro trước những
biến động về giá cả, thị trường, đồng thời tận dụng được triệt để nhất các nguồn lợi
lao động, vật tư, kỹ thuật trong xã hội.
Có thể thấy rằng đa dạng sinh học trong hệ sinh thái nông nghiệp được coi là
yếu tố trung tâm đảm bảo tính bền vững của các hệ thống nông nghiệp trên các
phương diện sinh thái, môi trường, cũng như kinh tế và xã hội.
Trong những thập niên gần đây, xu hướng phát triển nông trại đa dạng sản phẩm
đã và đang trở thành phổ biến trong phát triển nông nghiệp bền vững của nhiều khu
vực và quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực nhiệt đới.

8


1.2.

Đa dạng giống vật nuôi ở Việt Nam

Ớ những vùng nhiệt đới nói chung và Việt Nam nói riêng, với khí hậu nóng ấm,
mưa nhiều và rất đa dạng về sinh thái, địa hình. Hệ thống động thực vật ở đây vô
cùng phong phú và thường có chuỗi thức ăn phức tạp. Ket quả nghiên cứu của Tổ
chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới cho thấy Việt Nam là một nước giàu về thành
phần loài, có mức độ cao về đặc hữu so với các nước trong khu vực. [2]
Trên thế giới hiện có 5.675 loài động vật có vú và khoảng 10.000 loài chim.
Loài người đã thuần hóa và sử dụng 40 loài động vật trong hai nhóm trên cho mục
đích cung cấp thực phẩm, nông nghiệp và các mục đích khác. Con số đó ở nước ta
là 27 loài, trong đó có 12 loài thuộc loại hiếm. Các loài mới được du nhập: đà điểu,
gà sao, trĩ đỏ, chồn nhung đen, lợn rừng, kỳ đà, hon... Một số mới tự nhân nuôi là
nhím, cầy hương, dông cát, kỳ đà... [2]

Nguồn gen bản địa ở Việt Nam về vật nuôi rất phong phú, mỗi địa phương đều
có những giống riêng của mình. Những giống vật nuôi bản địa không những giúp
địa phương phát triển kinh tế nhờ những phấm chất tốt, thích nghi cao của giống,
mà nó còn mang những nét văn hóa đặc trưng cho địa phương đó. Trong quá trình
phát triển nông nghiệp, ở vùng sâu, vùng xa chưa có điều kiện tiếp cận và đầu tư
thâm canh các giống gia súc có năng suất cao theo hướng công nghiệp thì các giống
bản địa vẫn được người nông dân nuôi dưỡng phổ biến.
Trong thời gian qua, song song với quá trình bảo tồn các giống vật nuôi bản
địa, Việt Nam còn nhập ngoại nhiều giống gia súc, gia cầm có năng suất cao nhằm
tạo bước đột phá về năng suất vật nuôi.
Các giống vật nuôi chủ yếu hiện nay ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 1.

9


Bảng 1. Các giống vật nuôi chủ yếu ở Việt Nam
TT Giống
Tổng số
Trong đó
Giông nội

Giông nhập ngoại

1

Lợn

20

14


6

2



21

5

16

3



5

2

3

4

m A

Trâu

3


2

1

5

Cừu

1

-

1

6

Thỏ

4

2

2

7

Ngựa

3


2

1

8



27

16

11

9

Vịt

10

5

5

10

Ngan

7


3

4

11

Ngông

5

2

3

rri Ẩ
106
53
Tông
(Bộ Nông nghiệp và phát triền nông thôn, 2005)[2]

53

Như vậy ở Việt Nam, đến thời điểm 2005, có 106 giống vật nuôi chủ yếu thuộc
11 loài. Số lượng các giống vật nuôi bản địa và nhập ngoại tương đương nhau chứng
tỏ việc nhập ngoại các giống vật nuôi đã làm thay đổi cấu trúc của tập đoàn giống.
Việc nhập ngoại các giống vật nuôi đã nâng cao năng suất vật nuôi, nhưng nó cũng
làm nghèo đi sự đa dạng của các giống vật nuôi bản địa, do quá trình loại thải những
động vật nuôi năng suất thấp.
Một công bố khác của Viện Chăn nuôi: vật nuôi trong nông nghiệp ở nước ta là

27 loài, trong đó có 12 loài thuộc loại hiếm. Các loài mới được du nhập: đà điểu, gà
sao, trĩ đỏ, chồn nhung đen, lợn rừng, kỳ đà, hon... Một số mới tự nhân nuôi là
nhím, cầy hương, dông cát, kỳ đà... [16]
1.3.

Quản lý và bảo tồn nguồn gen vật nuôi

1
0


1.3.1.

Sự cần thiết phải quản lý và bảo tồn nguồìt gen vật nuôi

Cây trồng, vật nuôi là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống con
người. Theo nghiên cứu mới được FAO công bố, khoảng 70% số người nghèo trên
thế giới chăn nuôi động vật và phụ thuộc vào hoạt động này như là phần quan trọng
của cuộc sống. Các xu hướng thay đổi của các hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng
di truyền cho thấy nguy cơ về một làn sóng tuyệt chủng của các loài sinh vật. Các
giống bản địa bị mất dần do sự du nhập của các giống mới hay các động, thực vật
ngoại lai. Những mất mát đó rất nghiêm trọng vì các giống bản địa có tính đa dạng
di truyền hơn hẳn các giống ngoại lai, các giống mới năng suất cao, vì vậy có khả
năng chống chịu với sâu hại và bệnh tật, đây chính là nguồn nguyên liệu quý để lai
tạo và cải tiến các giống. [4]
Khoa học ngày càng phát triển, con người luôn tạo ra các giống cây trồng, vật
nuôi mới bổ sung vào bộ giống mà chúng ta đang có. Các giống bản địa bị mất dần
do sự du nhập của các giống mới hay các động, thực vật ngoại lai.
Tuy nhiên, có những giống mới cho năng suất cao, nhưng chất lượng bị giảm
sút và không an toàn cho con người khi sử dụng (chang hạn thực phẩm biến đổi

gen). Hơn nữa, theo các nhà khoa học, các giống cây trồng, vật nuôi mới sau khi lai
tạo, mở rộng, phát tán đã “tấn công” lại các giống cây trồng, vật nuôi cũ vốn có số
cá thể hạn chế, lại không được quan tâm bảo tồn. Việc sản sinh ra các giống cây
trồng, vật nuôi mới không đủ theo kịp đà mất đi của chúng.
Nhiều người biện minh rằng, các giống cây trồng, vật nuôi mới tuy ít về mặt
chủng loại nhưng nhờ năng suất cao nên có thể thay thế cho nhiều giống cũ bị tuyệt
chủng. Theo GS. Emila Zehik [9]: điều đó không đúng, bởi sức sống của các giống
mới đều thua kém giống cũ, khả năng chống lại dịch bệnh cũng rất yếu. Vì vậy
chúng dễ dàng bị “tấn công” khi điều kiện tự nhiên thay đổi.

1
1


Bên cạnh đó các thảm hoạ thiên nhiên, ô nhiễm môi trường sống và rất nhiều
các yếu tố đang làm cho bảo tàng gen giống cây trồng, vật nuôi trên Trái đất ngày
càng nghèo kiệt.
Quản lý sự đa dạng sinh học vật nuôi có vai trò vô cùng quan trọng:
- Như một phương tiện sống còn đối với khu vực nông thôn nghèo trên thế
giới, cho sự bền vững của địa phương.
- Như một phương tiện đáp ứng thị hiếu và sở thích luôn thay đối của người
tiêu dùng của các nền kinh tế.
- Như là một tài sản sinh học để cải thiện di truyền trong tương lai.
- Đa dạng gen giúp sản xuất lương thực, thực phẩm có sức bật tốt hơn trước
nguy cơ của nạn đói, hạn hán, dịch bệnh và những thách thức nối lên từ biến
đối khí hậu. [11]
FAO cảnh báo cộng đồng thế giới vẫn còn nhiều việc phải làm để quản lý và
bảo tồn tốt hơn các nguồn gen này vì trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2007,
hàng tháng, trung bình có 1 giống động vật đã bị biến mất. Hiện nay, 21% trong
tổng số các loài động vật nuôi có nguy cơ tuyệt chủng. Tổ chức FAO đã yêu cầu các

nước thành viên thực hiện Chiến lược Toàn cầu để quản lý các nguồn tài nguyên
giống cây trồng, vật nuôi đảm bảo duy trì năng lực thích nghi của hệ thống sản xuất
nông nghiệp. [12]
1.3.2.

Quản lý và bảo tồn nguồn gen vật nuôi ở Việt Nam và pháp lệnh

Giống vật nuôi.

Hiện Việt Nam đã có chương trình quốc gia phát triển giống vật nuôi. Tuy
nhiên do số lượng giống bố mẹ chất lượng cao cung cấp cho người chăn nuôi vẫn
còn hạn chế nên Bộ NN- PTNT vẫn ban hành danh mục những giống gia súc, gia
cầm được phép nhập khẩu trên cơ sở cho rằng, khi điều kiện về cơ sở vật chất, trình
độ nhân lực trong nước chưa lai tạo được con giống tốt thì cách tối ưu trước mắt là

1
2


nhập khẩu tinh trùng các các giống bò, lợn... có năng suất cao của các nước để rút
ngắn thời gian nhân tạo giống. [7]
Tuy vậy, có một thực trạng đang xảy ra cho nền nông nghiệp Việt Nam là hơn
80% giống cây trồng bản địa đã mất đi trên đồng ruộng sau những phong trào hiện
đại hóa. Giống vật nuôi đang mất đi với tốc độ 10%/năm. [12]
Các giống địa phương thường là các giống cho phấm chất sản phẩm cao và khả
năng thích nghi cao với điều kiện địa phương nhưng năng suất thấp. Không nên vì
năng suất thấp mà nhập nội 0 ạt các giống cây trồng, vật nuôi để thay thế hoàn toàn
giống địa phương. Nghiên cứu và bảo tồn nguồn gen là vấn đề gắn với nhiều lợi ích
kinh tế, xã hội, cùng các giá trị về sinh thái, môi trường, cần phải duy trì các nguồn
gen quí này bên cạnh các giống nhập nội mới để đảm bảo tính đa dạng cây trồng,

vật nuôi và tận dụng các nguồn gen quí phục vụ cho công tác tạo giống. [7]
Từ năm 1987, Việt Nam đã có Chương trình bảo tồn nguồn gen quốc gia do ủy
ban KH&KT Nhà nước thực hiện. Đến năm 1997, Bộ KH&CN&MT đã có quy chế
quản lý và bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật và vi sinh vật. Từ khoảng 10 năm
nay, Nhà nước đã xây dựng khung pháp lý tương đối đầy đủ, với nhiều bộ luật về
quản lý tài nguyên thiên nhiên liên quan tới vấn đề bảo tồn nguồn gen như Luật
Thủy sản (2003), Luật Bảo vệ và phát triển rừng (2004), Luật bảo vệ môi trường
(2005) và đặc biệt là Luật Đa dạng sinh học (2008).
Từ những năm 1990, Bộ Khoa học - Công nghệ đã giao cho Viện Chăn nuôi
thực hiện chương trình bảo tồn nguồn gen vật nuôi.
Giai đoạn từ năm 2001 - 2013, có 74 nguồn gen được đưa vào danh sách cần
bảo tồn lưu giữ, trong đó, một số nguồn gen đã được đưa ra nhân rộng như gà
Mông, vịt Cỏ, cừu Phan Rang, lợn Móng Cái... Nhiều nguồn gen được cứu khỏi tình
trạng tuyệt chủng: lợn I, lợn Ba Xuyên, gà Tè, vịt Bầu Ben, vịt Kỳ Lừa...Viện Chăn
nuôi cũng đã bổ sung 20 nguồn gen vật nuôi mới phát hiện, đưa vào khai thác và

1
3


phát triển 23 nguồn gen, cho lai tạo 17 nguồn gen bản địa với các nguồn gen nhập
nội. [2]
Theo các nhà chăn nuôi, nguồn gen đặc trưng của VN là gà Ri, gà Đông Tảo, gà
Mía, gà Chọi, gà Mông, gà Hồ, lợn Móng Cái, bò Mông, ngựa Bạch.
Quản lý và bảo tồn nguồn gen vật nuôi là một trong bốn nội dung qui định của
pháp lệnh Giống vật nuôi. Trong sáu nguyên tắc hoạt động về giống vật nuôi,
nguyên tắc thứ 6 nói về nguồn gen vật nuôi. Nguyên tắc đó là: "Bảo tồn và khai thác
hợp lý nguồn gen vật nuôi; bảo đảm tính đa dạng sinh học; kết họp giữa lợi ích
trước mắt với lợi ích lâu dài, bảo đảm lợi ích chung của toàn xã hội". [7]
Pháp lệnh Giống vật nuôi đã tạo ra công cụ pháp lý có hiệu lực cao để quản lý

giống; bảo đảm đa dạng sinh học; phát triển và bảo tồn nguồn gen vật nuôi; tăng
cường công tác quản lý Nhà nước trong sản xuất kinh doanh giống vật nuôi, đặc biệt
là khâu kiểm soát chất lượng giống đồng thời đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
môi trường.
1.4.

Giới thiệu một số giống vật nuôi được nuôi ở Việt Nam

Giống vật nuôi là quần thế vật nuôi cùng loài, cùng nguồn gốc, có ngoại hình và
cấu trúc di truyền tương tự nhau, được hình thành, củng cố, phát triển do tác động
của con

người; giống vật nuôi phải có số lượng nhất định

đểnhân

giống và di truyền được những đặc điểm của giống cho thế hệ sau.
Giống vật nuôi bao gồm các giống gia súc, gia cầm, ong, tằm. [2]
Hiện nay Việt

Nam có 14 loài gia súc và gia cầm đang được chăn

nuôi chủ

yếu bao gồm 20 giống lợn (14 giống nội), 21 giống bò (5 giống nội), 27 giống gà
(16 giống nội), 10 giống vịt (5 giống nội), 7 giống ngan (3 giống nội), 5 giống
ngỗng (2 giống nội), 5 giống dê (2 giống nội), 3 giống trâu (2 giống nội), 1 giống
cừu, 4 giống thỏ (2 giống nội), 3 giống ngựa (2 giống nội) ...
1.4.1.


Giống gà [3,6]

1
4


■ Giống gà nội: 16 giống nội, gồm: Ri, Tè, Mía, Hồ, Đông Tảo, Tàu Vàng, Ác,
Ô kê, H'mông nâu, H'mông trắng, H'mông đen, Văn Phú, Tre, Chọi, Lùn,
Rốt Ri, trong đó gà Ri chiếm 75% .
■ Giống gà nhập ngoại: Tam Hoàng, Jiangcun, Kabir, Lương Phượng, Ai cập,
Golden, Leghorn, Sasso , Newhampshire, Goldline, Sao, Ross-208 với mục
đích nâng cao sản lượng thịt, trứng.
1.4.2.

Giống lợn [3, 6]

■ Giống lọn bản địa: ỉ đen, ỉ mỡ, Móng Cái, Ba Xuyên, Thuộc Nhiêu, Mẹo,
Sóc, Mường Khương, Sơn Vĩ, Bản, Lang Hồng, cỏ, H'mông.
■ Giống lọn nhập ngọaỉ: có 6 giống nhập nội là Landrace, Yorkshire, Duroc,
Pietrain, Hampshire, Bershire.
1.4.3.

Giống dê [3,6]

■ Giống dê nội địa: Dê “Cỏ” có 3 màu trắng, đen, xám; Dê Bách Thảo: Nguồn
gốc từ Ân Độ đã được nhập vào nước ta hàng trăm năm nay.
■ Giống dê nhập ngoại: Dê giống chất lượng cao hiện có ở nước ta là những
giống dê ngoại nhập, bao gồm các giống dê hướng sữa, hướng thịt và kiêm
dụng sữa thịt.Dê Jumnapari: Dê Beetal; Dê Barbari: nguồn gốc từ Ấn Độ
được nhập vào nước ta những năm 1990; Dê Alpine: Là giống dê sữa ở vùng

núi Anpine của Pháp. Dê Alpine nhập vào nước ta bằng tinh cọng rạ để lai
tạo với dê trong nước; Dê Boer là giống dê chuyên dụng thịt, có nguồn gốc
từ châu Phi.
1.4.4.

Một số giống vịt [3y 6]

■ Giống vịt nội: Có nhiều giống vịt nội đã và đang tồn tại ở Việt Nam như: Vịt
Bầu có nguồn gốc ở vùng Chợ Ben tỉnh Hoà Bình
Vịt Kỳ Lừa là giống vịt kiêm dụng và có năng suất trung bình, có nguồn gốc ở
vùng Kỳ Lừa, Lạng Sơn.

1
5


Vịt Cỏ chiếm một tỉ trọng cao trong tổng đàn vịt của cả nước, phân bố rộng rãi,
nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
■ Giống vịt nhập ngoại: Trong khoảng 4 thập kỷ qua Việt Nam đã nhập nhiều
giống vịt có năng suất thịt, trứng cao trên thế giới như: Vịt Bắc Kinh; Vịt
Anh Đào Hung; Vịt Anh Đào Tiệp; Vịt CVSuperM, М2, М2; Vịt Khali Campbell;
Vịt CV2000.
1.4.5.

Giống ngan [Зуб]

■ Giống ngan nội: được nuôi nhiều ở nhiều nơi thuộc vùng Đồng bằng Sông
Hồng. Có 3 loại màu lông: Trắng (ngan Ré); Loang trắng đen (ngan Sen),
Màu đen (ngan Trâu)
■ Giống ngan nhập ngoại:

- Ngan siêu thịt; Ngan Pháp là tên gọi chung cho các dòng ngan của hãng
Grimaud Freres của nước Pháp, gồm một số dòng: dòng R51 có lông màu
trắng tuyền và trắng, có đốm đầu; dòng R31có màu lông loang xám, tốc độ
sinh trưởng nhanh.
1.4.6.

Gỉống bò [3,6]

■ Giống bò nội:
- Bò Việt Nam nguồn gốc từ bò Bostaurus, nhánh bò châu Á, có u như bò Zebu
Ãn Độ, hầu hết màu vàng, vàng nhạt hoặc vàng đậm, nên có tên chung là bò
vàng Việt Nam. Giống bò này nuôi chủ yếu làm sức kéo từ lâu đời chưa
được cải tạo, nên không có thiên hướng sản xuất rõ rệt, không có tên riêng
mà gọi theo địa danh:
- Bò Thanh Hoá; Bò Nghệ An; Bò Bình Định; Bò Phủ Yên
■ Giống bò nhập ngoại:
- Bò Brahman: Được tạo ra tại Hoa Kỳ, úc.
- Bò sind đỏ (Red Sindhi): Giống bò được tạo ra tại tỉnh Sindhi của Pakistan.
Được nhập vào Việt Nam từ năm 1923 - 1986.

1
6


- Bò Charolais: Là giống bò chuyên dụng thịt, được tạo ra ở vùng Charolais
của Pháp.
- Bò Limousin: Bò chuyên dụng thịt của Pháp.
- Bò Simental: Bò kiêm dụng thịt sữa được tạo ra ở vùng Goestanis của Thuỵ
Sĩ.
-


Bò lai Sind: Bò lai Sind có khả năng thích nghi rộng rãi ở mọi miền của đất
nước.

-

Bò lai Charolais.

■ Giống trâu nội
-

Trâu ngố: nuôi nhiều ở Tây Bắc.

-

Trâu Việt Nam: chủ yếu nuôi ở khắp cả nước.

1.5.

Điều kỉện tự nhiên, kỉnh tế, xã hội xã Hải Bắc [14,15]

1.5,1.

-

Điều kiên tư nhiên, xã hôi

Hải Bắc là xã đồng bằng ven biển nằm phía

bắc


huyện Hải Hậu - tỉnh

Nam Định, với tống diện tích tự nhiên 408.78 ha. XãHải Bắc có

địahình

khá

bằng phang, nằm cạnh trung tâm kinh tế văn hóa xã hội của huyện là thị trấn Yên
Định, cùng với hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh do đó rất thuận lợi cho việc giao
lưu phát triển kinh tế - xã hội.
-

Đất đai xã Hải Bắc tương đối màu mỡ, chủ yếu là đất thịt nhẹ, thịt trung
bình, ít bị ảnh hưởng chua mặn, thuận lợi cho việc phát triến trồng trọt, đặc
biệt là lúa, và cây màu.

-

Năm 2014, toàn xã có 1.954 hộ vói 7.106 nhân khấu. Nguồn lao động của xã
khá dồi dào, cơ bản đáp ứng nhu cầu lao động cho các ngành kinh tế của xã,
song trình độ chưa đồng đều, lao động phổ thông chiếm tỷ lệ khá lớn (số
người trong độ tuổi lao động của xã là 5.750 người). Quy mô 3,6 người/hộ.
Toàn xã còn 35 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,8%.

1
7



Bảng 2. Dân số và lao động xã Hải Bắc
TT
Chỉ tiêu

Tông sô

1

Dân sô (người)

7.106

2

Sô người trong độ tuôi lao động

5.750

3

Sô hộ gia đình

1.954

4

Quy mô hộ (người/hộ)

3.6


5

Sô hộ nghèo

35

Nguồn: UBND xã Hải Bắc, 20ỉ4 [14]
1.5.2.

Điều kiện kinh tế

Giai đoạn 2005 - 2010, nền kinh tế xã Hải Bắc có bước tăng trưởng khá, chỉ số
phát triển kinh tế bình quân 5 năm đạt 65 tỷ 760 triệu đồng tăng 1,1% so với mục
tiêu đề ra. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó:
- Giá trị ngành nghề - dịch vụ đạt 43.4 tỷ đồng = 66%
- Kinh tế nông nghiệp đạt 22.3 tỷ đồng = 34% .
- Thu nhập bình quân đầu người đạt 9.5 triệu đồng/người/năm.
Khu vực kỉnh tế nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu và đóng vai trò chủ
đạo thúc đấy kinh tế - xã hội của xã Hải Bắc phát triến. Đây là ngành sản xuất quan
trọng, là nguồn thu nhập đáng kể cho đại bộ phận dân cư. Cơ cấu cây trồng vật nuôi
có sự chuyển đổi tích cực hướng vào nhu cầu của thị trường.
- Năng xuất lúa bình quân 5 năm đạt 136.24 tạ/ha tăng 1.24 tạ/ha so với mục
tiêu.
- Sản lượng thịt hơi xuất chuồng bình quân đạt 220 tấn/năm, tăng 4.7% so với
mục tiêu.
Khu vực kinh tế công nghiệp - tiếu thủ công nghiệp
về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề tiếp tục phát triển và
đạt mức tăng trưởng khá. Phát triển đa dạng và phát huy làng nghề dệt chiếu, xe

1

8


đay, hàng năm duy trì từ 350 - 400 dàn chiếu cho ra sản phẩm từ 300 - 350 ngàn lá
chiếu các loại mỗi năm. Thu nhập mỗi năm đạt từ 3 - 4 tỉ đồng.
Mở rộng ngành nghề may công nghiệp, thêu ren xuất khẩu.... Nghề mộc, nghề
khảm trai và các ngành nghề khác hàng năm thu nhập từ 6 - 7 tỷ đồng. Giá trị sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề đạt 40 - 45 tỷ đồng [14].
CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1.
-

Đối tượng nghiên cửu

Các hệ thống chăn nuôi của xã Hải Bắc.
- Tập đoàn con giống vật nuôi (loài, giống, tổ hợp lai) trong các hệ thống
chăn nuôi.
2.2.

Nội dung nghiên cửu

-

Tinh hình phát triến chăn nuôi của xã Hải Bắc

-

Tập đoàn giống vật nuôi trong hệ thống chăn nuôi xã Hải Bắc.

- Những yếu tố ảnh hưởng đến tính đa dạng vật nuôi trong các hệ thống
chăn nuôi tại xã Hải Bắc.
2.3.

-

Phương pháp nghiên cún

Phương pháp kế thừa: Sử dụng các kết quả nghiên cứu trước
- Phương pháp điều tra, khảo sát, nghiên cứu thực địa: Tiến hành khảo sát,
điều tra, thu thập mẫu vật, cập nhật số liệu.

-

Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp và sử dụng phiếu điều tra.
CHƯƠNG 3 KÉT QUẢ NGHÊN cửu VÀ THẢO LUẬN

3.1.

Hiện trạng và quy mô sử dụng đất xã Hải Bắc
Hải Bắc là 1 xã có diện tích đất tự nhiên không lớn. Tống diện tích tự nhiên của

xã là 408,78 ha - chiếm 1,78% diện tích tự nhiên của huyện Hải Hậu.
Bảng 3.1. Hiện trạng và quy mô sử dụng đất xã Hải Bắc

1
9


STT


Mục đích sử dụng đất

Diện tích (ha)

Cơ cấu
(%)

TỐNG DIỆN TÍCH Tự NHIÊN

408,78

100,00

305,24

74,67

231,57

56,65

231,57

56,65

trở lên)
1.2 Đât trông cây hàng năm

1,47


0,36

1.3 Đât trông cây lâu năm

43,19

10,57

0

0

28,99

7,09

0,02

0,00

103,54

25,33

1

Đât nông nghiệp

1.1 Đât trông lúa

Trong đó đât chuyên trông lúa nước (02 vụ

1.4

Đât rừng (phòng hộ, đặc dụng, sản xuất)

1.5 Đât nuôi trông thuỷ sản
1.6 Đât làm muôi
1.7 Đât nông nghiệp khác
2

Đât phi nông nghiệp

Nguồn: UBND xã Hải Bắc, 2014[15]

Hải Bắc là một xã thuần nông với 74,67% diện tích đất tự nhiên là đất nông
nghiệp, trong đó chủ yếu là đất trồng lúa nước. Đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ lệ
rất nhỏ (0,36%) và hoàn toàn không có đất dùng cho chăn nuôi. Việc không có đất
đồng cỏ, đất trồng cây thức ăn chăn nuôi, cây màu là một trong những yếu tố chi
phối sự phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm của địa phương.
3.2.
3.2.1.

Sản xuất chăn nuôi tạỉ xã Hải Bắc
Tình hình phát triến chăn nuôi tại xã Hải Bắc

Những năm qua, huyện Hải Hậu luôn là đơn vị đi đầu trong công tác ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triến kinh tế - xã hội. Trong chăn nuôi và nuôi thủy, hải


2
0


sản, nhiều mô hình được áp dụng, mang lại hiệu quả kinh tế cao như: chăn nuôi an
toàn sinh học theo quy mô trang trại của các xã Hải Đông, Hải Xuân; nuôi lợn công
nghệ cao ở xã Hải Xuân; nuôi chim bồ câu Pháp ở các xã Hải Phú, Hải Lộc; nuôi cá
trắm đen bằng thức ăn công nghiệp ở xã Hải Đường; nuôi thâm canh cá lóc bông tại
xã Hải Hoà và nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã
Hải Lý...[ 17,18]
Hải Bắc không phải là điển hình trong phong trào phát triển chăn nuôi, nuôi
trồng thủy hải sản của huyện Hải Hậu, tuy nhiên UBND xã cùng với các bộ phận
chức năng đã nỗ lực xây dựng và triển khai đề án phát triển chăn nuôi để thúc đấy
chăn nuôi phát triển. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, về thức ăn gia súc
được các hộ chăn nuôi ứng dụng đạt hiệu quả, công tác tiêm phòng cho đàn gia súc,
gia cầm được triển khai nghiêm túc, vì vậy trên địa bàn xã ít có dịch bệnh xảy ra.
Bước đầu một số hộ gia đình đã phát triển chăn nuôi theo kiểu hộ trại, trang trại,
đưa sản xuất chăn nuôi ra xa khu dân cư. [ 14]

2
1


Bảng 3.2. Tình hình phát triển chăn nuôi tại xã Hải Bắc (12/2014)
STT
Các chỉ tiêu
Sô lượng T ỷ l ệ ( % )
1

Sô hộ dân trong xã (hộ)


1.954

100,0

2

Sô hộ chăn nuôi (hộ)

1.314

67,25

Trong đó:
2.1

Sô hộ nuôi lợn mô hình trang trại

25

1,90

2.2

Số hộ nuôi gà mô hình trang trại

48

3,65


2.3

Sô hộ nuôi trâu, bò

35

2,66

1.206

91,79

2.4

3.

Sô hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, hôn hợp (lợn, gia
cầm...)
Đàn gia súc, gia câm
- Lợn (con)

1.550

- Trâu, bò (con)

75

- Gia câm (con)

16.000


- - - -*------ -

------—7 —-----—- 1-----------—

1

Nguồn: UBND xã Hải Băc, Ban Chăn nuôi - Thú y

Theo số liệu báo cáo tháng 12 năm 2014 thì thấy rằng phần lớn hộ gia đình ở
Hải Bắc có chăn nuôi gia súc, gia cầm, thể hiện ở 1314 hộ chăn nuôi trên tổng số
1954 hộ dân, chiếm tỷ lệ 67,25%. Tuy vậy, chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp, mô hình gia trại, trang trại chiếm tỷ lệ không đáng kế: trang trại nuôi lợn
chiếm 1,90 % tổng số hộ chăn nuôi; trang trại nuôi gà chiếm 3,65% tổng số hộ chăn
nuôi.
Với 91,79 % hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, hỗn họp cho thấy chăn nuôi hàng hóa ở Hải
Bắc chưa phát triển. Các hộ gia đình chủ yếu duy trì hoạt động chăn nuôi theo thói
quen, tận dụng những sản phẩm trồng trọt, ao vườn và tự túc thực phẩm.
Tổng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi hàng năm đạt 6,5 - 7,0 tỷ đồng, so với giá
trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề đạt 40 - 45 tỷ đồng mỗi năm đã phản

2
2


ánh thực tế Hải Bắc là địa phương có nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát
triển, chăn nuôi không thực sự là thế mạnh và không thu hút được nông dân.
3.2.2.

Cơ cấu đàn gia súc, gia cầm xã Hải Bắc (2012-2014)


Theo Đe án tái cơ cấu ngành chăn nuôi tỉnh Nam Định 2014-2020, tỉnh sẽ phát
triến ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triến bền vững trong đó tập
trung sản xuất những sản phẩm chủ lực có tỷ trọng lớn và lợi thế của tỉnh. Tỉnh đã
lập quy hoạch phát triến các sản phấm thịt lợn mảnh, lợn sữa, thịt và trứng gia cầm.
Theo đó, hình thành 139 vùng chăn nuôi tập trung tại các xã thuần nông (trừ các xã,
thị trấn có làng nghề), tập trung nhiều nhất ở huyện Hải Hậu (28 xã), Giao Thủy (19
xã), Mỹ Lộc (8 xã), ... Mục tiêu chung của ngành chăn nuôi Nam Định năm 2015
đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trong chăn nuôi; từng bước xuất khẩu
thịt lợn mảnh vào thị trường Liên bang Nga. [13]
Hải Bắc không nằm trong 28 xã của huyện Hải Hậu thuộc Đe án tái cơ cấu
ngành chăn nuôi tỉnh Nam Định 2014 -20120. Mặt khác, chăn nuôi tại Hải Bắc cũng
không phải thế mạnh nên sản phẩm chủ lực trong chăn nuôi cũng vẫn là những sản
phẩm truyền thống, liên quan đến chăn nuôi lợn, gà,... điều đó đã thể hiện qua cơ
cấu đàn gia súc, gia cầm trong 3 năm từ 2012 - 2014.

2
3


Bảng 3.3. Co’ cấu đàn gia súc, gia cầm xã Hải Bắc (2012-2014)
TT
Gia súc, gia câm
Năm 2012
Năm 2013

1

Tông đàn trâu, bò (con)


40

58

75

- Trâu (con)

5

7

7

- Bò đực giông (con)

2

2

2

- Bò thịt, sinh sản (con)

33

49

66


- Bò sữa (con)

0

0

0

1.405

1.462

1.550

5

6

8

140

168

175

-

-


-

- Lợn thịt (con)

1.260

1.288

1.367

Tông sô đàn gỉa câm

15.050

15.265

16.000

- Gà

13.950

14.200

14.700

- Vịt (con)

920


900

1.100

- Ngan (con)

150

120

150

- Ngông (con)

30

45

50

Tông sô đàn lợn
- Lợn đực giông (con)
2

- Lợn nái (con)
- Lợn con theo mẹ (con)

3

Năm 2014


------------*------_

ZT------------- --------- —7--------”--------- ---------------------------------------

Nguôn: UBND xã Hải Вас, Ban Chăn nuôi - Thú у

Trong 3 năm từ 2012 đến 2014, cơ cấu đàn vật nuôi tại Hải Bắc không
có biến động gì đáng kể.
-

Đàn trâu, bò rất ít. Năm 2012 có 40 con; năm 2013 có 58 con và 2014 tăng
lên 75 con, trong đó chủ yếu là bò nuôi thịt, không có bò sữa.

-

Đàn lợn duy trì ổn định ở mức vừa phải, khoảng 1500 con, chủ yếu là lợn
thịt, không kể lợn con bú sữa.

2
4


- Tổng đàn gia cầm (gồm gà, vịt, ngan, ngỗng) từ 15000 đến 16000 con, trong
đó phần lớn là gà (Một số đối tượng nuôi khác như chim bồ câu, chim cút
không được thống kê.)
3.3.

Tập đoàn giống vật nuôi trong hệ thống chăn nuôi xã Hải Bắc
Con giống là một khâu rất quan trọng trong quá trình chăn nuôi. Neu lựa chọn


được giống tốt thì quá trình chăn nuôi sẽ thuận lợi và ngược lại.
Trong hơn 10 năm trở lại đây, việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong lai tạo
giống đã tạo ra hàng loạt các giống vật nuôi cao sản, đem lại hiệu quả kinh tế lớn
cho ngành chăn nuôi.
Các giống nhập nội và giống lai tạo với đặc tính ưu việt năng suất cao, thời gian
nuôi ngắn đã hấp dẫn người chăn nuôi. Tuy nhiên lạm dụng các giống mới cao sản
trong chăn nuôi không chỉ dẫn đến các giống bản địa bị đào thải dần trong sản xuất
mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khác mà thực tế đã chứng minh: đồng nhất hóa sản
phẩm dẫn đến không phù hợp thị trường cung - cầu; dịch bệnh xảy ra trên diện
rộng; chất lượng sản phẩm không đáp ứng thị hiếu tiêu dùng V V...
3.3.1.

Giống lợn

■ Cơ cấu con giống trong hệ thống chăn nuôi lợn xã Hải Bắc
Chăn nuôi lợn là hệ thống chăn nuôi phổ biến nhất ở miền Bắc nước ta. Việc
lựa chọn giống lợn phẩm chất tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu, môi trường của
địa phương là một công việc rất quan trọng.
Trong vòng 1 0 - 1 5 năm qua, nhiều giống lợn ngoại đã được nhập vào nước ta
như lợn Landrace, lợn Yorkshire, lợn Duroc, ... Các giống này được sử dụng cho
mục đích chủ yếu là lai tạo với lợn Móng Cái để tạo con lai sản xuất thịt.
Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 200 hộ chăn nuôi lợn ở Hải Bắc (từ danh sách quản
lí của Ban chăn nuôi - thú y xã) để khảo sát tập đoàn con giống trong hệ thống chăn
nuôi lợn.
Ket quả cụ thể như sau:

2
5



×