CHỦ ĐỀ:
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ. THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm và nguồn gốc thanh toán không dùng tiền mặt
2. Vai trò của TTKDTM
- Đối với nền kinh tế, NHTM, NHTW, cơ quan tài chính
3. Các hình thức TTKDTM
II. THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng
2.1.1. Những thành tựu trong hoạt động TTKDTM ở Việt Nam trong thời gian qua
Khi thanh toán không tiền mặt được khuyến khích và đưa vào như một phương thức
thanh toán chính yếu trong xã hội sẽ đem lại nhiều lợi ích để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển bền vững. Nó sẽ tạo sự minh bạch trong các khoản chi tiêu và giao dịch của
Chính phủ, các đơn vị kinh doanh và cá nhân, giúp dòng chảy tiền tệ được lưu thông
rõ ràng và trơn tru hơn.
Chính phủ Đan Mạch có đề xuất rằng hầu hết các cửa hàng có thể bỏ dùng tiền mặt từ
tháng 1/2016. Na Uy và Thụy Điển cũng đang dẫn đầu xu hướng dùng tiền điện tử trên
thế giới với chỉ dưới 6% thanh toán của người dân ở khu vực Scandinavia là bằng tiền
mặt. Trong khi đó, tỉ lệ dùng tiền mặt thanh toán ở Mỹ là 47%.
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, hoạt động TTKDTM tại các ngân hàng có sự chuyển
biến mạnh mẽ. Nhiều phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, tiện
ích ra đời, đáp ứng được nhiều loại nhu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán, với
phạm vi tiếp cận mở rộng tới các đối tượng cá nhân và dân cư.
Các NHTM đã chủ động giới thiệu các phương tiện, dịch vụ TTKDTM tới khách
hàng. Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện và phát triển các phương thức truyền thống
như ủy nhiệm chi (lệnh chi), ủy nhiệm thu (nhờ thu), một số phương tiện và dịch vụ
mới dựa trên nền tảng sử dụng công nghệ thông tin đã xuất hiện: Thẻ ngân hàng,
Mobile banking, Internet banking, SMS banking…
Theo cổng thông tin điện tử chính phủ, tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh
toán của cả nước giảm liên tục từ mức 23,7% năm 2001 xuống 14,6% năm 2008 và
năm 2010 chỉ còn 15,1%.
(Nguồn:
/>11/20111122.html)
/>20100107082155912.chn)
Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán từ 1/1/2012 – nay
(Nguồn: />Theo thống kê của NHNN, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán tiếp
tục có xu hướng giảm xuống từ 15,1% năm 2010 và đến năm 2012 đến nay chỉ còn
dưới 12% trong năm (khoảng 14% vào dịp đầu năm do nhu cầu tiền mặt của dân cư).
Số liệu giao dịch qua ATM, POS.EFTPOS/EDC (Số liệu tại thời điểm cuối quý)
Thiết bị Số lượng thiết bị Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Quý
IV/2013
Quý
IV/2014
Quý
II/2015
Quý
IV/2013
Quý
IV/2014
Quý
II/2015
ATM
15.265 16.018 16.680 272.496 322.220
369.80
7
POS/EFTPOS/ED
C
129.653 172.036 196.941 35.977 42.600 45.153
(Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN)
Theo NHNN, tính đến cuối tháng 6/2015, cả nước có trên 16.500 máy rút tiền tự động
(ATM), tăng lần lượt là 4,93% (cuối năm 2014) và 9,27% (cuối quý II/2015) so với
cuối năm 2013 và gần 130.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) được lắp đặt,
tăng lần lượt là 32,69% (cuối năm 2014) và 51,90% (cuối quý II/2015) so với cuối
năm 2013.
Số liệu giao dịch qua ATM, POS.EFTPOS/EDC
Thiết bị
ATM
POS/EFTPOS/EDC
(Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN)
Trong năm 2014, số lượng và giá trị giao dịch qua các điểm chấp nhận thanh toán thẻ
tại Việt Nam tăng trưởng khá cao, đạt gần 33 triệu giao dịch và đạt gần 160.000 tỷ
đồng, tăng lần lượt là 35,58% và 24,85% so với năm 2013.
Từ 2006, thẻ ngân hàng đã được đông đảo người dân đón nhận và có tốc độ phát triển
nhanh chóng. Thẻ ngân hàng đã mang lại khá nhiều tiện tích cho người dùng như:
chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại POS, trả phí định kỳ với các khoản
thanh toán thường xuyên (tiền điện, tiền nước, điện thoại, internet), mua hàng trực
tuyến tại hệ thống siêu thị
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
(Quý I,II)
Số lượng thẻ đã phát hành (Triệu thẻ) 246,39 297,18 177,44
Tốc độ tăng 100% 120,60% 72,02%
(Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN)
Năm 2014, số lượng thẻ ngân hàng được phát hành đạt gần 300 triệu thẻ, tăng
120,60% so với năm 2013.
Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống NHTM phát triển khá nhanh chóng. Các
NHTM quan tâm hơn đến phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, khách hàng cá
nhân, tình hình mở và sử dụng tài khoản tăng lên đáng kể. Cụ thể năm 2000 mới chỉ có
trên 100.000 tài khoản cá nhân thì đến 2012 đã đạt trên 40 triệu tài khoản.
Số liệu tài khoản tiền gửi
thanh toán của cá nhân
Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Năm 2015
(Quý II)
Số lượng tài khoản
42.115.91
3
46.762.99
7
54.449.59
6
57.892.137
Số dư tài khoản (tỷ đồng) 85.374 115.050 156.318 176.484
Tốc độ tăng của số lượng TK 100% 111,03% 129,29% 137,46%
(Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN)
Số lượng tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân được mở ra ngày càng nhiều, năm
2013, 2014 tăng lần lượt là 11,03%, 29,29% so với năm 2012. Cho thấy rằng, việc
thanh toán không dùng tiền mặt đang ngày càng phổ biến trong thanh toán.
Hoạt động TTKDTM phục vụ cho viêc thu, chi ngân sách nhà nước đã được chú trọng
triển khai, nhất là việc triển khai công tác hiện đại hóa quy trình thu, nộp thuế giữa cơ
quan thuế - kho bạc nhà nước – hải quản – tài chính – các NHTM đã được hình thành.
Dịch vụ trả lương qua tài khoản cũng đươc triển khai mạnh mẽ. Có hơn 65% đơn vị
thực hiện chi trả lương qua tài khoản cho đến năm 2013.
Kênh thanh toán qua internet banking: năm 2004, mới chỉ có sự tham gia của 03
NHTM thì đến năm 2008, con số này đã lên tới 25 và đến nay thì hầu hết các NHTM
đều tham gia cung cấp dịch vụ internet banking cho khách hàng. Ngoài các tiện ích cơ
bản như truy vấn thông tin tài khoản, xem tỷ giá, lãi suất, sao kê tài khoản, thông tin
giao dịch, dịch vụ internet banking còn cho phép khách hàng thực hiện thanh toán hóa
đơn dịch vụ như tiền điện, nước, cước viên thống thanh toán phí bảo hiểm, thanh toán
phí giao dịch chứng khoán, tiết kiệm online.
Bên cạnh đó, một phương tiện mới đã xuất hiện và áp dụng tại Việt Nam từ cuối năm
2008 là “Ví điện tử”. Từ năm 2012 đến năm 2013 đã có gần 1,1 triệu ví điện tử được
mở với khoảng 5 triệu giao dịch và tổng giá trị giao dịch đạt trên 2.550 tỷ đồng.
2.1.2. Những hạn chế trong hoạt động TTKDTM
Nhìn chung, thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế và chiếm tỷ
trọng lớn trong phương tiện thanh toán của các doanh nghiệp và dân cư. Số người sử
dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động ở khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán còn nghèo
nàn và kém hiệu quả. Chủ yếu số lượng ATM phân bổ ở các thành phố lớn, các khu
công nghiệp. Mặc dù thời gian qua, NHNN đã triển khai một số chương trình mang
tính định hướng thị trường nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển mạng lưới POS thẻ nội
địa, tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ nội địa vẫn gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại. Do phần lớn khách hàng sử dụng thẻ nội địa là người Việt nam, vốn
quá quen với việc sử dụng tiền mặt và lại luôn có sẵn tiền mặt cũng như dễ dàng tiếp
cận với nguồn tiền mặt có tại các ATM, nên việc sử dụng các phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt còn rất hạn chế. Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ
TTKDTM chưa thật sự phong phú. Khả năng đáp ứng nhu cầu của nhiều loại đối
tượng sử dụng còn hạn chế, chưa đạt được tính tiện ích và phạm vi thanh toán để có
thể thay thế cho tiền mặt.
Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại như qua
internet, mobile, homebanking… chưa phát triển và vẫn dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp.
Kênh thanh toán qua mobile banking: xuất hiện ở Việt nam năm 2003 nhưng cho đến
nay các NHTM hầu hết chỉ sử dụng kênh SMS để cung cấp dịch vụ mobile banking và
chỉ dừng lại ở truy vấn thông tin chung của ngân hàng và thông tin tài khoản. Mặc dù
chức năng thanh toán/chuyển khoản trên kênh mobile banking được phát triển từ năm
2006 nhưng đến nay chỉ có một vài ngân hàng chính thức cung cấp dịch vụ này. Do
đó, nhìn chung kênh thanh toán qua mobile banking chưa trở thành một kênh thanh
toán phổ biến trong dân cư.
Phí dịch vụ thanh toán còn khá cao, một số phương tiện thanh toán khi sử dụng khách
hàng còn phải trả thêm phụ phí so với việc sử dụng tiền mặt.
2.1.3. Thực trạng của từng phương thức TTKDTM
Hiện nay, ở Việt Nam đang áp dụng các hình thức TTKDTM tương đối đa dạng, bao
gồm: Séc, thẻ ngân hàng, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu…
Tình hình TTKDTM tại VN (2013 – nay)
PTT
T nội
địa
Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 (quý
I,II)
Giá trị
giao dịch
(tỷ đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
giao dịch
(tỷ đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
giao dịch
(tỷ đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
giao dịch
(tỷ đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Thẻ
NH
88.117 0,20 121.295 0,24 159.367 0,28 97.270 0,46
Tốc
độ
tăng
100 137,65 180,86
(%)
Séc 168.576 0,39 114.723 0,22 76.985 0,14 49.633 0,23
Tốc
độ
tăng
(%)
100 68,05 45,67
Lệnh
chi
32.523.88
0
75,10 38.963.30
7
76,07 45.321.87
2
79,86 14.130.36
0
66,58
Tốc
độ
tăng
(%)
100 119,80 139,35
Nhờ
thu
825.091 1,91 834.368 1,63 998.900 1,76 1.534.958 7,23
Tốc
độ
tăng
(%)
100 101,12 121,07
Khác 9.703.010 22,40 11.185.89
0
21,84 10.191.21
0
17,96 5.410.910 25.50
Tốc
độ
tăng
(%)
100 115,28 105,03
Tổng 43.308.67
3
100 51.219.58
3
100 56.748.33
4
100 21.223.13
1
100
Tốc
độ
tăng
(%)
100 118,27 131,03
(Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN)
(Phương tiện thanh toán khác gồm: Hối phiếu, Lệnh phiếu, Thư tín dụng nội địa, SMS
Banking, Mobile Banking, Phone Banking, Internet Banking, Giấy chuyển khoản từ
tài khoản vãng lai CA-Current Account, )
Từ bảng ta thấy, UNC (lệnh chi) là phương tiện được sử dụng phổ biến nhất, giá trị
thanh toán lớn nhất, chiếm tới hơn 75% tổng giá trị TTKDTM. Séc và thẻ ngân hàng
chiếm tỷ trọng nhỏ nhất, dưới 0,30%. Các phương tiện TTKDTM đều tăng trưởng về
quy mô qua các năm, tuy nhiên với tốc độ khác nhau nên có sự thay đổi cơ cấu các
hình thức.
a. Tình hình thanh toán bằng thẻ ngân hàng
Doanh số thanh toán qua thẻ tăng mạnh trong những năm qua:
- Doanh số đạt hơn 88.000 tỷ đồng năm 2012, chiếm 0,20% trên tổng phương tiện
TTKDTM.
- Năm 2013, doanh số này tăng mạnh và đạt hơn 121.000 tỷ đồng, chiếm 0,24% trong
tổng doanh số TTKDTM.
- Năm 2014, doanh số này tăng lên đến hơn 151.000 tỷ đồng, chiếm 0,28% trong tổng
doanh số TTKDTM.
Hiện nay, các NHTM đang cung cấp 3 loại thẻ chủ yếu để phù hợp với nhu cầu của
từng đối tượng khách hàng: Thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước.
Số lượng thẻ ngân hàng
Năm 2013 Năm 2014
Số lượng thẻ
NH (triệu thẻ)
Tỷ trọng (%) Số lượng thẻ
NH (triệu thẻ)
Tỷ trọng (%)
Thẻ ghi nợ 228,50 92,74 272,89 91,83
Thẻ tín dụng 8,58 3,48 11,62 3,91
Thẻ trả trước 9,31 3,78 12,67 4,26
Tổng 246,39 100 297,18 100
(Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN)
Phát biểu tại Hội thảo Hội Thẻ Ngân Hàng Việt Nam 2015, ông Bùi Quang Tiên - Vụ
trưởng Vụ Thanh toán NHNN cho biết, tại Việt Nam, trong những năm qua đã có
nhiều phương thức thanh toán mới được phổ cập, mang lại lợi ích không nhỏ cho
người dân. Đến cuối tháng 1/2015, lượng thẻ phát hành trên toàn quốc đã đạt mức trên
85,9 triệu thẻ (tăng 30% so với cuối năm 2013), trong đó có 63,5 triệu thẻ đang lưu
hành. Giao dịch bằng thẻ trong năm 2014 cũng tăng trên 13% về số lượng và 16% về
giá trị so với năm 2013. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho thanh toán thẻ tiếp tục được cải
thiện chất lượng. Đến cuối tháng 1/2015, trên 16.100 máy ATM và trên 187.200 POS
được lắp đặt (tương ứng tăng 6% và 44% so với cuối năm 2013). Trong đó chủ yếu là
các giao dịch thanh toán hàng hóa và dịch vụ.
Sở dĩ doanh số thanh toán qua thẻ tăng mạnh qua các năm là do các NHTM đã tích cực
mở TK, phát hành thẻ miễn phí, đồng thời phổ biến những lợi ích của việc sử dụng thẻ
ATM cho các khách hàng. Đồng thời, các NHTM tăng cường đầu tư các điểm chấp
nhận thanh toán thẻ (POS) ngày càng xuất hiện nhiều hơn.
Tuy số lượng mở TK và doanh số thanh toán qua thẻ NH tăng qua các năm, nhưng so
với thực tế, tỷ lệ này còn rất nhỏ. Lý do là trình độ dân trí chưa đồng đều, mức thu
nhập bình quân chưa cao, thói quen sử dụng TM trong thanh toán quá phổ biến, NH có
công nghệ chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thanh toán của dân cư.
b. Tình hình thanh toán bằng Séc
Hiện nay, trong TTKDTM ở nước ta, thanh toán séc qua ngân hàng thông dụng nhất là
2 loại séc chuyển khoản và séc bảo chi.
Thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện thanh
toán này ngày càng giảm. Giá trị giao dịch bằng séc trong năm 2012, 2013, 2014 lần
lượt đạt khoảng 168.000; 115.000; 77.000 tỷ đồng, tương ứng với tỷ trọng giảm dần là
0,39%; 0,22% và 0,14%.
Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua
bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và
CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện
nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc chiếm khoảng dưới 0,4% trong tổng thanh toán phi tiền
mặt.
Bên cạnh những ưu điểm là giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết giảm chi
phí trong các khâu in ấn tiền, kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản tiền, thủ tục phát sinh
đơn giản, việc lưu chuyển chứng từ nhanh… thì thanh toán bằng Séc vẫn còn những
mặt hạn chế, như: mức thu nhập của đại bộ phận người dân còn thấp, phạm vi thanh
toán còn hẹp, nên tính khuyến khích sử dụng Séc bị hạn chế, thời hạn hiệu lực thanh
toán Séc dài, gây khó khăn trong việc kiểm soát và hạn chế sự thúc đẩy quả trình luân
chuyển vốn. Mặt khác, khách hàng có thể lợi dụng phát hành Séc khống hoặc phát
hành quá số dư để chiếm dụng vốn.
c. Tình hình thanh toán bằng UNC
Thanh toán bằng UNC được ưa chuộng nhất trong khâu thanh toán, hiện đang chiếm
tỷ trọng cao nhất trong khâu thanh toán phi tiền mặt vì lý do thủ tục thanh toán đơn
giản, không gây phiển hà cho người trả tiền. Người nhận tiền cũng được thanh toán
một cách nhanh chóng chính xác. Thời gian thanh toán của ủy nhiệm chi ngắn cho nên
rút ngắn được quá trình luân chuyển vốn, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Vì thế
các doanh nghiệp rất ưa thích hình thức thanh toán này. Nhất là những doanh nghiệp
có quan hệ bạn hàng, đối tác làm ăn lâu năm, sự tín nhiệm lẫn nhau cao nên thanh toán
bằng ủy nhiệm chi được sử dụng nhiều.
Giá trị giao dịch tăng lần lượt từ năm 2012 đến năm 2014 (32 – 45 triệu tỷ đồng),
tương ứng với tỷ trọng tăng theo thời gian lần lượt là 75,1%; 76,07% và 79,86%.
UNC có nhiều ưu điểm, song cũng còn có một số hạn chế cần khắc phục để hoạt động
thanh toán được tốt hơn:
- Thanh toán bằng UNC dễ dẫn đến trường hợp đơn vị mua chiếm dụng vốn của đơn
vị bán: Những doanh nghiệp mới bắt đầu hợp tác với nhau thì khá rủi ro cho doanh
nghiệp là người bán khi mà lệnh thanh toán thực hiện sau khi giao hàng hóa. Doanh
nghiệp có thể bị thanh toán chậm, thanh toán thiếu hoặc rủi ro lớn nhất là không được
thanh toán. Hoặc đối với doanh nghiệp là người mua khi thực hiện việc thanh toán
trước khi nhận được hàng từ người bán. Doanh nghiệp có thể bị giao hàng chậm, chất
lượng kém, số lượng không đủ như trong hợp đồng hoặc rủi ro lớn nhất là không nhận
được hàng. Chính vì những rủi ro có thể đối mặt nên những doanh nghiệp nhỏ và vừa,
có những lần đầu hợp tác, sự tín nhiệm chưa cao thì vẫn ưa thích thanh toán bằng tiền
mặt theo kiểu “tiền trao cháo múc hơn”.
- Không có quy định về thời hạn hiệu lực của UNC nên khi có tranh chấp về chậm trễ
thì không có căn cứ pháp lý để tính phạt chậm trả.
d. Tình hình thanh toán bằng UNT
Giá trị giao dịch bằng UNT tăng ít từ khoảng 825.000 tỷ đồng (năm 2012) lên khoảng
834.000 tỷ đồng (2013) và khoảng 999.000 tỷ đồng (năm 2014), tương ứng với tỷ
trọng lần lượt là 1,91%; 1,63% và 1,76%.
Hình thức UNT được khách hàng sử dụng rất ít, tỷ trọng của nó chỉ chiếm dưới 2%
trong TTKDTM. Nguyên nhân là do:
- UNT chỉ được áp dụng khi các chủ thể thanh toán đã thỏa thuận với nhau.
- Thủ tục thanh toán của phương thức này rất phức tạp, trải qua nhiều khâu, làm giảm
tốc độ thanh toán, kéo dài thời gian, người hưởng thụ nhận tiền chậm ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của họ.
e. Các phương thức thanh toán khác
Phương tiện thanh toán khác gồm: Hối phiếu, Lệnh phiếu, Thư tín dụng nội địa, SMS
Banking, Mobile Banking, Phone Banking, Internet Banking, Giấy chuyển khoản từ
tài khoản vãng lai CA-Current Account,
Giá trị giao dịch bằng PTTT khác đạt khoảng 9.700.000 tỷ đồng (năm 2012) lên tới
khoảng 11.000.000 tỷ đồng (năm 2013) và giảm xuống khoảng 10.000.000 tỷ đồng
(năm 2014), tương ứng với tỷ trọng giảm dần lần lượt là 22,4%; 21,84% và 17,96%.
- Thư tín dụng nội địa (L/C): Thư tín dụng là một phương thức được sử dụng rất phổ
biến trong thanh toán quốc tế. Theo số liệu thống kê năm 2009 thì có khoản 11-15%
giao dịch thương mại quốc tế sử dụng phương thức này. Nhưng khi thanh toán trong
nội địa, việc mở L/C và thủ tục thanh toán hết sức phức tạp, quy trình luân chuyển
chứng từ vòng vèo, gây chậm trễ trong thanh toán. Mức tối thiểu để mở L/C là 10 triệu
đồng do khách hàng phải lưu ký vào một TK riêng và không được hưởng lãi. Mỗi L/C
chỉ dùng để chi trả cho một người hưởng thụ và nếu muốn thanh toán với nhiều bạn
hàng phải mở nhiều thư tín dụng khác nhau. Do đó, khi thanh toán trong nước, khách
hàng không ưa dùng phương tiện thanh toán này.
- Thương mại điện tử (TMĐT) còn nhiều rào cản: theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Công
thương, trong những năm gần đây, TMĐT đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh
nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp có website tăng từ 31% năm 2005 lên 45% năm 2008, tỷ lệ
doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so với 84% của năm
trước. Hiện có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối internet. Tuy nhiên, do thói quen
mua sắm của người tiêu dùng và khâu thanh toán khiến TMĐT Việt Nam chậm phát
triển; người mua và người bán vẫn thực hiện theo phương thức “tiền trao cháo múc”,
vì người tiêu dùng lo ngại mua phải sản phẩm không dùng được hoặc chất lượng
không đạt như mong muốn. Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu
những quy định, chế tài cụ thể về bảo vệ đối tượng sử dụng TMĐT. Nhìn chung, việc
phát triển TMĐT ở Việt Nam hiện còn mang tính tự phát, đầu tư cho TMĐT ở mỗi
doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp, có nhiều
cá nhân, doanh nghiệp thành lập những website TMĐT (sàn giao dịch, website phục
vụ việc cung cấp thông tin, website rao vặt, siêu thị điện tử ) để giành vị thế tiên
phong, tuy nhiên, tình hình chung là các website này chưa thực sự được marketing tốt
và phát triển tốt để mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể.
2.1.4. Nguyên nhân
- Các ngân hàng chưa xây dựng được một hệ thống theo dõi và đánh giá khách hàng sử
dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
- Cơ sở pháp lý còn nhiều lỗ hổng và thiếu đồng bộ.
- Công nghệ chưa ổn định do còn trong giai đoạn đầu tư chưa có tính nổi trội so với thị
trường. Các sản phẩm dịch vụ thanh toán dựa trên nền tảng ngân hàng điện tử còn
nhiều hạn chế. Hoạt động của hệ thống phục vụ thanh toán chưa đảm bảo, còn tiềm ẩn
nguy cơ về bảo mật; sự hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ với các ngân hàng gặp
trở ngại do sự khác biệt về hệ thống quản lý, cơ sở dữ liệu…
- Mạng lưới thanh toán phân bổ chưa hợp lý: Đối với hoạt động thanh toán thẻ, mặc dù
số lượng ATM, POS được lắp đặt tăng đều qua các năm nhưng thực tế là tỷ trọng so
với số dân vẫn còn thấp, chưa phân bố đều.
- Thói quen ưa dùng tiền mặt của phần lớn dân cư còn phổ biến. Hầu hết chi phí liên
quan đến tiền mặt trong lưu thông như in ấn, phát hành, kiểm đếm, vận chuyển, bảo
quản, thu hủy là chi phí xã hội và do NN phải chịu. Vì vậy TM đã trở thành một công
cụ rất được ưa chuộng trong thanh toán và từ lâu trở thành thói quen khó thay đổi của
người dân, chính vì vậy đây là lực cản rất lớn trong việc phát triển TTKDTM.
- Đội ngũ cán bộ trẻ, trình độ cao nhưng tính năng động bắt kịp thay đổi của thị trường
còn chưa mạnh dạn, chưa táo bạo đưa ra ý tưởng và các làm đột phá.
- Đối với nhiều đối tượng giao dịch, các dịch vụ TTKDTM không chứng tỏ lợi ích hơn
hẳn về kinh tế so với TM. Ngược lại TTKDTM còn phải trả phí khá cao cho NH.
III. . PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ, KHUYẾN NGHỊ
Nguồn tham khảo:
Luận văn Thạc sĩ kinh tế: Giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
trong dân cư tại NHTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm –
Ths. Huỳnh Phạm Hoài Nhi.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế: Giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại
NHTMCP Việt Nam thịnh vượng – Ths. Cao Thị Thu Huyền.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế: Giải pháp nâng cao thanh toán không dùng tiền mặt tại NH
Việt Nam thịnh vương – Ths. Trịnh Ánh Tuyết.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế: Giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt thông
qua dịch vụ thẻ ngân hàng tại Việt Nam – Ths. Nguyễn Thị Hải Yến.
/> />nam-thuc-trang-va-giai-phap-45460/
/>option=com_content&view=article&id=1644&catid=43&Itemid=90
/>11/20111122.html
/>khong-dung-tien-mat-2939948.html
/>thuc-tien-tai-viet-nam/in-564077
/>2013102009493732314.chn