Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
A. Người Khmer Có Họ Từ Khi Nào?
Dưới triều Nguyễn, tổng số người Việt gốc Miên chưa tới 150.000 người,
nhưng vẫn được coi là một sắc dân có đủ quyền lợi như người Việt. Vua Gia Long
đặt 5 nhánh họ: KIM, THẠCH, SƠN, LÂM, DANH để người Khmer đặt tên con
cháu hầu dễ tra tầm gia phả. Trước đây người Khmer không có họ, người cha đặt
họ cho con bằng tên của mình và đứa con sau này lấy tên của nó làm họ cho con
nó. Năm họ trên đây được người Khmer gìn giữ cho đến ngày nay. Sau này người
Khmer còn có thêm họ CHÂU do họ CHAU của Cao Miên mà ra. ( Lê Hương)
Trong quyển sách "Người việt Gốc Miên" thì nhà khảo cứu Lê Hương đã
cho biết nguồn gố "họ" của người Khmer do đâu mà có! Như vậy theo ông, họ
người Khmer là do Vua Gia Long đặt ra từ 5 chữ "KIM, THẠCH, SƠN, LÂM,
DANH" và sau này có thêm họ "CHÂU" là từ họ "CHAU" bên Cao Miên mà ra.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Đình Đầu thì người Khmer không phải chỉ có 6 họ
như trên mà họ người Khmer trong sổ bộ triều đình có là:
1. Hoa
2. Đôn
3. Thạch
4. Cần
5. Tầm
6. Hòa
7. Sơn
8. Giáp
9. Nam
10. Tham
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 1
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
11. Sa
12. Ngãi
13. Trà
14. Trác
15. Côn
16. Lộc
17. Thuận
18. Nhượng
19. Mậu
20. Dương
Như vậy số liệu của 2 nhà khảo cứu này đưa ra không khớp với nhau. Có thể
mỗi người dựa trên một nguồn sử liệu khác nhau mà đưa ra số liệu. Đối với bản
tổng kết của nhà giáo Nguyễn Đình Đầu thì số liệu có lẽ là xác thực vì đó là những
con số do ông biên dịch lai từ hệ thống "Châu Bản Địa Bạ" triều Nguyễn. Còn đối
với số liệu của Lê Hương thì có thể đây là nguồn tài liệu cũ chưa được cập nhật
( 1969 đến nay) chăng? Hoặc là đã có cập nhật nhưng bản thân tôi chưa có được
những tài liệu mới? Kính mong quý vị nào am hiểu chỉ giáo cho. Cảm ơn!
B. Sự Tích Lễ Chol Chnam Thmay
Chịu ảnh hưởng của đạo Bà la Môn và của đạo Phật hệ phái Tiểu Thừa,
người Khmer ăn Tết khác hơn người Việt, người Trung Quốc hay người Tây Âu.
Ngày tết của đồng bào Khmer được gọi là "Chol Chnam Thmey".
Theo khoa thiên văn truyền từ Ấn Độ sang thì người Khmer tính ngày đầu
năm bằng hai lối vào:
CHOL: tính theo sự vận chuyển của Mặt Trăng và đánh dấu việc thay
đổi 12 con thú tượng trưng của 12 con giáp trong một kỳ ( người Khmer
cũng lấy hình tượng 12 con như người Việt để tính năm nhưng chỉ khác là
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 2
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
họ lấy hình tượng con Thỏ thay cho con Mèo và con Bò thay vì con Trâu
như người Việt).
CHNAM: tính theo sự vận chuyển của Mặt Trời và đánh dấu bước
đầu năm mới.
Thường CHOL được tính vào đầu tháng CHÉTT là tháng 5 âm lịch của
người Việt, nhằm khoảng giữa tháng 4 dương lịch còn CHNAM thì thay đổi tùy
theo Trăng tròng và khuyết nhằm ngày 12, 13 hay 14 âm lịch.
Giờ vào năm mới của người Khmer không giống giờ của người Âu hay Á là
cứ vào nữa đêm lúc không giờ là giao thừa mà giờ cứ thay đổi luôn. Năm 1966, giờ
giao thừa nhằm 9 giờ đêm ngày 13 tháng 4, năm 1967 giao thừa vào 5 giờ 21 phút
sáng ngày 14 tháng 4.
Giữ gìn đúng theo tập quán nghìn xưa, người Khmer cứ ăn tết vào những
ngày khác nhau như thế, luôn luôn được tổ chức ở những ngôi chùa thờ Phật và
nhờ những quyển Đại Lịch để bói xem năm mới tốt hay xấu. Điều này là do tin vào
huyền thoại Bà la Môn về vị thần Bốn Mặt như sau
C. Truyền thuyết về địa danh Sóc Trăng
Nói về địa danh Sóc Trăng khì không ai biết rõ cái tên này ra đời khi nào.
Nhưng dựa theo những bộ lịch sử Viêt Nam như Khâm Định Đại Nam Hội Điển
Sự Lệ, Địa Bạ Nam Kỳ Lục Tỉnh hay những quyển sách khảo cứu của Vương
Hồng Sển, Sơn Nam, Lê Hương, Hứa Hoành trước khi có tên Sóc Trăng thì "xứ
Sóc Trăng" ngày xưa có tên là xứ Ba Thắc tức là ông "Bassac" (tên một vị thần
người Khmer). Người ta cũng dùng tên này để để nói về nhiều địa danh, thổ sản
khác của Đồng Bằng Sông Cửu Long như cửa Ba Thắc, gạo Ba Thắc Sau đó Sóc
Trăng còn có tên là Ba Xuyên do vua Minh Mạng đặt nhưng lúc đó cái tên Sóc
Trăng mà theo truyền thuyết vẫn người Khmer sử dụng.
Nói về các mốc thời gian mà địa danh Sóc Trăng thay đổi qua từng thời kỳ
như Ba Thắc, Ba Xuyên, Sóc Trăng thì tôi sẽ nói chi tiết hơn trong nhưng bài
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 3
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
khác liên quan đến lịch sử tỉnh Sóc Trăng. Trong phạm vi bài này chỉ nói về ý
nghĩa của địa danh " Sóc Trăng" mà thôi.
Ý nghĩa tên gọi Sóc Trăng
1. Sóc Trăng là do tiếng khmer đọc trại ra từ chữ "Srok Tréang có nghĩa là
"Bãi Sậy" vì ngày xưa đất Sóc Trăng có nhiều lau sậy hoang vu. ( Lê Hương).
2. - Sóc Trăng là do tiếng Khmer là "Srok Kh'leang" mà ra. "Srok" tức là xứ,
là cõi, "Kh'leang" là kho, vựa, chỗ chứa bạc. Srok Kh'leang là xứ có kho chứa bạc
của nhà vua. Tiếng Việt âm ra là "Sốc-Kha-Lang" rồi sau đó thành Sóc Trăng.
Dưới triều Minh Mạng Sóc Trăng bị đổi là Nguyệt Giang tỉnh (chữ Sóc biến thành
chữ Sông, Trăng thành Nguyệt nên Sóc Trăng biến thành Sông Trăng rồi bị đổi
thành Nguyệt Giang. ( Lê Hương)
- Theo quyển Petit Cours de Géographie de la Basse Cochinchine par
Trương Vĩnh Ký thì "Sốc Trăng" ( Sóc Trăng) là tên dân gian của một tỉnh hạt ở
Nam Việt gọi là Nguyệt Giang tỉnh (tỉnh Sông Trăng). Tên này có nguồn gốc "Cơ
Me" (Khmer) là Péam prêk sròk khlẵn ( di cảo Trương Vĩnh Ký trong le
Cisbassac). "Péam" là vàm, "prêk" là sông, "sròk" là sốc, "khlẵn (kh'leang) là kho
bạc. Nguyên đời vua "Cơ Me" có đặt một kho chứa bạc nơi đây. Đến đời vua Minh
Mạng, đổi tên chữ ra Nguyệt Giang tỉnh vì triều đình đã ép chữ "sốc" biến ra chữ
"sông", chữ "kh'leang" ra "trăng" và đổi thành "nguyệt". ( Vương Hồng Sển).
Nhân ông Trương Vĩnh Ký có nói chữ "Péam" trong tiếng Khmer có nghĩa
là "vàm" thì theo ông Vương Hồng Sển, " trong sách của ông Baurac (La
Cochichine et ses habitants) trang 362 thuật lại rằng trào đàng cựu, cho đến lối
1858, vàm Đại Ngãi còn được gọi là Vàm Tấn, là một bến nước quan trọng tiếp đủ
các thuyền đi biển đủ hạng từ trung Quốc, Tân Gia Ba, Xiêm La, Cam Bốt tụ tập
rất náo nhiệt để trao đổi, mua chác lúa gạo, tơ lụa, hàng vải, cá mắm, mắm muối,
đồ gốm, chén bát, sừng trâu, ngà voi, lông chim, sáp, mật ong Mà chữ "Vàm Đại
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 4
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
Ngãi" cũng có nguồn gốc từ chữ "Péam Mosénn" mà ra. Như đã nói ở trên, "Péam"
là "vàm" còn "Mosénn" là muôn ngã" tức là vàm Đại Ngãi ngày nay.
3. Trở lại chuyện Sóc Trăng, cũng theo ông Lê Hương thì địa danh Sóc
Trăng cũng có một truyền thuyết khác, cũng nói về kho bạc nhưng không phải là
kho bạc của vua mà là kho bạc, kho chứa vũ khí, kho chứa lương thực của giặc Xà
Na Téa và Xà Na Tua đóng quân ở Sóc Trăng dưới triều Nguyễn, tại ấp "Sóc Vồ"
ngày nay. Do đó Sóc Trăng là do chữ "Srok Kh'leang" đọc trại mà ra.
Đấy là một vài truyền thuyết về địa danh Sóc Trăng mà các vị tiền nhân ghi
lại. Trong đó thuyết "Sóc Trăng" là kho bạc được chấp nhận nhiều hơn cả cho dù
kho bạc của vua thời xưa hay là kho bạc của giặc thì xứ Sóc Trăng cũng là " Xứ
Kho Bạc".
D. Một số địa danh gốc Khmer ở Sóc Trăng
Hơn 3 thế kỷ sống cạnh nhau, người Việt vẫn dùng nhiều tên địa phương
bằng tiếng Khmer do đồng bào Khmer đặt ra từ xưa. Nhiều tiếng bị đọc "trại"
thành ra tiếng Việt, viết y như tiếng Việt nhưng dĩ nhiên là không có ý nghĩa gì cả
nếu người đọc không biết tiếng Khmer. Ví dụ như Ksach (Cát) đọc thành Kẻ Sách,
Cải Sách, Kế Sách; Salôn, Xà Lôn đọc thành Trà Tâm; Bassac đọc thành Ba Thắc;
Srok Khl'eang đọc thành Sóc Trăng
Dưới triều Vua Minh Mạng, triều đình có ý đổi tên những dịa danh có nguồn
gốc từ tiếng Khmer ở Nam Kỳ thành ra chữ cho cho có vẻ văn hoa hơn như Sóc
Trăng gọi là Sông Trăng và chữ Nho là Nguyệt Giang. Xã Phnô hay là Phnor thì
đổi lại là Phú Nổ nhưng đồng bào không dùng.
Khi người Pháp đô hộ thì lại dùng tên địa phương y như cũ nhưng lại âm trại
ra một cách buồn cười. Ví dụ như cửa biển Trần Đề ngày ấy là Tran Di, Tran Đi,
Tranh Đế Cù Lao Dung lại viết là Cù Lao Giung, Cù Lao Huình Giun Châu
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa ở Miền Nam, chính phủ lại đổi hẳn những tên
ấy ra tiếng Việt, nhưng đối với người Việt gốc Khmer, họ vẫn dùng tên cũ như
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 5
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
thuở trước. Trải qua những lần đổi thay và địa danh tiếng Khmer bị Việt hóa hầu
hết nhưng người Việt gốc Khmer vẫn giữ tên địa phương theo tiếng nói của mình
trong khi trò chuyện với nhau vì thế tên ấy vẫn tồn tại mãi.
Về ý nghĩa thì mỗi địa danh đều có 1 hoặc nhiều sự tích để lý giải cho tại sao
lại có tên ấy. Nhưng cũng có địa danh mà hỏi đến là tại làm sao mà có thì cũng
đành chịu. Trong bài viết này, tôi chỉ xin sưu tầm các địa danh đã được các học giả
tiền bối sưu tập sẵn trong các tập sách của họ và đem vào bài viết này phục vụ cho
người Sóc trăng và cả những ai quan tâm tìm hiểu về Sóc Trăng.
Dưới đây là một số địa danh do tôi góp nhặt lại từ nhiều nguồn khác nhau
xin trình bày ra để chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Trước tiên xin trình bày một số thuật ngữ liên quan trước khi vào nội dung chính.
* Bưng: tiếng Pháp viết là "Beng" ( đây là một lối phiên âm giọng người
Khmer trong tự điển tiếng Pháp). Bưng: là đất sình lầy lấp xấp nước, cá tôm ở
nhiều, cỏ lác mọc loạn xạ. Bưng là do tiếng Khmer là là "trapéang" đổi ra "péang",
bâng, bưng nói dồn lại. ( Theo Vương Hồng Sển). Bưng biền: do "bưng" ( tiếng
Khmer) ráp với "biền" ( Chữ Hán) biên, bờ dọc mé sông.
Beng: một danh từ tìm thấy trong quyển "Monographie de la province de
KompongCham", có nghĩa là ao lấp xấp nước. Đây là một lối viết theo giọng người
Khmer, mà cái ta gọi là "bưng":
Ví dụ: Beng Thom: bưng lớn, Beng Kok: bưng Cót, Beng Trop: bưng
Tróp
Nói tóm lại: beng, trapéang, prha-bang chưa được thống nhứt về các viết,
cách phiên âm nhưng hiểu đó là vũng sâu, sâu cấy lúa được, lội đi bắt cá tôm được
không sợ chết đuối, vì nước tới bụng tới ngực là cùng. Bưng Trấp: đất bưng cỏ
( trấp là cỏ). ( Huỳnh Tịnh Của).
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 6
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
* Giồng: gò, cuộc đất cao do sóng đánh và gió thổi làm nên. Ở miền Nam có
nhiều cát hợp thành đụn, thành giồng, rất ít nước nhưng khi đào được giếng thì
nước rất tốt, trong và ngọt: đất giồng, ruộng giồng, giếng giồng. Ở Sóc Trăng có
giồng Lình Kía (giồng Long Tử, tiếng Triều Châu lình là long, kía là tử, là con).
Ca dao có câu: "Trên đất giồng mình trồng khoai lang "
* Sóc: ngày xưa "sóc" được viết là "sốc" tức là xứ sở, là thôn xóm của người
Khmer ở.
* Vàm: tiếng này ngoài Bắc trước đây không có nên không có trong nhiều
cuốn tự điển in ở Hà Nội. Vì dùng thường quá tưởng đâu đó là tiếng Việt, khảo ra
mới biết nó vốn là tiếng Khmer, ta đã Viêth hóa từ hồi Nam Tiến. Péam là cửa
biển, cửa sông. Người trước trong Nam dịch là "Vàm". Ông Nguyễn Tạo không
thấy chữ "vàm" đã dịch "Péam" là "phiếm" Ông Chưởng thay vì Vàm Ông
Chưởng. ( Vương Hồng Sển)
1. Ba Thắc: Tên một địa danh thuộc vùng Sóc Trăng cũ.
Ba Thắc: tiếng Khmer là Păm prek Bàsàk ( di cảo của Trương Vĩnh Ký
trong le Cisbassac).
- Ba Thắc: tên gọi tiếng Khmer của một vị thần hay còn gọi là nặc tà, ông tà
của người Khmer, có miếu thờ ở Bãi Xàu cũ. Đại danh Ba Thắc bên Campuchia
cũng có. Tương truyền ông Ba Thắc là một vị hoàng tử người Lào đến sống vùng
đất trên đường đi Tham Đôn, Mỹ Xuyên ngày nay. Khi ông chết người dân quanh
vùng lập miếu thờ. Lúc đầu miếu được cất theo kiến trúc Khmer bằng cây nhưng
về sau, năm 1927, ông Lê Văn Quạnh và một số thân hào trong vùng đã cất lại
miếu theo kiến trúc Trung Hoa dạng "bán cổ - bán kim" và đề là " ba thắc Cổ
miếu". Di tích này đến nay vẫn còn.
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 7
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
- Ba Thắc: trong sách Pháp có 3 nghĩa:
a. Vùng đất liền từ mé Hậu Giang, giáp vịnh Xiêm La ( Thái Lan) từ
Châu Đốc xuống Bạc Liêu. Người Khmer gọi là Srok Bàsàk, người Pháp gọi
là Transbassac; năm 1836 đặt làm phủ Ba Xuyên gồm 3 huyện Phong Nhiêu,
Phong Thạnh và Vĩnh Định. Thời Pháp thuộc gọi là Sóc Trăng. ( Vương
Hồng Sển).
b. Tên của chi nhánh Cửu Long Giang là Sông Hậu ( tên chữ là Hậu
Giang - hậu là sau, giang là sông, Hậu Giang là sông ở phía sau, đối với Tiền
Giang là sông trước). Sông Ba Thắc chảy từ biên giới Campuchia ra biển
Đông qua các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng.
c. Tên một trong 3 cửa sông Hậu Giang gồm Định An ( mé Trà vinh),
Ba Thắc và Trần Đề.
2. Ba Xuyên:
- Ba Xuyên là tên địa danh Sóc Trăng xưa.
- Ba Xuyên là tên chữ Nho của một con sông tiếng Khmer là " BàSàk", tên
nôm là Ba Thắc.
3.Bãi Xàu
- Bãi Xàu là tên Nôm của huyện Phong Nhiêu thời đàng cựu ở Sóc Trăng
ngày xưa, nay là thị trấn Mỹ Xuyên. Đây là một thị trấn buôn bán lúa gạo lớn vào
bậc nhất thời Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Địa danh Bãi Xàu là do chữ " Bai chau" có nghĩa là " cơm sống" trong tiếng
Khmer đọc trại ra. ( Xin xem thêm phần Truyền thuết địa danh Bãi Xàu).
4. Bố Thảo:
- Bố Thảo là tên Nôm của làng Thuận Hòa, tên chữ là "Phụ Đầu Giang" còn
tiếng gốc Khmer là "păm ( péam) prêk Tumnup. Păm là vàm, prêk là sông, kinh,
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 8
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
rạch. Còn Tumnup trong tự điển Pháp Khmer thì cũng viết là tămnup, tâmnop:
barrage có nghĩa là chặn lại, rào chắn, đập chắn. Người Khmer địa phương đọc là
"tà Nóp" vì không nói được đúng chữ, đúng giọng như sách viết. Người Triều
Châu ở đó dịch ra là " Pâu Tháo" rồi biến lần ra là "Phụ Đầu". Trong sổ bộ ngày
xưa viết là Bố Thảo, sau đổi thành làng Thuận Hòa.Theo cụ Vương Hồng Sển thì
nơi vàm kinh này ngày xưa quả là có bị người Khmer chặn lai.
- Địa danh Bố Thảo người Triều Châu ( người Tiều) gọi là Pâu Tháo, nghĩa
là đầu rạch ( "tháo" là đầu). Năm 1827, Chauvai Lim là quan Chân Lạp nổi loạn
chống lại triều đình nhà Nguyễn. Lim đóng quân tại Bưng Tróp, sai đắp một cái
đập để chận đường thủy của quan trên Châu Đốc xuống tiếp viên binh Nam. Đập ở
ngay ngọn rạch nên người Triều Châu gọi là " Pâu Tháo", và nơi đóng quân gọi là
"Xin Xụ" ( tức là Tân trụ).
5. Bưng Samo:
Thuộc làng Hòa Tú xưa, nay là xã Hòa Tú. Bưng Samo là đọc từ chữ Khmer
là "Bưng Thmo" có nghĩa là ruộng có lộn đá. Bưng Samo là vùng ruộng điền của
Bà Phủ An ( người giàu nhất Sóc Trăng thời Nam Kỳ Lục Tỉnh, có câu thiệu để nói
về 4 người giàu nhất Sóc Trăng xưa như sau:" Nhất An, Nhì Phát, Tam Chánh, Tứ
Định"). Bưng Samo trước đây có sản xuất một loại lúa ngon cơm nổi tiếng là lúa
"samo".
6. Bưng Cóc: Tên một là Khmer, nay là Xã Phú Mỹ
7. Bưng Snor: nay là xã Viên An.
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 9
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
8. Bưng Tróp: Kompong Tróp.
9. Cần Giờ: "Phnor Cần Chơ" tức là "giồng cát chân đèn" ( phnor là giồng cát, cần
chơ là chân đèn).
10. Mã Tộc: Ma Ha Tup.
11. Giồng Có: Kompong Ko ( chữ này chỉ dịch lấy âm chứ không lấy nghĩa, nếu
dịch ra là Vũng Bò hay Vũng Gù).
12. Sóc Vồ: Srok Pou ( srok là sóc, Pou là cây Lâm Vồ, cây Bồ Đề)
13. Phú Nổ: phnor, phnaur là mồ mả, đất nổi cao.
- Theo ông Đào Văn Hội là do chữ Phorokar ( giồng cây rokar) mà ra.
- Ông Vương Hồng Sển lại cho chữ Phú Nổ là từ chữ "Pho-phkar" ( giồng
hoa) mà ra. Tiếng Khmer "phkar" là hoa.
- Theo một người bạn tôi ở Phú Tâm thì bảo "Phú Nổ" là "Phật Nổi" vì ở
Phú Tâm có chùa "Phật Nổi" nhưng tiếng Khmer "phật nổi" nói như thế nào và âm
vị có liên quan hay không tôi chưa có dịp xác đinh.
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 10
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
14. Giồng Văn Trạch: Kompong Trach ( giồng này ở đâu tôi chưa biết).
15. Giồng Trường Kế :phnor sângke ( sầu ke). Trường Kế là ký âm tiếng Hoa từ
tiếng Khmer.
Sângke là tên một loại cây lấy lá vấn thuốc hút.
16. Long Phú: Bang long ( giếng nước).
17. Tát Giồng: Prassat Kong ( tháp nhà Phật)
.
18. THam Đôn:Kompong Đôn (dịch lấy âm chứ không lấy nghĩa là "vũng dừa").
19. Nhu Gia:Sampou Thleai ( xin xem thêm phần truyền thuyết về địa danh Nhu
Gia).
20. Tài Sum Xoài Cả Nả là tên xưa của xã Đại Tâm, tỉnh Sóc Trăng. Khi trước tên
gọi này rất được trọng dụng, ngày sau ít dùng và ít ai biết. Nguyên gốc chữ "Xoài
Cả Nả hay Xoài Ca Nả là do mượn từ tiếng Khmer là "Xoài Chrum", ta việt hóa
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 11
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
thành "Tài Sum", người Hoa lai Việt lại gọi là "Xoài Cả Nả" lấy ý rằng lúc xưa
làng ấy là một rừng xoài, người nào đến đó, khi trở về nhà đều mang về cả một giỏ
xách - "cả Nả" xoài ( Nả - một loại giỏ xách bằng tre có nắp đậy của người Hoa
thường dùng. Ngày nay ta vẫn còn thấy người Hoa dùng giỏ này dựng đồ đi cúng
chùa, cúng Thanh Minh, KhoaNam). Phong tục cổ thời, người đi đường đều mang
theo cái Nả đương bằng Tre để dựng thập vật từ áo quần, trầu thuốc, đến thức
ăn Từ danh từ "Xoài Chrum" rồi phiên âm lại thành "Tài Sum" sau lại sáp nhập
với làng "Trà Tâm" kế cận nên biến nên xã Đại Tâm , vì chữ "Tài" sau đổi lại
thành chữ "Đại" và "Trà Tâm" sót lại chữ "Tâm".
Làng Trà Tâm là do tiếng Khmer là "Xà Tim" có lúc được dịch là "Trà Tim"
mà có.
21. An Tập: Kompong top ( Vũng Tọp??? Địa danh này ở đâu???)
22. Chung Đôn: Kompong Đôn ( cũng là có nghĩa là vũng dừa và được dịch lấy
âm, nhưng đây là một địa danh trên phường 8, Sóc Trăng ngày nay, khác với Tham
Đôn bên Mỹ Xuyên).
23. Văn Trật: kompong Trach. Nơi đây có chùa Khmer có tượng phật cổ " 4 mặt"
cùng thời với Đế Thiên - Đế Thích bên Campuchia. Theo mô tả như thế thì nay có
lẽ là chùa Bốn Mặt , xã Phú Tân.
24. Lịc Trà: Prêk Trâkuon ( tâkon, tra coun) còn được gọi là Trà Cuôn có nghĩa là
rạch rau muống.
25. Tuân Tức: Pong Tuk có nghĩa là trứng nước ( bọt nước, người Khmer gọi bọt
nước là trứng nước).
26. Bưng Xa Mau: beng smau ( bưng cỏ).
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 12
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
27. Cù Lao Dung:, ngày xưa còn được gọi là Cù Lao Giung, Cù lao Giun, Cù lao
Cọp ( vì có nhiều cọp), Cù Lao Hổ Châu ( tên chữ nho của Cù Lao Cọp), Cù Lao
Huình Dung Châu tiếng Khmer là "kòh Tum". ( Kòh Tum là chim Bồ Nông còn
gọi là chim "Thằng Bè, chim Chàng Bè" nên người Khmer gọi đây là Cù Lao
Thằng Bè).
28. Chắc Tưng: Chak To Tưng có nghĩa là "lá dừa đâm ngang", sau đổi thành
Chắc Tưng, rồi Chác Văn sau nhập với một làng khác thành Tài Văn.
29. Vũng Thơm: Kompong Thom ( dịch lấy âm không lấy nghĩa). Kompong Thom
có nghĩa là " Vũng Lớn" ở Campuchia cũng có Kompong Thom.
30. Chắc Đốt: tên một làng ở Sóc Trăng xưa, nay là Gia Hòa. Ở đây có một con
sông cũng gọi là sông Chắc Đốt do tiếng Khmer là "mo chap, mo đott" nghĩa là
một tay bắt cá (mo chap) một tay xỏ cá vô dây " lạt cà bắp" ( mo đott), đủ hiểu cá ở
sông này nhiều không biết cơ man nào mà kể, bắt không kịp xỏ vào dây. (Vương
Hồng Sển).
- Lạt cà bắp: là thứ dây dùng đọt non dừa nước chẻ và phơi se se, thứ lạt
này vừa dẻo dẻo dai, vừa cứng cáp, khi bắt con cá còn dãy tê tê, xỏ mang cá xáh về
khỏi cần giỏ đựng. tuy xét ra lối sanh cầm con cá như vậy, ắt đau đớn cho nó lắm,
nhưng ông bà ta lớp xưa nào biết luật nhơn quyền và hội bảo vệ thú vật. ( Vương
Hồng Sển).
- Làng Chắc Đốt ( chánh danh trong bộ là làng Gia Hòa thuộc tỉnh Sóc
Trăng ( năm 1946), tục danh là làng "Lá Banh". Người Khmer gọi là làng "Chắc
Đốt", giáp ranh với tỉnh Bạc Liêu. Như đã nói ở trên, địa danh Chắc Đốt có nguồn
gốc từ tiếng Khmer có nghĩa là tay bắt cá, tay xỏ cá tươi vào dây "lạt cà bắp". Theo
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 13
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
ông Vương Hồng Sển thì làng Chắc Đốt nằm trên một con sông thiên nhiên gần
rừng Sác, nước mặn và gần biển, cá tôm nhiều vô kể đến nỗi ông bà xưa kể lại:
"Bất kể người nào, dầu tay ngang, chịu khó lội xuống khúc sông, đem dây
lạt cà bắp theo thì cứ một tay bắt cá (mott chap) một tay xỏ xâu ( mott đott)."
Chính mắt tôi ( Vương Hồng Sển) trông thấy trong những ngày tản cư vùng
này, tháng 2 dương lịch 1946, cá tôm kẹo lềnh đặc sông không ai thèm vớt, còn
thức ăn rẻ đến không tưởng tượng: nghĩ coi một con vịt "đít sà", một con gà mái đẻ
không hơn một đồng hai ( 1$20) một đồng rưỡi bạc (1$50). Một sớm tôi ra chợ
"Chồm Hổm" , đưa sáu hào (0$60) ôm về một trăm hột vịt tươi, mừng thầm sẽ
muối tro đem theo ghe ăn trót tháng, không dè khi hè hụi mang xuống thuyền,
những bạn dồng hành đều cười tôi hớ hẫng vì lúc ấy, nhơn tâm "xao xiến", vịt bầy
đẻ ngoài ruộng, trứng không ai thèm lượm, muốn ăn ra đó mặc sức hốt, tội tình gì
ra chợ mua "của hôi" tốn tiền. ( Năm 1988, một hột vịt tươi giá 200 - 250 đồng,
năm nay leo thang, tôi chưa rõ bao nhiêu, chừng nào 100 hột = 0$60 trở lại? ( 1-2-
1989) ).
Còn nói về cá tôm sông này, thì chính tôi (VHS) trong thấy rõ ràng, nhiều vô
số kể. Một bữa trưa tôi ngồi trong khoang thuyền, bỏ mắt trông ra bốn phương, vì
thân đi tản cư, ngày giờ nào biết làm gì hơn ngồi rỗi dòm trời dòm đất. Bữa trưa
ấy, tôi ngó ra sông thấy bãi cạn, có bầy trẻ đang trững giỡn, đứa tắm, đứa lội, đứa
lặn hụp, đứa ngồi bắt cá. Chúng nó bắt cá dễ ợt! Ban đầu chúng lấy tay khoét một
lỗ sâu trẹt trẹt tựa như lòng chảo. Đoạn chúng bẻ nhánh Dừa Nước che tàn cho rợp
bóng trên lỗ trũng ấy. Rồi chúng lấy tay vạch một đường khá sâu cho lổ thông ra
nước sông. Chúng đem theo một cái giỏ tre để đựng cá lại với một rổ con để xúc
cá. Đó rồi nửa chơi nửa thật, chúng nắm một nắm cám khô vãi vào vào lòng lạch
cái lổ trũntrũng. Thoạt nghe một tiếng "ồ", nước tung trắng xóa, tôi thấy cá nhỏ, cá
con từ đâu không biết chen vô, nhào vô đầy nhóc cái lổ trũng, chỉ còn chịu khó lấy
rổ xúc ra cho vào giỏ. Rồi sửa sửa cái lỗ cái lỗ cho êm cho kín đáo như cũ, đoạn
vãi cám và xúc nữa. Thật dễ dàng, quá sức hiểu biết của tôi. Lục tỉnh cá tôm dư dả,
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 14
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
quả là thiên đàng của dân Nam! ( từ sau 1947, dân tản cư vô dây dùng lựu đạn cho
nổ trên sông, tôm cá không còn nhiều như trước đây, thật là phí phạm lộc trời (1-2-
1989) )
- Làng Chắc Đốt này đến cuối năm 1946, bị nạn hỏa thiêu vô cùng ghê rợn,
người Việt và người Khmer do bị ngoại kiều mũi cao đốc lói nên thù khích nhau
dữ dội, sanh ra dịch đốt nhà lẫn nhau, đốt qua đốt lại thế nào mà đến rốt không còn
một nóc gia đứng vững. ( VHS)
31. Cái Quanh: Giếng Nước.
32. Văn Cơ: tên một làng Khmer trên đường đi Đại Ngãi, sau dịch là Trường Kế
và cũng gọi là Văn Cơ, người Hoa gọi là Sầu Ke.
33. Tham Đôn: Kompong Đôn ( Vũng Dừa). (địa danh này ở Mỹ Xuyên).
34. Cổ Cò: kòh Co ( tiếng Khmer Kòh có nghĩa là con Cò).
35. Sóc Trăng: Srok Khl'eang có nghĩa là "xứ kho bạc".
Trên đây là một số địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer mà ra do tôi góp
nhặt được từ nhiều nguồn, nhiều nhà khảo cứu, nhà sử học như Vương Hồng Sển,
Trương Vĩnh Ký, Trịnh Hoài Đức, Lê Hương Dĩ nhiên là Sóc Trăng vẫn còn
nhiều địa danh Khmer khác mà tôi chưa hiểu nghĩa như Tổng Cán, Dù Tho, Tam
Sóc, Trà Canh, Ba Rinh nếu hiểu ra chắc là thú vị lắm. Nếu ai biết thêm xin chỉ
dạy thêm dùm. Rất cảm ơn!
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 15
Một số vấn đề về lịch sử Sóc Trăng
Sưu tầm và biên tập: Nguyễn Đức Dũng Trang 16