Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

LUẬN văn phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở hải phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 119 trang )















LU
ẬN V
ĂN:


Phát tri
ển
đ
ội ngũ công nhân
ngàn
h công nghi
ệp
đóng tàu

H
ải Ph
òng hi


ện nay











Mở Đầu



1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xây dựng giai cấp công nhân nói chung và đội ngũ công nhân ngành công nghiệp
đóng tàu ở Việt Nam vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, trong giai đoạn hiện nay
là nội dung có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và gắn với nền
kinh tế tri thức; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; tạo nền tảng đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đề ra các mục tiêu chiến lược phát triển mạnh
các ngành kinh tế dựa trên những tiềm năng, lợi thế của đất nước và có khả năng tạo ra
các sản phẩm kinh tế có giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trường. Kinh tế biển là một
ngành như vậy. Với chiều dài bờ biển trên 3.200 km, vùng biển thềm lục địa thuộc chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam rộng trên 1.000.000 m
2
, gấp 3 lần diện

tích đất liền, Việt nam có một vị trí hết sức thuận lợi trong việc phát triển các ngành công
nghiệp biển và đẩy mạnh sự giao lưu kinh tế quốc tế qua đường hàng hải, mở rộng sự
liên kết, hợp tác trong khai thác và phát triển kinh tế biển có hiệu quả, đồng thời góp
phần củng cố quốc phòng và an ninh.
Từ thực tế trên, Nghị quyết TW 4 khoá X của Đảng ta đã khẳng định vị trí, vai trò
to lớn của kinh tế biển và vạch ra mục tiêu, chiến lược biển Việt Nam từ nay đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030 với mục tiêu tổng quát sau: "phấn đấu đưa nước ta
trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển". Theo đó phát triển ngành công nghiệp
đóng tàu được xem là hướng chủ đạo có vai trò quyết định cung cấp những phương tiện,
công cụ đa dạng về các chủng loại tàu, thuyền…đảm bảo cho chúng ta tiến ra biển, làm
chủ đại dương và khai thác đạt hiệu quả kinh tế cao các nguồn lợi từ biển.
Song trên thực tế ngành công nghiệp đóng tàu và đặc biệt là đội ngũ công nhân
ngành công nghiệp đóng tàu của nước ta hiện còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
đòi hỏi của sự phát triển kinh tế biển và nhu cầu vận tải biển.
Vấn đề đặt ra một cách cấp bách hiện nay đối với đội ngũ công nhân ngành công
nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng và toàn ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phải có
những chiến lược mới và những phương hướng giải pháp cụ thể trong xây dựng phát triển
ngành, đặc biệt là xây dựng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng tay nghề kỹ thuật
cao ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Đây cũng là lý do cơ bản mà tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển đội ngũ công
nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phũng hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
- ở Việt nam trong những năm gần đây, vấn đề giai cấp công nhân và sử mệnh lịch
sử của nó đã thu hút được nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Đáng chủ ý là một số công trình nghiên cứu sau: GS Văn Tạo (1997) Một số vấn
đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam. NXB chính trị quốc gia Hà Nội. Viện
công nhân và công đoàn - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2001) “Xu hướng biến
động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI”. NXB Lao động,
Hà Nội Các công trình nêu trên đã đề cập một cách khá phong phú, toàn diện nhiều

khía cạnh của giai cấp công nhân như xu hướng biến động của nó trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, mặt khác đã đưa ra một số những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công
nhân không ngừng lớn mạnh cả số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đặc biệt gần đây, đã có những công trình nghiên cứu trực tiếp đến mối quan hệ
giữa CNH, HĐH với sự phát triển của giai cấp công nhân cũng như vai trò của giai cấp
công nhân trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước như: GS-TS Dương Xuân
Ngọc (2004) Giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội. Trần Ngọc Sơn (2001), Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
và vai trò của nó trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Luận án tiến sỹ. Kỷ yếu hội thảo
- Về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH. Trường
Đại học công đoàn Việt Nam (2002). Các công trình trên đã đề cập về mối quan hệ biện
chứng giữa quá trình CNH, HĐH đất nước với sự phát triển của giai cấp công nhân, đặt
ra những yếu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng đáp
ứng yêu cầu của lao động sản xuất trong thời kỳ mới.
Ngoài những công trình nêu trên còn có một số luận văn thạc sỹ và các bài viết
trong các tạp chí ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt nam như: Nguyễn Văn Năm (1995),
Công nhân Hải Phòng trong công cuộc đổi mới, những vấn đề đặt ra và những phương
hướng giải pháp, Luận văn thạc sỹ, Viện chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Vũ Tiến Đạt (2004), Góp phần đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật
cao cho ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp tàu thuỷ, số 7. Tô
Ngọc (2005), Với công tác xây dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động ngành công
nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp tàu thuỷ, số 13 Các công trình trên đã
đề cập tới thực trạng công nhân của ngành công nghiệp tàu thuỷ và đưa ra một số phương
hướng giải pháp nhằm xây dựng củng cố và phát triển đội ngũ công nhân công nghiệp
đóng tàu. Hiện nay, chưa có một công trình khoa học cụ thể nào về phát triển giai cấp
công nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
hiện nay ở cấp tiến sĩ, thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn.
- Mục đích

Làm rõ thực trạng, xu hướng phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp
đóng tàu ở Hải Phòng; từ đó nêu ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ này góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện
có hiệu quả mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay.
- Nhiệm vụ
Chỉ ra những đặc điểm, làm rõ vai trò, các yếu tố quy đinh sự phát triển của công
nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế
tri thức ở nước ta hiện nay.
Đánh giá thực trạng chỉ ra các vấn đề, xu hướng vận động phát triển của công nhân
ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng.
Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát
triển công nhân ngành công nghiệp đóng tàu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở
Hải Phòng từ 1994 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện
Đảng cộng sản Việt Nam về giai cấp công nhân, CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế
và những chính sách đối với công nhân ngành công nghiệp đóng tàu.
- Từ phương pháp nghiên cứu đặc thù của CNXH khoa học là tiếp cận và giải quyết
vấn đề từ góc độ chính trị - xã hội, luận văn kết hợp với phương pháp phân tích - tổng
hợp, khảo sát, điều tra, thống kê để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn.
- Góp phần phát triển nhận thức xã hội đối với việc phát triển công nhân ngành
công nghiệp đóng tàu có vai trò to lớn, quyết định trong việc đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay.
- Để đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước thúc đẩy quá trình xây
dựng và phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu Hứa Phòng hiện nay.

- Làm tài liệu tham khảo để cho các cơ quan có thẩm quyền vận dụng vào việc
hoạch định các chủ trương, chính sách phù hợp trong quản lý và phát triển công nhân
ngành công nghiệp đóng tàu hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:

Chương 1: về phát triển công nhân ngành công nghiệp đóng tàu 1.1.
Công nghiệp đóng tàu và công nhân ngành công nghiệp đóng tàu.
1.1.1. Nhận thức chung về công nghiệp đóng tàu và kinh tế biển.
Về công nghiệp đóng tàu.
Trong thực tế, ngành công nghiệp đóng tàu (CNĐT) có lịch sử hình thành từ rất
sớm, đặc biệt từ những thế kỷ XVI - XIX nó đã có những bước tiến vượt bậc ở các nước
Châu Âu có nền công nghiệp phát triển như: Anh, Đức, Pháp, Hà Lan, Ba Lan, Nauy,
Đan Mạch Vào những thế kỷ này, những phát kiến mới về địa lý, nhu cầu phát triển của
CNTB cùng những cuộc tìm kiếm thị trường trên thế giới đã lấy đường biển làm con
đường chính, phát triển công nghiệp đóng tàu và hải quân làm phương tiện thực dân chủ
đạo để CNTB thỏa mãn khát vọng xâm chiếm của nó. Công nghiệp đóng tàu của những
nước đế quốc theo đó đã khá phát triển ; lịch sử phát triển ngành đóng tàu ngay từ giai
đoạn này đã mang dấu ấn chính trị - xã hội rõ nét; các đế quốc như Anh, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha là những nước có hạm đội mạnh và ngành công nghiệp đóng tàu phát triển
sớm. It có lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật nào mang rõ nét tính chất chính trị – xã hội như
ngành công nghiệp này. Và, cũng hiếm có quốc gia hiện đại nào có biển mà lại không
quan tâm và có chính sách riêng với ngành công nghiệp đặc thù này.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất hiện đại, xu thế hội nhập
và giao thương quốc tế đã làm tăng cường tính chất chuyên môn hoá, xã hội hoá cao
trong phân công lao động quốc tế và làm biến chuyển mạnh mẽ ngành công nghiệp đóng
tàu. Ngành công nghiệp này đang có xu hướng phát triển, dịch chuyển từ các nước vốn
có truyền thống về nghề đóng tàu sang các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapore Xu hướng này khiến cho CNĐT cùng với sự phát triển nhân lực, công nghệ,

vốn, thị trường cho nghề này đang có xu hướng toàn cầu hóa. ở Việt Nam nghề đóng
tàu thuyền đi biển đã có từ lâu trong lịch sử ; Song phát triển thành một ngành công
nghiệp đóng tàu thì gần đây Việt Nam mới thực sự hiện thực hóa và bắt đầu có những
bước tiến dài.
Công nghiệp đóng tàu là một ngành sản xuất vật chất trên cơ sở ngành công nghiệp
cơ khí (thiết kế vật liệu, vỏ tàu, máy tàu, điện tàu, ) tích hợp với nhiều chuyên ngành
khác (như hải dương học, vận tải biển, khai thác biển và cả công nghiệp quốc phòng, hải
quân ) Đây là lĩnh vực lao động công nghiệp hiện đại trong đó người công nhân sử dụng
các tư liệu lao động để trực tiếp biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm phục vụ cho
kinh tế biển. Thông qua quá trình công nghệ nhất định người ta làm thay đổi hình dạng,
kích thước bên ngoài, thay đổi tính chất cơ lý - hoá bên trong của các vật liệu để tạo ra
các sản phẩm đóng tàu. Kết quả của hoạt động đóng tàu là tạo ra các tàu vận tải, tàu đẩy,
tàu chuyên dụng và các thiết bị nổi hoạt động trên ao, hồ, sông biển
Đây là một ngành công nghiệp cơ khí kỹ thuật cao, sự phát triển của nó đòi hỏi
cần được đáp ứng những điều kiện đặc thù cơ bản như sau:
Đây là một ngành cơ khí kỹ thuật cao nó đòi hỏi sự đầu tư vốn ban đầu rất lớn
trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, các công cụ thiết bị, công nghệ cao, nhà máy bến
bãi để tiến hành sản xuất. Nếu chỉ tính xây dựng một ụ nổi và hệ thống triền, đà đã lên
tới hàng trăm tỷ đồng, riêng một thiết bị cẩu nâng bình thường loại 80 tấn đã mất khoảng
150 - 200 tỷ đồng, các phương tiện công cụ máy móc nguyên vật liệu để tiến hành thiết
kế, chế tạo hết sức đắt đỏ, thường chúng ta phải nhập khẩu từ bên ngoài Khả năng quay
vòng vốn lại rất chậm, trong quá trình sản xuất thường gặp rủi ro tương đối cao so với
ngành sản xuất khác vì bạn hàng cũng mang tính lựa chọn bởi không phải quốc gia nào
cũng có biển và có nhu cầu đóng mới hay sửa chữa tàu biển .
Đây cũng là một ngành kỹ thuật luôn được cải tiến phát triển không ngừng phù
hợp với nhu cầu dịch vụ vận chuyển đa dạng, đa phương thức nên đòi hỏi phải thường
xuyên bổ sung, cập nhật những công nghệ mới trong quá trình lao động sản xuất các sản
phẩm tàu đa dạng tiên tiến, hiện đại. Để ngành công nghiệp đóng tàu phát triển đòi hỏi
phải có một nền công nghiệp cơ khí phát triển đa ngành đủ mạnh có khả năng tạo ra nhiều
nhà thầu phụ cung ứng các loại nguyên nhiên vật liệu cho ngành công nghiệp đóng tàu.

Đây là ngành kinh tế mà sự phát triển có tính tuỳ thuộc khá lớn vào các yếu tố của
điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, thời tiết, diện tích bến bãi nhà xưởng phải đủ rộng để
bố trí phù hợp các xưởng gia công thuận tiện cho sản xuất lắp ráp các phân đoạn và các
tổng đoạn Trong đó, đặc biệt là phải có hệ thống cảng sông, cảng biển phát triển đạt
tiêu chuẩn yêu cầu riêng của quá trình sản xuất đóng mới và sửa chữa hạ thuỷ từng loại
tàu.
Tuy vậy ngành công nghiệp đóng tàu cũng là một ngày công nghiệp có khả năng
gây ra ô nhiễm môi trường lớn, do đó, trong quá trình đề ra mục tiêu chiến lược phát triển
ngành, kinh nghiệm của các nước đi trước cho biết là cần phải gắn liền với việc đề ra các
chính sách giải pháp xử lý vấn đề môi trường ngay từ đầu. Theo đó, ngành CNĐT có
những yêu cầu đặc thù về kinh tế kỹ thuật.
Đồng thời đây cũng là ngành kinh tế mà muốn phát triển cần phải thỏa mãn nhiều
yêu cầu kinh tế - chính trị - xã hội; chẳng hạn nó có tiền đề từ việc đẩy mạnh quá trình
hợp tác kinh tế quốc tế, phát triển đa ngành nghề, có tiềm lực kinh tế đủ khả năng xuất
nhập khẩu lưu thông hàng hoá với khối lượng lớn, có quan hệ rộng tạo điều kiện thúc
đẩy sự giao lưu thương mại dịch vụ, du lịch với các nước
Trong đó, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có một nền kinh tế biển với một
trình độ khai thác biển phát triển mạnh mẽ tạo ra được nhu cầu lớn về các phương tiện
tàu trong thăm dò, khai thác, vận tải biển. Chính sự phát triển kinh tế biển nó là động lực
trực tiếp cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển phát triển. Ngành công nghiệp
đóng tàu muốn phát triển vì thế, còn đòi hỏi các quốc gia phải có một chiến lược phát
triển toàn diện nền kinh tế, đặc biệt là phát triển nền kinh tế biển.
Kinh tế biển trong tư duy của nhiều người mới chỉ được nhìn nhận một cách rời
rạc, chủ yếu người ta bàn nhiều về vấn đề đánh bắt, khai thác dầu khí và vận tải. Các vấn
đề khác thuộc kinh tế biển cũng chưa có một nghiên cứu cụ thể chuyên sâu nào cho từng
ngành công nghiệp biển. Việc tìm ra những nguyên nhân xảy ra xung đột giữa các ngành
làm ảnh hưởng tới môi trường biển và đem ra các giải pháp đúng đắn nhằm giải quyết
những mâu thuẫn trên cũng còn nhiều tranh cãi. Những vấn đề trên qua các hội thảo quốc
tế về kinh tế biển cũng như các báo cáo tổng kết về kinh tế biển hiện nay vẫn còn nhiều
mặt cần tiếp tục làm sáng tỏ.

Hiện nay, kinh tế biển thường được hiểu theo hai cách cơ bản sau:
Thứ nhất, theo nhận thức chung của thế giới hiện nay, kinh tế biển là một nền kinh
tế tổng thành của các ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại.
Môi trường biển được định nghĩa là những vùng biển có chủ quyền và thuộc quyền
tài phán của các quốc gia như: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền. Nó là
một tổ hợp nhiều chức năng kinh tế - xã hội – chính trị của một quốc gia; gồm cả chủ
quyền, kinh tế biển, công nghiệp phục vụ kinh tế biển, giao thông vận tải biển, địa lý tài
nguyên và môi trường biển
Theo đó, các nền công nghiệp từ kinh tế biển Việt Nam bao gồm : khoáng sản biển
khơi, đánh bắt và nuôi trồng ; vận tải tàu biển ; nhà nước và quốc phòng ; du lịch và giải
trí biển, các dịch vụ biển ; nghiên cứu giáo dục biển ; chế tạo - chế biến ; xây dựng biển
Thứ hai, kinh tế biển được định nghĩa bằng cách nhận rõ sự phân biệt giữa hoạt
động biển và phi biển. Một số hoạt động như đánh bắt và vận chuyển tàu, phà dứt khoát
là lệ thuộc vào biển. Nhưng có những hoạt động khác lại khó phân loại chẳng hạn như
du lịch chỉ một phần lệ thuộc biển, có những hoạt động mua sắm trên bờ hoàn toàn không
lệ thuộc vào biển.
Từ cách quan niệm trên chúng ta có thể nhận thức hơn về từng ngành kinh tế biển
như sau:
Khoáng sản biển khơi - bao gồm các tài nguyên khoáng sản như dầu khí, muối,
cát và các loại khoáng sản khai thác từ biển.
Đánh bắt và nuôi trồng - bao gồm bán cá trên tàu, chế biến hải sản, hoạt động bán
buôn nuôi trồng và các dịch vụ về đánh bắt nuôi trồng.
Vận tải tàu biển - bao gồm vận tải hàng hoá và hành khách, bến du thuyền và hoạt
động bến cảng.
Nhà nước và quốc phòng - bao gồm các căn cứ hải quân, bến tàu, và các chiến
dịch tuần tra bảo vệ duyên hải và các hoạt động quản lý biển.
Du lịch và giải trí biển - bao gồm du lịch các địa phương duyên hải của du khách
trong nước hoặc nước ngoài.
Các dịch vụ biển liên quan đến biển và kinh tế biển.
Nghiên cứu và giáo dục - bao gồm nghiên cứu biển và giáo dục biển.

Chế tạo các loại máy móc thiết bị phục vụ cho khai thác biển.
Xây dựng biển bao gồm đóng tàu và xây dựng cơ sở hạ tầng, cảng biển.

Nếu kinh tế biển được nhận thức rộng như trên thì nước ta đang nắm trong tay một
quyền sở hữu tài nguyên về biển hết sức to lớn đầy tiềm năng để phát triển và cũng là
những thách thức lớn cần được hiểu rõ để chủ động khai thác tiềm năng ấy. Trên thực tế
nó chưa được khai thác và phát huy đầy đủ. Xây dựng cho Việt Nam chiến lược phát
triển kinh tế biển một cách toàn diện và khoa học để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội là việc làm cần thiết.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất mới quy định và làm rõ nét quan hệ sản
xuất và các quan hệ xã hội khác có gắn bó với kinh tế. Logic này cũng phù hợp với qúa
trình phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Việc chuyển hóa những tài nguyên và tiềm
năng ấy thành hiện thực được hay không lại tùy thuộc phần quan trọng vào yếu tố lực
lượng sản xuất hàng đầu là đội ngũ công nhân CNĐT.
Mối quan hệ giữa kinh tế biển với ngành công nghiệp đóng tàu.
Kinh tế biển và ngành công nghiệp đóng tàu là hai ngành có mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại lẫn nhau, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Muốn phát triển kinh tế biển một cách thuận lợi tất yếu phải phát triển ngành công
nghiệp đóng tàu vì nó chính là hạ tầng cơ sở cho sự phát triển của kinh tế biển. Bởi lẽ,
bất kỳ một hoạt động kinh tế nào có liên quan đến biển cũng như quá trình phát triển kinh
tế biển đều phải sử dụng các sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu. Từ hoạt động
thăm dò biển, nghiên cứu biển đến nuôi trồng và khai thác các nguồn tài nguyên biển
cũng như vận tải biển, du lịch biển, bảo vệ môi trường biển và bảo vệ an ninh quốc phòng
biển của xã hội nhất thiết cần phải có các phương tiện công cụ các loại tàu và các thiết bị
nổi của ngành công nghiệp đóng tàu làm cơ sở cho sự làm chủ đại dương
Ngược lại, muốn phát triển ngành công nghiệp đóng tàu trước hết phải có hệ thống
cảng sông, cảng biển mới tạo ra những điều kiện thích hợp cho xây dựng các cơ sở nhà
máy đóng mới và sửa chữa tàu biển. Ngành công nghiệp đóng tàu thuỷ ra đời và phát
triển phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên đó là phải có biển. Không những thế,
ngành công nghiệp đóng tàu chỉ có thể phát triển được khi và chỉ khi trình độ kinh tế biển

của các nước phát triển tới một trình độ nhất định đưa đến sự giao lưu kinh tế quốc tế hóa
giữa các nền kinh tế và các ngành kinh tế mới tạo ra các nhu cầu đa dạng về các loại
phương tiện công cụ tàu lớn trên thực tế cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu.
Trong lịch sử cũng như hiện tại phát triển kinh tế biển vốn là một trong những nội
dung kinh tế quan trọng mang tính chiến lược của các quốc gia có biển. Nếu chúng ta
nhìn một rộng hơn sẽ thấy rõ lịch sử xã hội loài người trong quá trình phát triển luôn gắn
liền với nguồn nước, dòng sông, biển cả. Các trung tâm văn minh cổ xưa đều nằm bên
cạnh các dòng sông lớn của khu vực và từ đó phát triển tiến dần ra biển. Đây chính là
điều kiện cần và đủ làm cho ngành giao thông thủy và hàng hải ra đời, phát triển mạnh
mẽ. Trên thực tế, quyền lực trên biển nó luôn thuộc về những quốc gia nào có cánh buồm
lớn nhất, quốc gia đó sẽ đi nhanh nhất và phát triển nhất. Điển hình cho sự phát triển
hướng ra biển vượt đại dương đó là các cường quốc: Anh, Đức, Mỹ, Nga, Tây Ban Nha,
Ba Lan, Hà Lan họ đã có mặt khắp các đại dương và chính các quốc gia này cũng đã
khai thác được những nguồn tài nguyên từ biển lớn nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia mình.Trong những năm gần đây, các nước ở khu vực châu á, như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore có những bước phát triển nhanh chóng về kinh
tế biển. Họ đã có ý thức về kinh tế biển và tận dụng và khai thác có hiệu quả những lợi
thế kinh tế từ biển của mình.
Việt Nam có một tiềm năng to lớn về biển và có điều kiện rất thích hợp để có thể
xây dựng phát triển các ngành công nghiệp biển, đặc biệt là ngành công nghiệp đóng mới
và sửa chữa tàu biển tiên tiến, hiện đại mang tầm cỡ khu vực và quốc tế. Thực tế sự phát
triển của các nước cho thấy để khai thác được những tiềm năng lợi thế từ biển phải có
một ngành công nghiệp đóng tàu phát triển cung cấp những phương tiện công cụ tàu thuỷ
đảm bảo cho sự khám phá, chinh phục Đại dương một cách chủ động và khai thác có
hiệu quả các nguồn tài nguyên từ biển, môi trường biển. Nhưng mặt khác, để phát triển
được ngành công nghiệp đóng tàu tất yếu cần phải có một mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế biển một cách toàn diện.
ở nước ta, biển chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Cho nên việc xác định phát
triển kinh tế biển gắn liền với phát triển ngành công nghiệp đóng tàu tiên tiến hiện đại,
phục vụ đắc lực cho quá trình khai thác và phát triển kinh tế biển thúc đẩy sự chuyển

hướng cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước và bảo vệ an ninh quốc phòng
phải là một mục tiêu của chiến lược phát triển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề
này hiện Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế biển và ngành công
nghiệp đóng tàu như sau:
- Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế biển:
Căn cứ vào xu thế phát triển của thế giới hiện đang trong thời kỳ hướng ra biển
nhằm khai thác những tiềm năng, lợi thế từ biển ; đồng thời xuất phát từ nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước ta trước mắt và lâu dài ; gần đây Bộ Chính trị đã
có hẳn một nghị quyết về phát triển kinh tế biển, đảo. Hội nghị BCN TW lần thứ 4 khoá
X ngày 26/1/2007 đã bàn và đưa ra nghị quyết về 5 vấn đề trọng yếu của đất nước, trong
đó có vấn đề chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 với mục tiêu
tổng quát như sau: "quyết tâm phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam thành một quốc gia
mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, góp
phần quan trọng làm cho đất nước mạnh giàu".[ ]
Từ mục tiêu tổng quát trên Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nhất trí 3 mục
tiêu cụ thể như sau:
Một là, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia biển, xây dựng một vùng biển hoà
bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển với các nước.
Hai là, phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ quốc
phòng an ninh làm cho đất nước giàu mạnh lên từ biển, bảo vệ môi trường biển.
Ba là, nâng cao chất lượng phát triển, phấn đấu đến năm 2020 kinh tế biển và ven
biển, đóng góp khoảng 53 - 54 giá trị GDP cho cả nước.
Từ những mục tiêu cơ bản trên Đảng ta cũng đã vạch ra định hướng ưu tiên phát
triển có trọng tâm, trọng điểm những ngành kinh tế có lợi thế so sánh sau: Thăm dò, khai
thác và chế biến các sản phẩm dầu khí; phát triển hệ thống các cảng biển, vận tải biển;
kinh tế hàng hải và công nghiệp đóng tàu ; khai thác đánh bắt thuỷ sản ; phát triển du lịch
và kinh tế biển, đảo. Trong đó, phát triển ngành đóng tàu thủy được xem là ngành chủ
đạo làm đòn bẩy cho quá trình thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế biển của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành nhiều quyết định quan trọng cho

sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thuỷ (CNTT)Việt Nam. Cụ thể là quyết định
số 1420/QĐ.TTg về đề án phê duyệt phát triển tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam giai đoạn 2001 - 2010 Hà Nội ngày 2/11/2001. Tiếp theo thủ tướng Chính phủ đã
ký quyết định số 1106/QĐ.TTg về phê duyệt đề án điều chỉnh phát triển tổng công ty
CNTT Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010 và định hướng 2015 Hà Nội ngày 18/10/2005.
Quan điểm, mục tiêu phát triển ngành CNTT Việt Nam như sau:
- Quan điểm chỉ đạo cho việc phát triển CNTT Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng phát triển Tổng Công ty CNTT Việt Nam trở thành tập đoàn
kinh tế mạnh hoạt động theo mô hình Công ty mẹ, Công ty con, kinh doanh đa ngành, đa
sở hữu (trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối), có trình độ công nghệ tiên tiến,
quản lý hiện đại làm nòng cốt cho ngành tàu thuỷ Việt Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Thứ hai, xây dựng Tổng Công ty CNTT Việt Nam phát triển theo hướng đa ngành,
lấy đóng mới và sửa chữa tàu thủy là chính, phát triển các ngành nghề khác trên nguyên
tắc là những ngành hỗ trợ cho ngành đóng tàu. Theo đó Tổng Công ty được hoạt động
trong một số lĩnh vực hàng hải, phát triển vận tải biển, vận tải sông và các ngành phụ trợ;
hoạt động trong một số lĩnh vực tài chính theo quy định của pháp luật và sự chấp thuận
của cơ quan có thẩm quyền. Tự thu xếp vốn, tự liên doanh, liên kết trong việc phát triển
công nghiệp và các dịch vụ khác để đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Thứ ba, Tổng Công ty thực hiện chiến lược sản phẩm mẫu, sản phẩm trọng điểm,
sản phẩm mũi nhọn, làm chủ công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm
mở rộng thị trường, xuất khẩu ngày càng nhiều và đáp ứng nhu cầu về các loại phương
tiện trong nước.
- Mục tiêu đăt ra :
Đóng mới được các loại tàu hàng có trọng tải tới 80.000 tấn riêng tàu chở dầu thô
có trọng tải từ 100.000 tấn đến 300.000 tấn. Tàu container có sức chứa đến 3.000 TEU,
các loại tàu khách, tàu công trình, tàu dịch vụ dầu khí, tàu đánh cá xa bờ, tàu chế biến hải
sản, tàu cứu hộ, tàu bảo đảm hàng hải, tàu đẩy trên sông và ven biển, tàu LASH, tàu tuần
tra và tàu thông dụng.
Sửa chữa được tàu có trọng tải tới 400.000 tấn.

Đầu tư các ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho ngành công nghiệp đóng tàu.
Đến năm 2010 phấn đấu thực hiện các mục tiêu sau:
Sản xuất thép tấm đóng tàu thông dụng.
Lắp ráp và sản xuất động cơ diesel đến 22.000 sức ngựa.
Sản xuất Container các loại.
Sản xuất các thiết bị như: thiết bị điện tàu thuỷ, thiết bị trên boong tàu thuỷ, thiết
bị cứu sinh, hộp số và chân vịt, nồi hơi tàu thủy, nội thất tàu thủy
Vận tải biển và vận tải sông, từng bước nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của đội tàu vận tải biển, vận tải sông và các cơ sở dịch vụ hàng hải

Vấn đề cấp bách nhất đang đặt ra hiện nay là : muốn xây dựng phát triển được
ngành công nghiệp đóng tàu đáp ứng yêu cầu của quá trình khai thác phát triển kinh tế
biển chúng ta phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành đóng tàu đủ mạnh
cả về số lượng và chất lượng ngang tầm với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và đảm bảo
sự cạnh tranh trên trường quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của công nhân ngành công nghiệp đóng tàu.
Công nhân ngành công nghiệp đóng tàu là những người sản xuất vật chất trong
lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển. Họ gồm những người
có chuyên môn kỹ thuật - tay nghề cao, lao động trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vận
hành các công cụ lao động cơ khí chính xác có tính chất công nghiệp ngày càng tiên tiến
hiện đại hoá cao. Họ đóng một vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giây
chuyền công nghệ sản xuất đóng mới và sửa chữa đa dạng các phương tiện tàu thuỷ: vừa
là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất vừa là người làm chủ, vận hành nền sản
xuất tiên tiến ấy.
Đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu cũng giống như giai cấp công
nhân nói chung đều là sản phẩm và là chủ thể của đại công nghiệp. Tư tưởng của C.
Mác và Ph. Ăngghen đang được chính thực tiễn sản xuất hiện đại khẳng định và làm tươi
mới. Công nhân CNĐT cũng mang trong mình những điểm chung thống nhất với đặc
điểm của GCCN, song do tính đặc thù của ngành nên đội ngũ công nhân này còn có
những đặc điểm khác biệt như sau:

Hầu hết các ngành công nghiệp hiện đại đều tích hợp trong sản phẩm tàu biển, từ
công nghiệp nặng, cơ khí chính xác, hóa công nghiệp đến công nghệ thông tin, công nghệ
hải dương; gần đây các tàu thuyền đều định vị bằng vệ tinh – ngành đóng tàu hiển nhiên
phải tiếp hợp với công nghệ định vị – viễn thám từ vũ trụ Đặc trưng nghề nghiệp ấy
đòi hỏi hệ tri thức đa dạng và chuyên sâu của công nhân CNĐT.
Ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển là ngành kỹ thuật yêu cầu tính
chính xác cao, cho nên đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu nhất thiết phải
qua đào tạo một cách căn bản và thường xuyên được đào tạo cập nhật những công nghệ
mới và rèn luyện kỹ năng tay nghề, đồng thời nó đòi hỏi người lao động phải có kinh
nghiệm thực tế trong quá trình sản xuất đóng mới và sửa chữa tàu thủy để đáp ứng yêu
cầu lao động của ngành. Vì thế, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đội ngũ công nhân ngành công nghiệp
đóng tàu không ngừng được phát triển nâng cao cả số lượng và chất lượng ; được ‘‘trí
thức hoá’’ và trở thành lực lượng đi đầu trong nhạy bén nắm bắt, tiếp cận, làm chủ sáng
tạo các công nghệ mới ứng dụng trực tiếp vào trong quá trình sản xuất đóng mới và sửa
chữa tàu thủy ở nước ta.
Đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu là những người lao động được
đào tạo một cách căn bản chuyên sâu. Hơn nữa, do sự phát triển khoa học kỹ thuật và
công nghệ trong ngành cơ khí thường xuyên thay đổi và các sản phẩm tàu ngày càng đòi
hỏi chất lượng phục vụ cao theo yêu cầu của khách hàng. Điều này đòi hỏi người lao
động trong ngành công nghiệp đóng tàu phải thường xuyên được đào tạo và đào tạo lại
để cập nhật những công nghệ mới, tiên tiến hiện đại ứng dụng vào trong quá trình sản
xuất. Hiện các sản phẩm đóng tàu mà họ tạo ra nó ngày càng đòi hỏi tính năng kỹ thuật
công nghệ cao, trọng tải lớn, vận hành với tốc độ cao. Phải đáp ứng mọi tiêu chuẩn
nghiêm ngặt của các cục đăng kiểm quốc tế, đảm bảo các sản phẩm tàu có độ bền thích
nghi với mọi điều kiện thời tiết, khí hậu và nước biển với mức độ an toàn cao trên mặt
nước và hoạt động dưới nước. Do đó, đây là một ngành kinh tế kỹ thuật cao có sự tích
hợp nhiều nghề chuyên sâu trong quá trình sản xuất như kỹ năng nghề cắt tôn, sơn, gò,
hàn, thiết kế vỏ tàu, điện tàu, triền đà, ụ, lái tàu, lái cẩu giữa các công đoạn sản xuất nó
đòi hỏi tính năng cơ số hoá trong từng chi tiết phải đạt độ chính xác cao theo mẫu thiết

kế và sử dụng các phương tiện công cụ hiện đại bán tự động và tự động hoá cao trong
sản xuất thi công.
Tính chất xã hội hóa của lao động được thể hiện khá rõ trong lao động và trong
sinh hoạt của công nhân CNĐT. Do tính chất đặc thù nghề nghiệp người lao động trong
ngành công nghiệp cơ khí kỹ thuật này, nó đòi hỏi đội ngũ công nhân lao động trong
ngành công nghiệp đóng tàu phải có tính tổ chức kỷ luật cao. Kỷ luật công nghiệp và yêu
cầu bán quân sự (đây là một yêu cầu đặc thù của nghề nghiệp) đã đòi hỏi và rèn luyện
cho công nhân CNĐT tác phong công nghiệp. Vì, đội ngũ công nhân này phải làm việc
trong các môi trường nhà xưởng khác nhau, tạo ra các phân đoạn, tổng đoạn theo từng
loại modul khác nhau trong một sản phẩm tàu. Công việc đòi hỏi phải có sự chính xác ăn
khớp giữa các modul ấy là rất cao. Chính điều đó đòi hỏi người công nhân phải có sự liên
kết cùng phối hợp chặt chẽ với nhau.
Do điều kiện lao động sản xuất đặc thù của ngành, an toàn lao động cho công nhân
CNĐT vì vậy cũng có sắc thái riêng. Phải lao động làm việc trong điều kiện hết sức nguy
hiểm trực tiếp trên các hệ thống thiết bị cơ khí nâng hạ hàng trăm, hàng nghìn tấn sắt
thép trong không gian chật hẹp, trên hệ thống triền đà rất phức tạp nên tai nạn lao động
dễ xảy ra. Quá trình lao động của công nhân lại thường diễn ra trên hệ thống triền đà, ụ
ở trên cao hàng chục mét, có khi phải lao động ở dưới nước, trong hầm tàu với khoảng
không chật hẹp, xoay xở khó khăn, phức tạp nên khá nhiều rủi ro trong lao động - cả
cho người lao động và cả cho sản phẩm của công nghiệp đóng tàu. Trong quá trình sản
xuất sơn, hàn, gò người lao động phải đối mặt trực tiếp với các loại bụi hoá chất, phóng
xạ rất độc hại, nguy hiểm đến trí tuệ và sức khoẻ. Cho nên, buộc người lao động trong
ngành này phải nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy, quy định của luật lao động và luật
an toàn lao động khi tiến hành sản xuất thi công đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ.
Công nhân CNĐT còn phải nắm được những yếu tố, điều kiện tự nhiên và có kinh
nghiệm, kỹ năng thực hành để có thể đưa ra những giải pháp linh hoạt phù hợp để tận
dụng khai thác tốt nhất những điều kiện tự nhiên để đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu
quả lao động. Ví dụ, trong quá trình sản xuất phải lợi dụng thuỷ triều để có thể đưa tàu
vào âu, ụ, hay để hạ thuỷ một cách an toàn
Trên đây là những nét khác biệt cơ bản của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp

đóng tàu, nó luôn quy định đội ngũ công nhân ngành này phải luôn cập nhật và tự rèn
dũa, tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng tay nghề của mình, đáp ứng yêu cầu sản xuất và phát
triển của ngành.
Từ thực tiễn và lý luận, chúng tôi quan niệm: Công nhân công nghiệp đóng tàu là
bộ phận cấu thành của giai cấp công nhân nói chung. Họ là những người lao động trực
tiếp và gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra các sản phẩm của ngành
CNĐT. Họ là những người có trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật cao, là người đại
diện tiêu biểu cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất chuyên môn hoá,
xã hội hoá cao trong ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ. Họ là người góp
phần quyết định vào năng lực và hiệu quả khai thác kinh tế biển của đất nước ta.
1.2. Những yếu tố quy định sự phát triển của công nhân ngành công nghiệp
đóng tàu.
1.2.1. Vai trò của công nhân ngành Công nghiệp đóng tàu
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động lao động sản xuất nào thì con người lao động
bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp nhất tới sự phát triển sản xuất
và hiệu quả sản xuất. Ngày nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới không
ngừng được phát triển giá trị hàm lượng chất xám trong các sản phẩm hàng hoá ngày
càng cao, thì vai trò của con người lao động lại càng có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết
trong lực lượng sản xuất. Vì con người chính là một bộ phận quan trọng nhất cấu thành
lực lượng sản xuất trong mọi thời kỳ, con người vừa là điểm khởi đầu nhưng cũng là
đích đến trong mọi sáng kiến phát minh và ứng dụng sáng tạo các thành tựu khoa học kỹ
thuật và công nghệ vào trong quá trình sản xuất phát triển kinh tế xã hội. V.I Lênin đã
chỉ ra rằng: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người
lao động” [ 1. T38, tr 430]
Đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu là yếu tố hàng đầu cho sự phát
triển của ngành công nghiệp đóng tàu. Trong điều kiện của sự phát triển kinh tế kỹ thuật
ngày càng hiện đại với quá trình quốc tế hoá cạnh tranh gay gắt như hiện nay cần phải có
nguồn lực con người và chất lượng nguồn lực con người ngày càng cao, có khả năng nắm
bắt, làm chủ các công nghệ mới trên thế giới, ứng dụng một cách sáng tạo trong lao động
đạt chất lượng và hiệu quả cao. Họ là, lực lượng lao động đông đảo gồm cả các loại kỹ

sư, kỹ thuật viên và những người thợ lành nghề khác ở những cấp bậc khác nhau đang
làm chủ những tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, có kinh nghiệm và sự
am hiểu sâu sắc những nhân tố tự nhiên tác động đến các quy trình sản xuất đóng mới và
sửa chữa tàu thuỷ.
Hiện nay, đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu là những người tiền
phong trong nắm bắt và ứng dụng các thành tựu khoa học và Công nghệ mới tiên tiến ấy
vào trong các quy trình sản xuất đóng mới và sửa chữa đa dạng các phương tiện tàu thuỷ.
Hơn nữa họ còn là người tham gia trực tiếp vào việc đổi mới công tác tổ chức sản xuất,
cải thiện môi trường lao động trong các nhà máy. Đồng thời họ là những người đóng góp
những ý kiến về chuyên môn còn bất cập trong quá trình lao động sản xuất của các nhà
máy đóng tàu. Từ đó giúp các doanh nghiệp đưa ra những phương hướng, giải pháp tối
ưu nhằm đổi mới phương thức sản xuất, phương thức lao động, cải tiến công cụ lao động
và công nghệ phù hợp với yêu cầu sản xuất, giảm thiểu chi phí sản xuất và rút ngắn thời
gian thi công đóng mới và sửa chữa tàu, đem lại năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế
cao.
3.2.2- Nhóm giải pháp đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông
thôn
- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi kết hợp với giao thông và bố trí lại
dân cư.
Tiếp tục phát triển thuỷ lợi trên quan điểm sử dụng tối ưu, bền vững nguồn tài
nguyên đất và nước, tận dụng có hiệu quả mặt tích cực, hạn chế tối đa mặt tiêu cực của
lũ cho phát triển, giữ vững cân bằng sinh thái về nguồn nước, chất lượng nước và yêu
cầu về vệ sinh môi trường. Tăng dần năng lực nhằm bảo đảm chủ động tưới tiêu cho 180
ngàn ha đất trồng cây hàng năm gieo trồng tử 2-3 vụ trong năm, kiểm soát lũ tháng 8 bảo
vệ ăn chắc vụ hè thu, kiểm soát lũ cả năm cho trên 25 ngàn ha vườn cây ăn trái và các
địa bàn nhân giống cây; kết hợp với việc xây dựng các cụm, tuyến dân cư trong vùng
ngập lũ, đảm bảo nơi ở ổn định cho dân cư vùng ngập lũ trong mùa lũ.
Xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn là nhiệm vụ lớn nhất nặng nề nhất, đối với
Đồng Tháp. Trước hết, phải xây dựng hệ thống giao thông gồm cả đường thủy và đường
bộ nối liền các trung tâm kinh tế của Tỉnh gắn với khu vực và giữa các vùng với nhau và

với Campuchia. Đây là điều kiện tích cực để người nông dân có nhiều cơ hội để rộng thị
trường tiêu thụ nông sản của mình, đưa đến khả năng chuyên môn hóa trong sản xuất.
Mở rộng giao thông là biện pháp mở rộng giao lưu. Để khắc phục tình trạng lạc hậu ở
các vùng nông thôn, vùng sâu, không có giải pháp nào tốt hơn là mở rộng mạng lưới giao
thông.
Đối với đường giao thông quốc lộ và tỉnh lộ thì cần phải vượt lũ để đảm bảo lưu
thông hàng hoá và hành khách xuyên suốt trong mùa nước. Đối với đường nông thôn thì
không nên đặt vấn đề vượt lũ, vì chúng là vật cản, ngăn dòng chảy khi lũ về và lũ rút.
Nếu đường nông thôn cũng vượt lũ sẽ chia cắt nông thôn thành nhiều ô nhỏ chúng sẽ góp
vào việc làm tăng lũ lớn cục bộ trong nội đồng và kéo dài thêm thời gian lũ rút. Nên
nghiên cứu, xây dựng những tuyến đường giao thông sống chung với lũ ở nông thôn.
Nghĩa là, tuyến đường giao thông đó dùng để đi lại trong mùa khô và chịu đựng được
trong nước không bị hư hao mỗi khi lũ về, mùa nước nổi người dân đi lại bằng phương
tiện khác (xuồng, ghe…) hoặc xây cầu cạn vượt lũ… có làm được như vậy chúng ta mới
khắc phục được tình trạng giao thông nông thôn vẫn khó khăn đắp, xây, sửa chữa trước
và sau mỗi mùa lũ.
Công trình thuỷ lợi được tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh dần theo Quyết định 99/TTg
của Thủ tướng Chính phủ, theo quy hoạch kiểm soát lũ vùng đồng bằng sông Cửu Long
và dự án kiểm soát lũ tràn biên giới vùng Đồng Tháp Mười. Gồm các công trình chủ yếu:
hệ thống kinh trục, kinh cấp 1,2,3, hệ thống bờ bao, công trình tưới tiêu, thuỷ lợi nội
đồng, cụm tuyến dân cư… phân bổ trên 6 vùng dự án thuỷ lợi chính của tỉnh, có quy mô
phù hợp với nhiệm vụ mục tiêu cụ thể của từng dự án. Chia ra: Vùng phía Bắc tỉnh, 3 dự
án: tiểu khu Bắc Hồng Ngự, vùng giữa Thanh Bình - Tam Nông, vùng Nam Cao Lãnh.
Vùng Phía Nam Tỉnh, 3 dự án: khu Bắc Lấp Vò, khu Nam Lấp Vò, khu Châu Thành.
- Các công trình thuỷ lợi được xây dựng trên cơ sở hệ thống hiện trạng đã hình
thành, theo hướng kiên cố hoá dần các công trình có thể xây dựng kiên cố như thuỷ lợi
nội đồng, hệ thống bờ bao, cống; thay thế các đập tạm bằng cống kiên cố, chuyển trạm
bơm dầu thành trạm bơm điện ở những nơi có điều kiện.
Các địa phương hiện nay đang huy động sức dân để cùng với Nhà nước xây dựng
nhiều công trình giao thông, cầu đường nông thôn để giải quyết xe hai, ba bánh đi lại.

Đây là chủ trương đúng hợp lòng dân, nhưng thông thường do khẩu độ và trọng tải nhỏ
nên đường xá không đáp ứng được yêu cầu cơ giới hoá nông nghiệp. Cần nhanh chóng
thay đổi cách nghĩ, cách làm để không phải trong tương lai gần chúng ta lại phải thay đổi
hàng loạt cầu, đường mới phục vụ cho sản xuất và giao thương.
Để hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn, Đồng Tháp cần kiến nghị với Trung
ương sớm tiến hành xây dưng các công trình lớn cầu Cao Lãnh qua sông Tiền, cầu Vàm
Cống qua sông Hậu để hạn chế sự chia cắt tỉnh với khu vực, đầu tư hoàn chỉnh và mở
rộng các tuyến đường quốc lộ 80, QL 54, QL 30 qua địa phận Đồng Tháp.
Mặt khác Đồng Tháp cần đầu tư về nguồn vốn, sức người, vật tư kỹ thuật để xây
dựng các công trình thủy lợi đào kênh, mương, nạo vét sông rạch, đắp đê, đắp đập làm
cống, làm thủy nông nội đồng, khai thác nước ngầm, đào giếng … Cần tập trung tăng
cường hệ thống đê bao và nạo vét sông rạch, kết hợp với xây dựng cụm, tuyến dân cư và
điện khí hóa nông thôn. Tỉnh đang thi công 204/205 cụm, tuyến dân cư, dự kiến bố trí
47.667 hộ dân vào ở. Tuy nhiên, hiện nay chỉ mới điều chuyển được 32.028 hộ. Sở dĩ
như vậy bởi các công trình điện, đường, cấp, thoát nước thi công chậm, chưa đồng bộ
gây khó khăn cho việc bố trí dân cư.
Để thực hiện những chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, ngoài ngân
sách Nhà nước đầu tư, thì các địa phương vận dụng quy chế do Chính phủ ban hành tổ
chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây
dựng theo tinh thần Nghị định số 24/1999 NĐ – CP ngày 16/4/2000. Ngân sách này được
sử dụng bổ sung vào vốn đầu tư cho các mục đích xây dựng mới, nâng cấp sửa chữa các
công trình kết cấu hạ tầng của xã và liên xã.
+ Phát huy hệ thống thông tin:
Vấn đề tìm và giữ thị trường, đăng ký thương hiệu, nâng cao chất lượng hàng hóa
có tầm quan trọng to lớn trong việc tạo ra sự phát triển bền vững cho nông nghiệp, nông
thôn. Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, nhiều mặt hàng của Việt Nam chưa thực sự ổn
định trên thị trường nội địa và xuất khẩu, do chỗ chúng ta chưa xem trọng vấn đề tìm,
giữ thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và đăng ký thương hiệu hàng hóa. Phải tìm
và giữ lấy thị trường là một cơ sở vững chắc cho quá trình sản xuất, điều này người dân
không thể tự lo liệu được. Hiện nay, có một thực tế mâu thuẩn là các doanh nghiệp muốn

có những thông tin về thị trường, nhu cầu, thị hiếu thì họ không tìm đến các cơ quan Nhà
nước mà tìm đến các hãng thương mại nước ngoài thông qua phương tiện internet hoặc
trực tiếp tiếp xúc. Phải coi việc tìm kiếm thị trường là việc của doanh nghiệp, của Nhà
nước. Trách nhiệm của Nhà nước là tạo môi trường, tạo điều kiện thông thoáng cho doanh
nghiệp kinh doanh, xuất khẩu. Vì thế, nên có các tổ chức chuyên tiếp thị cho nông dân,
cho doanh nghiệp, cung cấp cho họ những thông tin thiết thực, nhất là thông tin về thị
trường, giá cả, ứng dụng công nghệ. Tổ chức này có thể thuộc mọi thành phần kinh tế
nhưng phải có sự tiếp sức của Nhà nước. Cần phải củng cố vị trí ở các thị trường quen
thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới,
giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường.
3.2.3- Nhóm đào giải pháp tạo nguồn nhân lực lao động có trình độ cao cùng
với giải quyết việc làm cho nông dân, “ xóa đói giảm nghèo” và “chủ động sống chung
với lũ”:
- Đổi mới các chính sách xã hội đối với nông dân, xóa đói giảm nghèo và
thực hiện công
bằng xã hội.
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
- Tiếp tục thực hiện các chính sách giúp đỡ hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà
ở…cho hộ nghèo, người nghèo; đặc biệt Tỉnh cần đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết
yếu ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, phát triển các ngành kinh tế, các khu kinh
tế tập trung ở những vùng trọng điểm, lân cận để thu hút người nghèo tham gia vào các
dịch vụ có thể. Ưu tiên người nghèo học nghề, tạo việc làm, chuyển đổi làm các nghề phi
nông nghiệp đối với vùng nông thôn, hỗ trợ trong giáo dục cho con em hộ nghèo, giúp
đỡ hộ nghèo về nguồn vốn vay phát triển kinh tế hộ gia đình, đảm bảo mức vay bình quân
10 triệu đồng/ hộ; hộ trợ về bảo hiểm y tế; huy động và vận động các nguồn lực tại chỗ,
các hội, đoàn thể tham gia công tác giảm nghèo; tiếp tục các hoạt động khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư hướng dẫn cho hộ nghèo, người nghèo vùng nông thôn cách
làm ăn, khuyến khích hộ nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo.
- Tiếp tục nhân rộng dự án mô hình giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn ở nông thôn, tái đầu tư các mô hình dự án ở các xã, đặc biệt nhân rộng

mô hình làm ăn có hiệu quả; tổ chức thanh kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chương
trình giảm nghèo, đảm bảo hiệu quả thiết thực; khảo sát thống kê, đánh giá đúng thực
trạng hộ nghèo theo từng khu vực, địa phương. Tăng cường năng lực quản lý và thực
hiện tốt công tác giảm nghèo cho cán bộ các cấp, các ngành.
- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, cụ thể như chăm
sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng những đối tượng khó khăn, yếu thế, người tàn tật không
có khả năng lao động tạo thu nhập; tổ chức nuôi dưỡng tập trung những người già cô đơn
không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi bị bỏ rơi; nhằm giảm bớt các gánh nặng cho gia đình;
kịp thời tổ chức cứu trợ giúp đỡ cho các gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn.
Thực hiện chính sách đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo.
Tăng cường tuyên truyền Luật đất đai 2003, Nghị định 181/2004/NĐ-CP và các
văn bản pháp luật khác về đất đai, cụ thể hóa để phù hợp với điều kiện của tỉnh. Sớm có
biện pháp tháo gỡ những tồn tại, khó khăn về đất đai hiện nay, nhất là vấn đề thời hạn
giao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân theo Nghị định 64, việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp, nhằm khuyến khích đầu tư, vấn đề thu hút đầu tư và
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, từng bước tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp,
nông thôn.
- Khuyến khích việc đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất trồng cây hàng
năm mà
không phải đất chuyên trồng lúa nước, đất nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây lâu năm,
đất rừng sản xuất sang đất nông nghiệp khác để hộ nông dân, các thành phần kinh tế yên
tâm đầu tư phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi đề hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung. Trong trường hợp phải chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất
nông nghiệp khác thì phải sớm quy hoạch.
Người nghèo thường là ít ruộng đất, thiếu việc làm nên để việc quy hoạch và sử
dụng đất có hiệu quả, cần chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo thêm việc làm cho người dân
nông thôn là một trong những giải pháp quan trọng.
Cho vay vốn, đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ cho các hộ nghèo.
Cùng với đất đai và tư liệu sản xuất khác, vốn, sức lao động, cần kiệm, kiến thức
và ý chí vượt qua đói nghèo được xem là nguồn lực quan trọng đối với nông dân nói

chung và người nghèo nói riêng.
Trước hết cần giáo dực để người nông dân nghèo hiểu: Nghèo khổ là một nổi
nhục, để tự thân phấn đấu vươn lên. Phải biết dành dụm chắc chiu, thông qua tiết kiệm,
tạo thêm việc làm, thu nhập để vượt qua khó khăn…
Thực tế từ những năm 90, với các hoạt động tự nguyện và phong trào quần chúng
ở một số địa phương đã tổ chức huy động vốn tiết kiệm cho người nghèo vay để sản xuất
và làm dịch vụ. Phương pháp đầu tư bằng chính sách tín dụng cho hộ nghèo là phương
pháp có hiệu quả nhất. Hơn nữa trong cơ chế mới, nguồn vốn trong dân dồi dào, nếu
chúng ta có chủ trương và cơ chế thích hợp sẽ huy động được nguồn vốn cho hộ nghèo
vay để sản xuất và làm dịch vụ.
ngành, mọi nghề phải không ngừng nghiên cứu áp dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào việc đổi mới cải tiến phương tiện, công cụ sản xuất
của mình đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng
và đủ sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế. Mặt khác xu thế hội nhập kinh tế trên cũng
đang rất trọng phương tiện vận tải biển – cho đến nay, đây vẫn là ngành vận tải lớn nhất
và có cước chuyên chở thấp nhất. Điều đó làm cho ngành giao thông đường thuỷ ngày
càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình lưu thông, vận chuyển hàng hoá xuất, nhập
khẩu.
- Cơ sở phát triển kinh tế biển cũng là một yếu tố quy định sự phát triển công
nhân CNĐT
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế biển đầy triển vọng, song trình độ và khả
năng khai thác phát triển kinh tế biển ở nước ta còn hết sức thấp kém chưa tương xứng
với tiềm năng của nó.
Việt Nam nằm ở ven bờ biển Đông với vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng
1 triệu km
2
, có trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ, phân bố tập trung ở ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ
(Quảng Ninh - Hải Phòng) và hai quần đảo ngoài khơi là Trường sa và Hoàng sa. Nhiều
đảo có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế và dịch vụ cho các hoạt động khai thác
biển xa cũng như các đảo, nhiều khu vực bờ biển nước ta có vị trí địa lý quan trọng cho

việc xây dựng các khu công nghiệp ven biển, trong đó đặc biệt là có điều kiện về tự nhiên
rất thuận lợi cho việc xây dựng phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu
biển phát triển. Từ trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH các ngành công nghiệp biển và du
lịch biển cũng như an ninh quốc phòng biển.
Các nguồn tài nguyên của biển Việt Nam được thể hiện như sau:
Các nguồn tài nguyên biển hết sức phong phú có khả năng khai thác lớn đóng vai
trò quan trọng cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó trước hết phải
kể đến dầu khí là một nguồn tài nguyên mũi nhọn có ưu thế nổi trội của Việt Nam. Ngoài
ra biển Việt Nam còn có khả năng nguồn lợi hải sản được đánh giá vào loại phong phú
trong khu vực có nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như: Tôm, Cua, Mực, Hải
Sâm, Rong Biển, riêng cá biển đã phát hiện hơn 2000 loài khác nhau, trong đó có trên
100 loài có giá trị kinh tế cao. Dọc ven biển có trên 37 vạn hecta mặt nước có khả năng
nuôi trồng thuỷ sản nước mặn-lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như Tôm, Cua,
Rong câu, Bên cạnh đó, biển nước ta còn có các loại tài nguyên khoáng sản quan trọng
có tiềm năng khác (ngoài dầu khí) như: than, sắt, titan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu
xây dựng khác để phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoa, hiện đại hóa.
Biển nước ta có vị trí hết sức quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế hướng ra biển và hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam nằm ở rìa biển Đông, án ngự trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết
mạch thông thường giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận
Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Biển Đông đóng vai trò là
chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng; là điều kiện rất thuận lợi để Việt Nam giao lưu kinh
tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Biển Việt Nam kéo dài với
nhiều eo vịnh có khả năng phát triển hệ thống cảng biển và vận tải biển.
Hiện dọc bờ biển Việt Nam đã có khoảng gần 90 cảng biển, trong đó nhiều khu vực có
thể xây dựng các cảng lớn nước sâu như cảng Cái Lân và một số ở khu vực vịnh Hạ
Long, Nghi Sơn, Hòn La-Vũng áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn PhongCam
Ranh, Vũng Tàu Chúng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp
biển đặc biệt trong ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thủy.

Biển Việt Nam còn chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch có ưu thế đặc biệt, mở ra
triển vọng khai thác tổng hợp để phát triển mạnh kinh tế biển. Hiện chúng ta có 3000 hòn
đảo lớn nhỏ đã xác định khoảng 125 bải biển lớn và nhỏ thuận lợi cho phát triển du lịch,
có dung lượng chứa khách cùng một lúc đến vài trăm ngàn người; trong đó có 20 bãi biển
đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế đã có thương hiệu trên thế giới. Các bãi biển Việt Nam
nhìn chung là bằng phẳng nứơc trong sóng gió vừa phải, không có các ổ xoáy và cá dữ
rất thích hợp cho tắm biển và vui chơi giải trí trên biển. Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh
quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá - xã hội của biển, vùng ven biển và các hải đảo đã
tạo cho du lịch biển Việt Nam có lợi thế phát triển mạnh mẽ. Hiện trên 75% khách nước

×