Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

quy trình sản xuất mỡ nhờn từ nhớt thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.06 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 5
1.1. Dầu Thải 5
1.1.1. Ưu Điểm Của Dầu Thải 5
1.1.2. Nhược điểm 5
1.2. MỠ NHỜN: 5
1.2.1.Định nghĩa: 5
1.2.2.Thành Phần Của Mỡ: 5
1.3. Phân Loại 11
1.3.1 Phân Loại Mỡ Nhờn Theo Chất Làm Đặc 11
1.3.2 Phân Loại Mỡ Nhờn Theo Công Dụng 13
1.3.3. Phân Loại Mỡ Theo NLGI 15
1.4. Công Dụng Của Mỡ Nhờn 17
1.4.1 Tác Dụng Bôi Trơn Bề Mặt Chi Tiết 17
1.4.2.Tác Dụng Bảo Vệ Bề Mặt Chi Tiết 17
1.4.3 Tác Dụng Làm Kín Các Mối Lắp Ghép : 18
1.5. Ảnh Hưởng Của Chất Làm Đặc 18
1.5.1 Ảnh Hưởng Của Chất Làm Đặc 18
1.5.2. Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Khác 19
1.6. Các Chỉ Tiêu Chất Lượng Của Mỡ Nhờn 20
1.6.1 Tính ổn Định Toàn Diện Của Mỡ Nhờn 20
1.6.2. Xác Định Kiềm Tự Do Và Acid Hữu Cơ Tự Do (TBN và TAN) 22
1.6.3 Độ Sạch Của Mỡ Nhờn 23
1.6.4.Một Số Tính Năng Sử Dụng Khác Như Mỡ Nhờn 24
CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH THIẾT BỊ 27
2.1 Mô Hình Thiết Bị 27
2.2 Nguyên Tắc Hoạt Động 28
2.2.1.Các Thông Số Chính Khi Sử Dụng Thiết bị: 28
2.2.2.Hoạt Động: 29
2.2.3. Một Số Vấn Đề Cần Chú Ý Khi Vận Hành Thiết Bị 29


CHƯƠNG 3. BÀI THÍ NGHIỆM 30
3.1.Ý Nghĩa Mỡ Nhờn 30
3.2. Dụng Cụ Thí Nghiệm 31
3.3. Quy Trình 32
3.4. Báo Cáo Kết Quả 34
3.4.1 Nhận Xét 34
3.4.2 Hiệu Xuất Của Quá Trình 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
1
MỞ ĐẦU
Dầu mỡ nhờn có tầm quan trọng rất lớn trong cuộc sống. Nó có ứng dụng trong việc
bôi trơn các chi tiết chuyển động, giảm ma sát, giảm mài mòn, ăn mòn các chi tiết …Dầu
bôi trơn được ứng dụng với số lượng lớn, phạm vi sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên nó còn bị
hạn chế trong một số điều kiện làm việc như bôi trơn các ổ trục có nhiệt độ rất cao , vị trí
chịu tải lớn …Tại các vị trí này người ta thay thế dầu bôi trơn bằng mỡ bôi trơn .Ngay nay
mỡ bôi trơn cũng được sử dụng với số lượng tương đối lớn , nó bổ sung thêm những tính
chất, tác dụng mà dầu bôi trơn không có. Có nhiều nguồn nguyên liệu và phương pháp để
sản xuất các loại mỡ bôi trơn với các công dụng khác nhau.
Sản xuất mỡ bôi trơn từ nhớt thải là một quy trình mới mẻ chưa được sử dụng rộng rãi
.Trong thực tế quy trình này mới được làm thủ công . Nhớt sau một thời gian sử dụng bị
biến tính, giảm chất lượng và được thải ra .Lượng nhớt thải ra là rất lớn nếu không sử lý sẽ
ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường , nó cũng được sử dụng trong một số công việc khác
,tuy nhiên hiệu quả chưa cao . Để tân dụng lượng nhớt này người ta nghiên cứu và đưa ra
quy trình sản xuất mỡ nhờn từ nhớt thải. Tuy mỡ được sản xuất từ nhớt thải chất lượng
chưa cao nhưng nó cũng góp phần đem lại nhiều lợi nhuận và tác dụng khác.
Sau một thời gian tìm hiểu,nghiên cứu quy trình và được sự hướng dẫn của các thầy
cô chúng em đã hoàn thành và hiểu biết thêm về quy trình này.Do thời gian có hạn, chưa
được cọ sát với thực tế ,kiến thức còn hạn chế ,đây lại là một quy trình mới mẻ, nguyên
liệu và một số hóa chất cần thiết chưa đầy đủ nên quy trình và sản phẩm chúng em làm ra
còn nhiều sai sót và chất lượng chưa cao.

Chúng em rất mong được sự chỉ dẫn thêm và ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn!
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Nhóm sinh viên thực hành
2
NHẬN XÉT
(Của giảng viên hướng dẫn)





























3
NHẬN XÉT
(Của giảng viên phản biện hoặc bộ môn)





























4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Dầu Thải
1.1.1. Ưu Điểm Của Dầu Thải.
Nhiệt độ cháy lớn, gần với nhiệt năng của mazut lò đốt (FO). Do đó có thể thay thế
hoàn toàn dầu mazut trong các lò đốt trên xà lang, tàu thủy hay trong các lò nung, vật liệu
xây dựng, lò thổi thủy tinh thô sơ…
Điểm đông đặc thấp vì đã loại bỏ gần hết các parafin rắn có nhiệt độ đông đặc cao.
Nhờ đặc điểm này, dầu thải để đốt thì việc bơm hút dễ dàng, tốn ít năng lượng.
Hàm lượng S thấp hơn nhiều so với các loại mazut thượng phẩm, thường chi cho vào
khoảng 0.4-0.8%, trong khi nhiên liệu chỉ cho phép 3%. Như vậy nếu dùng dầu thải đốt lò
sẽ giảm sự ô nhiễm, giảm tác hại ăn mòn rất nhiều.
1.1.2. Nhược điểm.
Trong dầu thải có lẫn một lượng nhiên liệu và nước, do đó không thể sử dụng an toàn
nếu không qua sử lí (vì điểm chớp cháy của dầu quá thấp).
Chứa các tạp chất kim loại, đáng chú ý nhất là chì.
Hàm lượng tro quá cao chiếm khoảng 0.8-1.5% trong khi dầu mazut thượng phẩm tối
đa chỉ có 0.15-035%, vì thế nếu đốt bằng dầu thải sẽ tạo nhiều tro gây bẩn lò.
Hàm lượng cặn cứng quá cao 4-7%
Trong giải pháp nhiên liệu, có thể xem một tấn dầu thải ( đã gạn lắng và tách nước )
cho phép tiết kiệm 0.90-0.950 tấn dầu thô (hiệu suất này tùy thuộc hàm lượng các chất cặn
bẩn có trong dầu thải ) các lò đốt loại cũ có thể sử dụng được nếu pha thêm vào dầu thải
một lượng mazut (FO). Đối với lò đốt loại mới, muốn sử dụng dầu thải, phải thiết kế thêm
một vài bộ phận phụ trợ như: bộ gom tro, bộ phận làm chì bay hơi…
1.2. MỠ NHỜN:

1.2.1.Định nghĩa:
Mỡ bôi trơn là loại sản phẩm có nhiều dạng từ rắn cho đến bán lỏng do sự phân bố
của các tác nhân làm đặc chất bôi trơn dạng dung dịch và các thành phần khác được đưa
vào để tạo nên các đặc tính của mỡ.
1.2.2.Thành Phần Của Mỡ:
1.2.2.1.Thể Lỏng Làm Nhờn:
Thể lỏng làm nhờn hay còn gọi là thành phần chủ yếu của mỡ (70-90%), nó có ảnh
hưởng đến tính bôi trơn,làm nhờn của mỡ.
5
Đa số các loại mỡ có pha lỏng được chế luyện từ các loại dầu nhơn gốc dầu mỏ. Tuy
vậy ,trong một số trường hợp với mục đích nâng cao chất lượng mỡ, người ta thường sử
dụng các loại dầu tổng hợp để chế luyện mỡ.
Các loại dầu nhờn gốc dầu mỏ thường được sử dụng để sản xuất các loại mỡ thông
thường. dầu nhờn có độ nhớt nhỏ được sử dụng để sản xuất mỡ sử dụng cho các chi tiết ma
sát làm việc ở nhiệt độ thấp, vòng quay lớn tải trọng nhỏ. Trong trường hợp ngược lại
người ta dùng dầu nhờn có độ nhớt cao. Dầu nhờn có độ nhớt trung bình được dùng sản
xuất mỡ thông dụng, sử dụng ở điều kiện phổ biến bình thường nhất, những loại mỡ dùng
ở nơi có nhiệt độ cao trên 200
0
C chỉ có thể sản xuất được khi dùng dầu nhờn tổng hợp.
Trong thực tế, công nghệ hóa dầu không sản xuất dầu nhờn chuyên dụng cho mục đích pha
trộn sản xuất mỡ. Vì thế khi sản xuất mỡ người ta thường lấy dầu nhờn thương phẩm được
sản xuất với mục đích khác nhau: dầu biến thế, dầu công nghiệp, dầu truyền động…
Khi cần sản xuất một số loại mỡ có tính trơ khi tiếp xúc với các sản phẩm từ dầu mỏ
như xăng, nhiên liệu diesel, nhiên liệu phản lực, các loại dầu nhờn…Người ta phải sử dụng
dầu nhờn có nguồn gốc từ động vật, thực vật để làm pha lỏng như dầu bông, dầu thầu dầu,
dầu hướng dương, dầu dừa…Loại mỡ này không tan vào các hydrocacbon nên có tên gọi
chung là mỡ chịu xăng.
Khi sản xuất các loại mỡ trơ với các môi trường có tính hóa học cao, ăn mòn hoặc
phá hủy mạnh như acid, kiềm, muối vô cơ…phải dùng các hợp chất lỏng của flo, clo có

tính bền vững hóa học rất cao. Thành phần, các tính chất và chất lượng của các loại dầu
nhờn dùng dể sản xuất mỡ phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đề ra cho các loại dầu nhờn
cùng công dụng được sử dụng trực tiếp cho các máy móc và các loại thiết bị kỹ thuật.
1.2.2.2 Chất Làm Đặc:
Chất làm đặc hay còn gọi là pha rắn, pha phân tán chiếm hàm lượng từ 20-25%. Chất
làm đặc ở trong mỡ tạo thành khung có cấu trúc không gian. Khung này được làm thấm
ướt bởi pha lỏng là dầu nhờn chính nó làm nên các tính dẻo của mỡ. Dầu nhờn lấp đầy các
khoảng rỗng, khe hở hoặc chỗ trống trong khung cấu trúc không gian của chất làm đặc và
bị giữ lại tại đó được giữ lại nhờ lực hút mao dẫn. Cấu trúc của mỡ có 2 loại: cấu trúc thô
và cấu trúc tinh. Mỡ có cấu trúc xuyên suốt toàn bộ độ dầy của mỡ, cấu trúc này chính là
cấu trúc của các phân tử nhỏ nhất của chất làm đặc tạo nên. Do có tác động cơ học từ bên
ngoài như lọc, khử bọt, khuấy trộn… làm cho thể khối của mỡ bị phá vỡ, tạo ra cấu trúc
thô. Các hạt đơn lẻ hay các sợ mỡ trong cấu trúc thô có thể nhìn thấy bằng mắt thường hay
khi phóng đại lên một chút. Chính vì thế cấu trúc thô của mỡ tạo ra hình dạng bên ngoài
của mỡ. Cấu trúc thô của mỡ có 3 dạng: dạng hạt, dạng xơ và dạng trơn. Cấu trúc của mỡ
phụ thuộc vào thành phần, công nghệ sản xuất và gia công cơ học của mỡ. Bản chất tự
nhiên của chất làm đặc đóng vai trò chính trong quá trình hình thành cấu trúc mỡ. Tuy vậy
6
không thể bỏ qua vai trò của thành phần hóa học và các tính chất của dầu nhờn, căn cứ vào
chất làm đặc người ta phân ra các loại mỡ sau: mỡ xà phòng, mỡ hydrocacbon, mỡ vô cơ
và mỡ hữu cơ.
Phần lớn mỡ đang sử dụng hiên nay là mỡ xà phòng( chiếm 80-90% số lượng mỡ
đang sử dụng). Loại mỡ này dùng xà phòng để làm đặc dầu nhờn. Xà phòng là muối của
acid béo bậc cao với các kim loại, để sản xuất xà phòng người ta lấy acid béo của mỡ tự
nhiên, các loại acid tổng hợp, các acid béo đơn lẻ được làm sạch, có từ 12-20 nguyên tử
cacbon trong mỗi phân tử, acid có lợi nhất là loại mỗi phân tử có từ 16-18 nguyên tử
cacbon, xà phòng là sản phẩm của phản ứng hóa học và xà phòng hóa giữa hydroxit kim
loại với các acid béo tạo ra xà phòng và nước hoặc giữa hydroxít kim loại với
glyxerin( thành phần chính của dầu thực vật và mỡ động vật).
nRCOOH + Me(OH)

n
→ (RCOO)
n
Me + nH
2
O
trong đó: R là gốc hydrocacbon
Me là cation kim loại
Ví dụ : xà phòng natri
C
17
H
35
OOH + NaOH → C
17
H
35
COONa + H
2
O
Nếu mỡ dùng xà phòng được sản xuất từ dầu mỡ tự nhiên thì được gọi là mỡ béo, nếu
dùng xà phòng sản xuất bằng phương pháp tổng hợp thì gọi là mỡ tổng hợp.
Nguyên tử kim loại trong phân tử xà phòng có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của xà
phòng và của mỡ ,nên người ta gọi tên mỡ theo tên kim loại có trong xà phòng. Thường
gặp nhất là mỡ canxi,natri,canxi-natri,bari,nhôm,ở mức độ ít hơn còn có mỡ chì,bạc
,kem.Ngày này người ta còn dùng xà phòng phức để làm đặc dầu nhờn,xà phòng dùng để
sản xuất mỡ phần lớn được điều chế từ acid béo tổng hợp. Đó là sản phẩm của quá trình
oxi hóa hdrocacbon thuộc dãy đồng đẳng ankan(parapin).acid béo tổng hợp để sản xuất mỡ
sẽ tiết kiệm được các loại dầu thực vật,mỡ động vật quý hiếm và đắt tiền.
Mỡ dùng xà phòng của acid béo tổng hợp có phẩm chất thường kém hơn mỡ béo về

tính chất nhớt-nhiệt,tính bôi trơn,dễ loãng,dễ rửa vì giới hạn bền thấp,khi gặp lạnh sẽ bị
đông cứng,thời gian dừng nghỉ khi đang sử dụng mỡ kéo dài dẽ làm cho mỡ biến chất
hơn.nguyên nhân của những nhược điểm trên la do quá trình sản xuất ra acid béo tổng hợp
còn lẫn nhiều tạp chất không có lợi như ankan chưa bị oxy hóa,acid béo bậc thấp,acid vô
cơ có nhiều sản phẩm không được oxy hóa khác,nếu được làm sạch tốt,tuyển chọn tốt và
được nhiệt luyện tốt thì mỡ tổng hợp sẽ không thua kém mỡ béo về mặt chất lượng.
Trong các loại dầu tự nhiên thương hay dùng nhất để sản xuất mỡ là dầu bông,dầu
thầu dầu,dầu lanh,mỡ hóa học và mỡ công nghiệp.Để sản xuất mỡ có chất lượng
7
cao(chiếm khoảng 1.5%)người ta dùng xà phòng của acid đơn lẻ như acid
sterit(C
17
H
35
COOH),acid oleic(CH
3
-(CH
2
)
7
-CH=CH-(CH
2
)
7
-COOH).
Xà phòng là hợp chất tan không tốt trong dầu khoáng. ở điều kiện bình thường hoặc ờ
nhiệt độ cao hơn,một phần lớn xà phòng trong mỡ đều ở dạng keo hoặc ở dạng phân tán
thô.do đó chỉ với hàm lượng xà phòng không nhiều (khoảng 10%) đã có thể tạo ra mỡ có
các tính chất điển hình của các chất dẻo.
Trong số các loại mỡ xà phòng được sử dụng nhiều nhất hiện nay phải kể đến mỡ

canxi. Đây là loại mỡ đại trà lâu đời và rẻ tiền nhất,mỡ canxi tổng hợp được sản xuất từ xà
phòng canxi của acid béo tổng hợp.mỡ canxi béo được sản xuất từ xà phòng canxi của dầu
thô hoặc mỡ hóa học.trong thành phần của mỡ canxi nhất thiết phải có nước,vì nước tham
gia tạo tinh thể hydrat của xà phòng canxi,chất có khả năng làm cao. Do đó, loại mỡ này
còn có tên gọi là mỡ hydrat hóa .như vậy, nước trong mỡ canxi tạo ra cấu trúc không gian
của mỡ. nếu loại hết nước thì sẽ phá vỡ cấu trúc của mỡ, làm mỡ tự phân rã thành dầu
nhờn và xà phòng.ở đây nước đóng vai trò là chất phụ gia ổn định thể keo của mỡ canxi.
Nếu hàm lượng nước dưới 0.5% thì mỡ có hiện tượng phân rã, còn nếu hàm lượng nước
tới 5%,tuy cao hơn mức quy định, nhưng thực tế chưa gây ảnh hưởng gì tới các tính chất
sử dụng của mỡ, hàm lượng nước trong mỡ thích hợp nhất là từ 1-3%. Mỡ canxi có ưu
điểm: giá thành thấp, tính chống xước và chống mài mòn cao, bảo vệ kim loại tốt, thể keo
tương đối ổn định, mức chịu nước đáp ứng nhu cầu theo yêu cầu đảm bảo cho việc sử
dụng đại trà. Nhược điểm của mỡ canxi là nhiệt độ nóng chảy thấp nên phạm vi sử dụng
của nó bị hạn chế. ở 100
o
C mỡ bị mất nước nên khung cấu trúc không gian bắt đầu bị phá
hủy và mỡ bắt đầu phân rã dần. nhiệt độ càng cao tốc độ phân rã cang nhanh,nhiệt độ được
phép sử dụng từ 30-70
o
C. Mỡ canxi có tính ổn định cơ học thấp khi bảo quản trong
kho,trong bao bi hay ở trạng thái tra nạp mà các cơ cấu tạm dừng làm việc trong thời gian
dài. Mỡ canxi chủ yếu dùng làm mỡ chống ma sát,ngoài ra còn được dùng làm mỡ bảo
quản tương đối tốt vì chịu được nước,mưa gió, hơi ẩm và ánh sáng nhưng với điều kiện
môi trường không quá 50
o
C.
Mỡ canxi phức hợp khác với mỡ canxi thường là đã khắc phục được những nhược
điểm của mỡ canxi thương. Mỡ canxi phức hợp được sản xuất từ canxi xà phòng phức hợp
của acid béo bậc cao và acid béo bậc thấp(stearic,acetic).Mỡ canxi phức hợp không tan
trong nước, có tính ổn định cơ học cao.Tuy vậy mỡ canxi phức hợp còn có nhược điểm là

trong mỡ thường xuất hiện và tích tụ các sản phẩm có tính acid.
Mỡ natri gồm có mỡ béo và mỡ tổng hợp .Trong thành phần cấu trúc của mỡ không
cần có nước,hàm lượng nước có trong mỡ cần được hạn chế hoặc không có, để tránh tác
hại do nước gây ra .Độ tan của natri trong nước tương đối cao ,nên chúng không được sử
dụng ở những vị trí chịu tác động của nước. mỡ natri có khả năng hấp thụ hơi ẩm,khi đó sẽ
8
giảm hàng loại các tính chất quan trọng như:giới hạn bền , tính ổn định cơ học , nhiệt độ
nhỏ giọt . Nếu mỡ tương tác với một lượng nước vừa phải thì sẽ tạo với nước thể nhũ
tương,có thể bảo vệ bề mặt được bôi trơn chống tác nhân ăn mòn tốt hơn mỡ canxi. Mỡ
canxi có tính ổn đinh cao với nhiệt độ nhỏ giọt trên 103
o
C,nhiệt độ sử dụng hữu hiệu nhất
đối với mỡ natrio từ 20 đến 110
o
C.
Mỡ canxi –natri là mỡ xà phòng phức hợp canxi-natri ,nó bao gôm cả hai tính chất
của hai loại mỡ kiểu trên.Nó được sử dụng ở nhiệt độ <100
o
C,ít nhạy cảm với nước và độ
ẩm so với natri. Tuy vậy loại mỡ này vẫn là loại tan tốt trong nước và thường được sử
dụng ở những nơi có tốc độ vòng quay lớn.
Mỡ liti được sản xuất nhiều do nhiệt độ nhỏ giọt cao ,it tan trong nước ,từ xà phòng
liti người ta sử dụng các loại mỡ dùng ở nhiệt độ thấp đến các loại mỡ dùng ở nhiệt độ
cao .Khoảng nhiệt độ mà mỡ liti được phép sử dụng là từ -60
o
C đến 140
o
C ,mỡ liti có tính
ổn định cơ học và tính ổn định keo tốt.
Mỡ xa phòng nhôm được sản xuất ít hơn các loại mỡ trên,chúng được sản xuất từ xà

phòng nhôm của acid stearic và ôleic với dầu nhờn có độ nhớt cao,đây là loại mỡ chịu
nước ,bám dính tốt,tính ổn định cơ học cao song tính chịu nhiệt kém.Do vậy dùng để bảo
vệ các bề mặt thường xuyên có tiếp xúc với môi trường có độ ẩm cao hoặc nước.
Mỡ bari có tính chất tương tự như mỡ liti nhưng độ trội hơn về mặt chịu nước ,chịu
nhiệt . Loại mỡ này dùng để bôi trơn các thiết bị tàu ngầm.
Mỡ chì có khả năng chịu tải trong cao.Thông thường, mỡ chì không chỉ sử dùng riêng
cho xà phòng chì làm pha rắn mà kết hợp với các loại xà phòng khác hoặc là với các
hydrocacbon,hay gặp hơn là mỡ chì xerezin và mỡ chì natri.
Mỡ gốc sáp là loại mỡ dùng cho các hợp chất hydrocacbon rắn làm pha của mỡ la
xerezin,parafin và hỗn hợp của chúng. Là loại mỡ có khả năng chịu nước và bảo vệ
tốt,nhược điểm của mỡ này là khả năng chịu nhiệt và chịu xăng kém. Mỡ gốc sáp chiếm
khoảng 10% lượng mỡ nói chung.
Mỡ hữu cơ với chất làm đặc là hợp chất hữu cơ của flo , clo , các loại polyme,
polyuretan, các dẫn suất ure , este phức hợp…loạimỡ này được sản xuất với khối lượng
không nhiều, chỉ để dung những trường hợp đặc biệt như nhiệt độ cao ,nhiẹt độ thất và môi
trường ăn mòn mạnh … hoặc cần phải có nhưỡng tính chất đặc biệt nhưng không phá hủy
các chất kết cấu , có tính nhớt ,nhiệt độ đặc biệt cao…
Mỡ vô cơ dùng chất làm đặc là các đơn chất hoặc hợp chất vô cơ như
silicagen,disulfit molipdat,tham grafit,đất sét chúng để sản xuất mỡ có tính chất đặc biệt
mà xà phòng và mỡ hydrocacbon không thể có được. các loại mỡ này có tính chất rất tốt
9
như có khả năng chịu nhiệt lên tới 600
0
C. tuy nhiên giá thành của loại mỡ này còn rất
cao(đắt hơn các loại mỡ thông thường hàng trăm lần).
1.2.2.3. Chất Pha Thêm:
Mỡ với 2 thành phần chính: chất làm đặc và dầu nhờn, chưa thể đáp ứng đủ về yêu
cầu các tính chất sử dụng, nên ngoài 2 thành phần này người ta còn cho têm vào mỡ các
chất có tính chất đặc biệt khác. Thành phần chủ yếu của các chất cho thêm này rất khác
nhau, có trường hợp chiếm tới 15% khối lượng của mỡ, các chất thêm có tác dụng làm cho

cấu trúc của mỡ tốt hơn, làm tăng cường có chọn lọc những tính chất sử dụng quan trọng
của mỡ như: tăng các tính chất ổn định nhiệt, ổn định hóa học, ổn định keo, tinh năng bôi
trơn, tăng độ bám dính, tăng khả năng làm kín và nhiều tính chất khác tùy thuộc vào điều
kiện sử dụng.
Chất ức chế Đặc điểm
Diphenylamine Rẻ tiền
Phenyl-alpha-napthylamine Dùng ở nhiệt độ thấp
Dioctyldiphenylamine Chiếm 0,5-2% ở 200-260
o
C trong
mỡ gốc dầu silicone hoặc diester
Phenothiazine Dùng ở nhiệt độ trên 150
o
C
Polymerictrimethylldihydroquinoline Dùng ở nhiệt độ cao cho dầu tổng
hợp hoặc dầu khoáng
2,6-di-tert-butyl-r-methylphenol Dùng ở nhiệt độ dưới 120
o
C
Dilauryl thiodipropionate citric,ascorbic
acids
Dùng trong nghành thực phẩm
Bảng 1.1 Đặc Điểm Của Chất ức Chế
Tính năng % khối lượng Chất phụ gia
10
Chịu áp suất cao 2-10 Dibezyl disulphide
với chlorinated parafins
Độ bền màng 0,1-5 di-isopropyl hoặc
dilauryl hydrogen
Chống rỉ 0,5-5 Sodium petroleum

sulphonates, barium
dinonylnapthalene
sulphonate
Khử hoạt tính đồng 0,05-1 2-
mercaptobenzothiazole
Cải thiện độ nhớt 0,1-1 Polymethacrylates
Chống tạo tủa 0,001 Dầu silicone
Tạo dính 0,5-2 Polymers
Chống mài mòn 0,1-2 Tricresyl phosphate,
zinc
dialkyldithiophosphate
Tính kỵ nước 0,1-2 Oleic
Tạo màu 0,05-0,5 Perfumes
Bảo vệ mài mòn 0,5-3 Nonylphenoxyacetic
acid, ethylene-diamine
sulphonate, barium
sulphonate
Bảng 1.2 tính năng của một số phụ gia
1.3. Phân Loại.
1.3.1 Phân Loại Mỡ Nhờn Theo Chất Làm Đặc.
1.3.1.1 Mỡ Nhờn Gốc Xà Phòng.
Nhóm mỡ này có chất làm đặc là các loại xà phòng. Xà phòng dùng trong mỡ là muối
của các acid béo(có mạch cacbon thích hợp al2 từ C
12
-C
18
) với các kim loại như
Na,Ca,Al,Li có công thức tổng quát là: (RCOO)
X
Me

RCOO
-
: là gốc của acid béo ví dụ như: C
17
H
35
COO
-
của acid stearic C
17
H
35
COOH,
gốc C
15
H
31
COO
-
của acid palmitic C
15
H
31
COOH.
Me
+x
: ion kim loại ví dụ như: Na
+
,Li
+

,Ca
2+

11
x: là hóa trị của kim loại bằng 1,2 hoặc 3
các loại xà phòng sau đây thường được dùng trong công nghiệp chế biến mỡ nhờn:
a)xà phòng của kim loại kiềm(Li,Na,K), trong đó sử dụng phổ biến nhất là mỡ nhờn
gốc xà phòng liti,ít sử dụng nhất là mỡ nhờn gốc xà phòng kali,mỡ xà phòng gốc Na có
nhiệt độ nóng chảy cao,chịu được nhiệt nhưng kém chịu nước .Ngay nay thay thế bằng mỡ
gốc xà phòng Li vừa chịu nhiệt vừa chịu nước.
b)xà phòng của kim loại kiềm thổ (Mg,Ca,Ba ) Mỡ xà phòng gốc Ca có nhiệt độ
nóng chảy trung bình ,kém chịu nhiệt nhưng chịu nước tốt.
c) xà phòng các kim loại khác (zn, al,pb ).mỡ gốc xà phòng nhôm có tính chịu nước
kể cả nước mặn.
d) xà phòng hỗn hợp của hai kim loại như mỡ nhờn xà phòng g ốc canxi-natri,mỡ
nhờn xà phòng gốc liti và canxi.
Đồng thời nngười ta còn phân biệt mỡ nhờn gốc xà phòng thông thường và mỡ nhờn
xà phòng phức.
1.3.1.2 Mỡ Nhờ Gốc Sáp(Hydrocacbon rắn).
Nhóm mỡ này có tính chất làm đặc hydrocacbon rắn có nhiệt độ nóng chảy cao như
parafin,serezin,perolatom,ozokerit,các loại mỡ sáp tự nhiên hoặc mỡ sáp tổng hợp khác
nhau. Sáp dùng trong mỡ chia làm hai loại:
a) loại thạch lạp( parafin rắn ) có nhiệt độ nóng chảy thấp
b) loại địa lạp (ozokerit ) có nhiệt độ nóng chảy cao hơn
Mỡ gốc sáp có tính ổn định tốt nên thường được dùng mỡ bảo quản. Ví dụ mỡ pháo
là sản phẩm của Liên Xô (cũ),được sản xuất nhờ cách làm đặc dầu khoáng bằng
petrolatum(60-70%) và xerizin(5%) có chứa 0.2% NaOH,nhiệt độ nhỏ giọt không dưới
50
o
C.

1.3.1.3 Mỡ Nhờn Gốc Vô Cơ.
Nhóm này có chất Làm đặc là chất vô cơ có độ phân tán cao. Phụ thuộc vào việc sử
dụng loại chất làm đặc vô cơ nào người ta phân ra các loại mỡ như mỡ nhờn silicagen,mỡ
nhờn đất set, mỡ nhờn bent/onit, mỡ graphit Loại mỡ này không bị nóng chảy ,có độ ổn
định cao,thường làm mỡ bôi trơn chuyên dụng trong một số nghành công nghiệp như hóa
chất ,xi măng , sành sứ ,sắt thép có nhiệt độ làm việc lên tới 200
o
C.
1.3.1.4 Mỡ nhờn gốc hữu cơ.
Nhóm mỡ này có chất làm đặc là các chất hữu cơ rắn, có bề mặt riêng khá lớn, chịu
được nhiệt độ cao và kháng nước tốt. Trong nhóm này nhiều loại mỡ có thành phẩm là dầu
khoáng hoặc dầu tổng hợp với các chất làm đặc khác nhau :
12
Mỡ trùng hơp có tính chất làm đặc Là polyme như polyetylen ,polyprolylen
,polytrifroetylen
a)mỡ ureat có chất làm đặc là các dẫn xuất ankyl,axyl,arylvà ure,có khả năng làm việt
trong khoảng nhiệt độ khá rộng từ-70đến 200
0
C
b) mỡ ureit có chất làm đặc là ureit ,sản phẩm tương tác giữa các polyizoxyanat
vớicác amin của acid abietc
c)mỡ bột màu có chất làm đặc là bột màu như phtalxyamin ,indrantren
,izovilantron loại mỡ nay có tính ổn định cao ,rất chịu nhiệt có khả năng làm việc trong
khoảng 250-300
0
C có khi lên tới 500
0
C .ngoài ra còn có mỡ bitum ,mỡ bồ hóng
1.3.2 Phân Loại Mỡ Nhờn Theo Công Dụng
1.3.2.1 Thành Phân Loại GOST23258 Của LIÊN XÔ (cũ)

Dựa vào công dụng , có thể chia các loại mỡ nhờn thành bốn nhóm sau :
a) Mỡ bôi trơn chủ yếu nhằm chống ma sát, bổ sung cho chức năng dầu bôi trơn, mỡ
dùng bôi trơn ở nững chi tiết máy mà dầu bôi trơn ở thể lỏng không thể thực hiện được
chức năng bôi trơn.
b) Mỡ bảo quản với chức năng chủ yếu là bảo vệ bề mặt kim loại của trang thiết bị,
máy móc chống tác dụng của không khí,nước, các chất ăn mòn Để bề mặt không bị han
rỉ, hư hại, mỡ này còn có tên là mỡ bảo vệ, có các loại mỡ bảo quản lỏng, mỡ bảo quản
dẻo
c) Mỡ làm kín với chức năng làm kín các khớp nối ren của các đường ống dẫn, các
cụm nắp bít, đệm lót và các chỗ nối của các hệ thống bơm và máy móc, thiết bị Có các
loại mỡ làm kín khớp nối ren, mỡ làm kín máy bơm, mỡ chân không
d) Mỡ cáp là mỡ chuyên dùng cho việc chống ăn mòn và mài mòn của các hệ thống
cáp như: cáp mỏ, cáp khoan, cáp cần cẩu, thang máy và các loại máy nâng. Có các loại cáp
điện dùng bôi trơn các tấm ốp tiếp xúc và các mối nối ray nhằm bảo đảm độ đẫn điện ổn
định của mối nối, loại mỡ cáp thép có kha năng làm việc trong khoảng nhiệt độ từ -30 đến
40
o
C dùng để bôi trơn cáp trong quá trình làm việc luôn tiếp xúc với nước của ngành vận
chuyển gỗ hay hàng hóa theo đường thủy.
1.3.2.2 Phân Loại Mỡ Nhờn Theo Công Dụng
Dựa theo khả năng sử dụng của các loại mỡ nhờn có thể phân biệt chúng thành hai
nhóm là mỡ nhờn theo công dụng và mỡ nhờn chuyên dùng:
a) Mỡ nhờn thông dụng là mỡ nhờn dùng ở hầu hết các loại xe máy với phạm vi
nhiệt dụ sử dụng từ 50-200
o
C. Chúng được phân biệt theo nhiệt độ nóng chảy,gôm ba phân
nhóm:
13
Mỡ nhờn nóng chảy thấp : các loại mỡ nhờn này có độ nhỏ giọt từ 40-70
o

C, dùng cho
các loại máy móc có nhiệt độ làm việc thấp, có các loại mỡ Chiatim 201,203,205 của Liên
Xô cũ.
Mỡ chiatim 201,203 có pha thêm phụ gia chống oxy hóa, chống mài món tương
đương với mỡ Aeroshell 6B (hãng shell) ,mỡ beacon P290(hãng Esso) dùng cho các thiết
bị công suất nhỏ ,nhiệt độ thấp.
Mỡ chiatim 205 có chất làm đặc là xerezin, dùng ở vòng đệm chắn dầu,mối nối ren
và các thiết bị dỡ hàng làm việc ở môi trường ăn mòn.
Mỡ nhờn nóng chảy trung bình :mỡ này có điểm nhỏ giọt từ 65-100
o
C, có thể dùng
khi nhiệt độ làm việc ở 80
o
C, thành phầm gồm dầu nhờn và xà phòng canxi.
ở nước ta trước đây thường dùng mỡ YC-2 có độ nhỏ giọt 75
o
C,độ xuyên kim ở 25
o
C
từ 230-290mm,thích hợp cho các vũ mỡ dưới gầm ôtô,các cutsinê ma sát nhẹ.Tương
đương với YC-2 có các nhãn hiệu
Hãng shell có mỡ Undergease2,Undergease3
Hãng BP có mỡ BP Grearse C2
Hãng Castrol có mỡ Castrol Heavy
Hãng dầu của Hunggary có mỡ 90
Ngoài YC2- còn có YCC-A (còn gọi là mỡ chì),vì có pha thêm 10% bột graphít nhằm
tăng thên tính bám dính và chịu lực có nhiệt độ nhỏ giọt là 77
o
C và độ xuyên kim ở 25
o

C là
250mm, mỡ này dùng ở líp xe,dây cáp phanh,bộ phân chuyển động máy kéo tương đương
có các nhãn hiệu:
Hãng shell có mỡ loại Barbaria2,3,4
Hãng dầu Hunggari có loại ZG-80
Mỡ nhờn có nhiệt độ nóng chảy cao
Nhóm mỡ này có nhiệt độ nhỏ giọt trên 100
o
C, co1 thành phần dầu nhờn và chất làm
đăcc5 là xà phòng natri (hoặc hỗn hợp natri-canxi). Loại mỡ này chịu nhiệt tốt,chịu nước
kém.
ở nước ta trước đây thường dùng 2 loại mỡ nhờn thuộc loại này là YT-2 và mỡ nhờn
BYT (mỡ 1-13), NK-50, mỡ YT-2 có nhiệt độ tối thiểu là 150
0
C, nhiệt độ sử dụng không
quá 130
0
C, dùng cho môtơ điện, ổ bi máy kéo và xe điện, không dùng ở nơi ẩm ướt, nhãn
hiệu tương đương:
- Hãng shell: mỡ Natrita-3
- Hãng esso: mỡ Andox-C
14
- Hãng dầu của Hungari: mỡ 100
Hiện nay mỡ có nhiệt độ nóng chảy cao chế biến chủ yếu từ xà phòng liti. Loại này
làm việc trong dãy nhiệt độ khá rộng từ -30 đến 150
0
C. ví dụ như các loại mỡ của các hãng
dầu:
- Hãng BP có BP Grease L, BP Energrease L21-M và L2-M, BP Energrease LS và
LS-EP

- Hãng Castrol có Castrol LM, Castrol Spheerol AP, Castrol Pheerol EPL, Castrol
MS-3
- Hãng Caltex có Starplex, Untra Duty Grease, Molytex Grease
- Công ty PVPDC có mỡ PV Grease MU-2 Lithium EP-2…
b) Mỡ nhờn chuyên dụng: là loại mỡ chỉ dùng cho bộ phận máy móc nào đó theo
đúng quy định của của nhà thiết kế và chế tạo máy mà không được thay thế rộng rãi bằng
các loại mỡ khác, thuộc nhóm mỡ này gồm có: mỡ hàng hải, mỡ đuòng sắt, mỡ công
nghiệp, mỡ động co máy bay… có những loại mỡ công nghiệp với chất làm đặc là khoáng
sét, bentonit, chất màu… không nóng chảy và rất bền vững, được dùng trong các loại máy
móc công nghiệp hóa chất, sành sứ, gạch ngói, xi măng, sắt thép với nhiệt độ làm việc lên
tới 200
0
C.
- Hãng BP có BP Energrease HTG-2, BP Grease BHT252
- Hãng Castrol Spheerol BN, Castrol Spheerol BSN
- Hãng Caltex CPS Thermarex EP…
1.3.3. Phân Loại Mỡ Theo NLGI
Viện dầu nhờn quốc gia Mỹ NLGI (Nation Lubribacating Grease Institute) phối
hợp với hiệp hội kỹ sư ôtô-SAE (Society of Automotive Engineers) và hiệp hội Hoa Kỳ-
ASTM (American Society for testing and Materials) đã phát triển hệ thống cho việc chỉ
định, mô tả, phân loại và đặc tính của mỡ dùng cho ôtô (xem bảng sau).
STT Cấp
NLGI
Độ xuyên kim
ASTM 25
0
C/0.1 ml
Dạng ngoài
(1) (2) (3) (4)
1 000 445-447 Nữa lỏng

2 00 400-430 Cực mềm
3 0 355-385 Rất mềm
4 1 310-340 Mềm
5 2 256-295 Mềm vừa
15
6 3 220-250 Rắn vừa
7 4 175-205 Rắn
8 5 130-160 Rất rắn
9 6 85-115 Cực rắn
1.3.3.1-Loại Phục Vụ Cho Khung Gầm
a) Cấp NLGI LA Cho Khung Gầm
điển hình cho những bộ phận của khung gầm và khớp cacđăng ở trong xe khách, xe
tải và một số xe khác chỉ dưới tải nhẹ, được dùng cho những loại xe ít thay mỡ trong
những ứng dụng không quan trọng. Như một chỉ số cấp phục vụ, điểm nhỏ giọt cho cấp
NLGI LA tối thiểu là 80
0
C. có những thử nghiệm khác xác định rõ hơn cấp này.
b)cấp NLGI LB cho khung gầm .
điển hình cho những bộ phận của khung gầm và khớp cacđăng ở trong xe khách, xe
tải và một số xe khác với tải nhẹ tới khắc nghiệt, mà được gặp trong những hoạt động dưới
những diều kiện mà có thể bao gồm những định kì thay mỡ kéo dài, hoặc tải cao, rung
động mạnh, để hở, nước và các chất nhiễm bẩn dễ xâm nhập vào. Như một chỉ số cấp phục
vụ, điểm nhỏ giọt cho cấp NLGI LB tối thiểu 150
0
C có những thử nghiệm khác xác định
rõ hơn cấp này.
1.3.3.2. Loại Phục Vụ Cho ổ Trục Bánh Xe
a) cấp NLGI GA chho ổ trục bánh xe NLGI trong xe khách, xe tải và một số xe khác
dưới tải nhẹ, gặp trong hoạt động của xe thay mỡ thường xuyên trong những ứng dụng
không quan trọng. Như một chỉ số cấp phục vụ, điểm nhỏ giọt cấp NLGI GA tối thiểu

phải là 80
0
C, có những thử nghiệm khác xác định rõ hơn cấp này.
b) cấp NLGI GB cho ổ trục bánh xe.điển hình cho hoạt động bạc đạn ổ trục bánh xe
ở trong xe khách, xe tải và một số loại xe khác dưới tải nhẹ tới trung bình, được gặp hầu
hết các xí nghiệp hoạt động trong thành phố bình thường, trên đường cao tốc và phục vụ
cho công trường, như một số cấp phục vụ, điểm nhỏ giọt cho cấp NLGI GB tối thiểu là
175
0
C, có những thử nghiệm khác xác định rõ hơn cấp này.
c)cấp NLGI GC cho ổ trục bánh xe.
điển hình cho hoạt động ổ trục bánh xe ở trong xe khách, xe tải và một số xe khác
dưới tải nhẹ tới khắc nghiệt, gặp trong một xe hoạt động dưới điều kiện đưa đến nhiệt độ
16
cao của bạc đạn. điều này bao gồm những hoạt động dưới chế độ dừng,chạy thường xuyên
hoặc dưới chế độ phanh khắc nghiệt, có những thử nghiệm khác xác định rõ hơn cấp này.
Bảng 1.3 đặc tính chủ yếu của các loại mỡ
1.4. Công Dụng Của Mỡ Nhờn
1.4.1 Tác Dụng Bôi Trơn Bề Mặt Chi Tiết
Cũng tương tự như dầu nhờn, mỡ tạo ra các bề mặt làm việc, nhờ đó mà làm giảm
được hệ số ma sát cũng như sự mài mòn.
Do có tính bám dính tốt,nên mỡ chủ yếu được sử dụng bôi trơn các bề mặt làm việc
với phụ tải lớn, nhiệt độ cao hoặc những nơi có tốc độ dịch chuyển giữa các bề mặt thấp
Tốt, hoặc ở những nơi làm việc sử dụng dầu nhờn không đảm bảo : các bề mặt hở, những
vị trí khó tiếp xúc…
Như vậy, tuy cũng là công cụ bôi trơn, làm nhờn song mỡ bôi trơn lại không trùng lặp
với công cụ bôi trơn, làm nhờn cửa dầu nhờn mà sự bổ sung cho công dụng bôi trơn, làm
nhờn của dầu.
1.4.2.Tác Dụng Bảo Vệ Bề Mặt Chi Tiết.
17

S
TT
Loại mỡ
(chất làm đặc)
đặc tính
Nhiệt độ sử
dụng cao
nhất (
0
C)
Nhiệt độ nhỏ
giọt thấp nhất
(
0
C)
Kết cấu
Khả năng
chịu nước
1
Xà phòng
Nhôm
82 >80(*) Nhẵn,mịn Tốt
2 Xà phòng Bari 107 188 Mịn Tốt
3
Xà phòng
Canci
77 82 Mịn Tốt
4
Xà phòng chức
Canci

150 260 Mịn Tốt
5 Xà phòng Liti 150 190 Nhẵn, sợi Khá đến tốt
6 Xà phòng Natri 120 170 - Xấu đến tốt
7 Vô cơ 120 Không chảy Mịn Tuyệt hảo
8 Hữu cơ 160 160 Nhẵn Tuyệt hảo
Việc sử dụng mỡ bôi trơn cho phép tạo ra trên các bề mặt làm việc một lớp màng bảo
vệ ngăn cách sự tác động của các tác nhân gây ăn mòn, oxy hóa
So với dầu nhờn, tính chất bảo vệ của mỡ tốt hơn. Do vậy nó thường xuyên được sử
dụng bôi trơn, bảo vệ các bề mặt tiếp xúc với môi trường có độ ẩm cao hoặc chứa các sản
phẩm khí ăn mòn.
1.4.3 Tác Dụng Làm Kín Các Mối Lắp Ghép :
Do có tính dính bám tốt, nên các mỡ có khả năng làm kín tốt hơn dầu nhờn, mỡ được
làm kín các khớp nối, ren…
Từ 3 công cụ trên trên của mỡ, khi so sánh với công cụ của dầu nhờn, người tat rút ra
các nét khác biệt sau :
Do hệ có thống lưu thông tuần hoàn nên mỡ không thực hiện được hai công cụ làm
sạch và làm mát.
Ba công cụ làm nhờn, làm kín và bảo vệ không trùng lặp với các công dụng của dấu
nhờn mà là sự bổ sung cho công dụng dầu nhờn
1.5. Ảnh Hưởng Của Chất Làm Đặc.
1.5.1 Ảnh Hưởng Của Chất Làm Đặc.
Chủ yếu xem xét chất làm đặc là xà phòng, vì nó là loại mỡ thông dụng nhất dùng bôi
trơn các động cơ xe máy, mỗi loại xà phòng có cấu trúc và tính chất riêng,do dó tính chất
mỡ chịu ảnh hưởng rất lớn của tính chất xà phòng làm đặc có trong mỡ.
1.5.1.1 Ảnh Hưởng Của Cation Xà Phòng.
Các cation xà phòng của cùng gốc acid béo có ảnh hưởng tới khả năng làm đặc, tính
chịu nước và tính nhiệt của mỡ.
Tính chịu nhiệt của mỡ nhờn khi xà phòng có cùng gốc là acid béo stearic, được sắp
xếp theo chiều hướng giảm dần với thứ tự các cation sau :
Li > Na > Ba > Ca > K > Zn > Pb

Tính chịu nước của mỡ được sắp xếp theo chiều hướng giảm dần của dãy sau:
Pb > Ca > Li > K > Na
Độ nhớt và ổn định cơ học của mỡ gốc xà phòng với các caton khác nhau có chiều
hướng thay đỗi như sau
Li > Na > K > Al
Chỉ có xà phòng các kim loại kiềm, nhôm, canxi, magiê, thủy ngân, niken mới có khả
năng tạo thành cấu trúc với dầu nhờn. Xà phòng với các kim loại Pb, Zn ít có khả năng tạo
18
mỡ do sự kết tinh xà phòng rất nhanh nên cấu trúc mỡ nhờn trong trường hợp này không
tạo thành như ý muốn.
1.5.1.2. Ảnh Hưởng Của Gốc Acid Béo.
Bản chất gốc acid béo trong xà phòng quyết định tới khả năng làm đặc, tính ổn định
hóa học, ổn định cấu trúc và ổn định nhiệt của mỡ nhờn.
Độ ổn định của cấu trúc mỡ nhờn phụ thuộc chủ yếu vào độ tan của xà phòng trong
dầu. Độ tan này phụ thuộc vào bản chất xà phòng và dầu nhờn hòa tan nó. Độ tan của xà
phòng trong dầu nhờn tăng theo chiều dài mạch cacbon của gốc acid tạo ra xà phòng.
Xà phòng với gốc acid béo có mạch cacbon nhỏ hơn 16 khó có khả năng tạo mỡ hoặc
mỡ chỉ được tạo thành ở nhiệt độ rất cao. Nguyên do vì các loại xà phòng này tan quá kém
trong dầu nhờn.
Xà phòng với gốc acid béo có mạch cacbon lớn hơn 18 tan tốt trong dầu, nên có khả
năng tạo mỡ tốt, do mạch cacbon quá dài nên tính ổn định hóa học lại kém.
Kết quả thực tế cho thấy, xà phòng có gốc acid béo có mạch cacbon từ 16-18 là thích
hợp nhất với việc tạo thành cấu trúc cho mỡ và đảm bảo chất lượng cho mỡ thành phẩm.
Ngoài số nguyên tử cacbon của mạch, cấu tạo mạch cacbon của gốc acid cũng ảnh
hưởng tới tính chất của mỡ, xà phòng gốc acid no dễ làm đặc mỡ, mỡ tạo ra có độ ổn định
nhiệt, ổn định oxi hóa tốt, ngược lại, xà phòng không no( có liên kết đôi trong mạch
cacbon) khó làm đặc mỡ, mỡ tạo ra có tính ổn định nhiệt và ổn định oxi hóa kém. Để đánh
giá tính không no của gốc acid béo người ta dùng chỉ số iốt, chỉ số iốt càng cao thì tính
không no càng mạnh. Yêu cầu xà phòng làm đặc mỡ có chỉ số iốt thấp hơn 70mg.
1.5.2. Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Khác.

1.5.2.1. Ảnh Hưởng Của Dầu Nhờn.
Dầu nhờn chiếm tỉ lệ cao trong hợp phần của mỡ, do đó tính chất của dầu rất rõ rệt
tới sự hình thành và tính chất của mỡ. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra cho ta thấy rằng:
Dầu nhờn dùng để sản xuất mỡ cần có độ nhớt động học thích hợp, trung bình
khoảng 40 – 50cSt ở 50
0
C. Dầu có độ nhớt quá lớn hay quá bé đều khó tạo thành khung
cấu trúc mỡ, nên chất lượng mỡ tạo thành không tốt.
Dầu nhờn có gốc parafin tạo ra mỡ nhờn có tính ổn định nhiệt, ổn định oxi hóa cao.
Dầu gốc naphten và dầu nhờn cặn tạo ra mỡ có cấu trúc kém ổn định. Dầu nhờn có chỉ số
độ nhớt cao sẽ tạo ra mỡ mềm và bóng.
Ngoài ra còn yêu cầu dầu nhờn có độ bám dính, tính chống ăn mòn kim loại, tính bôi
trơn càng tốt thì chất lượng mỡ tạo thành càng cao.
1.5.2.2. Ảnh Hưởng Của Các Chất ổn Định Cấu Trúc.
19
Việc thêm vào hệ mỡ nhờn một thành nào đó của cấu tử thứ 3 với vai trò ổn định cấu
trúc là rất cần thiết. Các chất ổn định cấu trúc thường dùng là nước, rượu, glyxerin và các
phelolamin, các chất này có khả năng làm tăng độ tan của xà phòng trong dầu nhờn do đó
làm bền liên kết giữa xà phòng và dầu nhờn, tạo ra một cấu trúc tốt cho mỡ nhờn. Sự có
mặt các chất ổn định cấu trúc với tỉ lệ hợp lý có tác dụng tạo ra cấu trúc mỡ hoàn thiện
nhất nên mỡ có chất lượng tốt nhất. Sử dụng chất nào để ổn định cấu trúc cho một loại mỡ
và tỉ lệ bao nhiêu vừa phải là một vấn đề cần được khảo sát cụ thể chứ không phải là một
công thức chung cho tất cả các loại mỡ. Ví dụ với lượng xà phòng canxi với lượng dưới
3% khối lượng có tác ổn định cấu trúc mỡ tốt nhất, nếu vượt quá 3% thì tác dụng làm kém
đi cấu trúc của mỡ. Ngược lại nếu cho nước vào mỡ nhôm thì kết quả ngược lại, cấu trúc
mỡ sẽ bị phá hủy hoàn toàn.
1.5.2.3. Ảnh Hưởng Của Phụ Gia Chất Độn.
Người ta thường pha vào mỡ nhờn một số loại phụ gia để cải thiện chất lượng mỡ.
Thông thường có các loại phụ gia chống oxi hóa, chống nước, chống ăn mòn, bảo vệ bề
mặt kim loại, phụ gia làm đặc và tạo cấu trúc, phụ gia làm biến dạng hoặc điều chỉnh sự

tạo cấu trúc mỡ, phụ gia chống tạo bọt, có thể dùng phụ gia rời hoặc phụ gia trọn gói.
Việc dùng phụ gia trong từng trường hợp phải tính đến ảnh hưởng của chúng tới tính
chất của từng loại mỡ và lựa chọn phù hợp. Đối với mỡ có phản ứng kiềm yếu nên dùng
hợp chất amin làm phụ gia chống oxi hóa, còn đối với mỡ có phản ứng với acid thì phải
chọn các phụ gia gốc phenol. Ngoài ra hàm lượng phụ gia phải phù hợp. Hàm lượng phụ
gia quá thấp sẽ không có tác dụng, còn quá cao sẽ gây phá hủy cấu trúc và giảm hiệu quả.
1.5.2.4. Ảnh Hưởng Của Lượng Kiềm Tự Do Và Acid Béo Không Xà Phòng Hóa
Trong dạng mỡ gốc xà phòng bao giờ cũng có một lương kiềm tự do (<0,2), tồn tại ở
dạng glyxerat, là chất ổn định cho cấu trúc mỡ nhờn. Ngoài ra còn có một lượng acid béo
không xà phòng cũng là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng cửa mỡ nhờn.
1.5.2.5. Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Công Nghệ.
Xây dựng được một quy trình cộng nghệ nấu mỡ hợp lý và đảm bảo đúng yêu cầu kỹ
thuậ phù hợp với nguồn nhiên liệu đầu vào sẽ có ảnh hưởng tới chất lượng mỡ tạo thành.
Thực tế cho thấy nấu mỡ trong nồi kín dưới áp suất cao sẽ cho ra chất lượng mỡ cao hơn
so với nấu mỡ trong nồi nhỏ, ngoài thời gian nấu mỡ, nhiệt độ nấu mỡ, phương thức và tốc
độ khuấy trộn là những vấn đề thiết thực cần xác định qua thực tế cho phù hợp, nhằm
nâng cao chất lượng các loại mỡ thành phần
1.6. Các Chỉ Tiêu Chất Lượng Của Mỡ Nhờn
1.6.1 Tính ổn Định Toàn Diện Của Mỡ Nhờn.
20
Là biểu hiện khả năng của mỡ giữ nguyên được cấu trúc đồng nhất ở dạng nửa rắn,
dưới tác động của nhiệt độ cao, tải trong lớn và những điều kiện khắc nghiệt khác. Có thể
thẩm định được tính chất đó qua các chỉ tiêu chất lượng dưới đây.
1.6.1.1 Tính ổn Định Nhiệt.
Tiêu chuẩn xác định TCVN 2697-78, ASTM D566
Tính chụi nhiệt của mỡ nhờn thể hiện o tính nhỏ giọt. Nhiệt độ nhỏ giọt là nhiệt độ
mà nhiệt độ tại đó giọt mỡ đầu tiên từ chén mở rơi xuống đáy ống nghiệm ( hay sợi mỡ
chảy chạm xuống đáy ống ) khi đốt nóng mỡ trong dụng cụ chuyên dụng do độ nhỏ giọt.
Độ nhỏ giọt được xác định theo ASTM D566 hoạc TCVN2697- 78.
Dựa vào điểm nhỏ giọt của mỡ ta có thể chọn được loại mỡ phù hợp. Thông thường

nhiệt độ sử dụng bao giờ cũng thấp hơn nhiệt độ nhỏ giọt từ 10-20
0
C. Từ điểm nhỏ giọt
chúng ta cũng phán đoán được chất làm đặc của mỡ, ví dụ gốc xà phòng natri có nhiêt độ
nhỏ giọt lớn hơn 100
0
C, mỡ gốc xà phòng canxi và nhôm 65-90
0
C, mỡ gốc sáp 60-90
0
C
Tuy vậy nhiệt độ nhỏ giọt chỉ nói lên phần nào tính năng sử dụng của mỡ nhờn mà
thôi. Để đánh giá đúng hơn về tính ổn định nhiệt ta cần kiểm định khả năng giữ vững kết
cấu ban đầu và tính chất của mỡ trong điều kiện nhiệt độ gần với nhiệt độ lúc mỡ làm việc.
Muốn kiểm định tính chất này người ta lấy một khối mỡ theo quy định cho vào tủ giữ
nhiệt, trong một khoảng thời gian và nhiệt độ xác định. Sau khi kết thúc thí nghiệm nếu
khối lượng mỡ không bị biến dạng, tách dầu thì chứng tỏ nó chịu được nhiệt độ đó, ngược
lại nếu mỡ bị biến dạng, tách dầu thì chứng tở tính ổn định nhiệt kém, không thể sử dụng
nhiệt độ đó được
1.6.1.2 Ổn Định Cấu Thể Hoặc Độ Tách Dầu:
Tiêu chuẩn xác định ASTM D1742
Tính biểu hiện cấu thể biểu thị khả năng bôi trơn mỡ chống lại ảnh hưởng của nhiệt
độ và áp lực, giữ được cấu trúc ban đầu của mỡ.
Để đánh giá tính chất này người ta xác định độ tách dầu là lượng tách dầu ra so với
khối lượng mẫu, trong điều kiện cụ thể của thí nghiệm.
Nguyên tắc xác định là khảo sát sự tách dầu khi tăng áp. Độ tách dầu được biểu thị
bằng % khối lượng dầu tách trong điều kiện thí nghiệm sau khi khuấy mỡ, giữ nguyên ở
25
0
c trong 24 giờ. Khi xét đoán kết quả nếu độ tách dầu quá mức quy định thì chứng tở

tính ổn định cấu thể của mẫu không đạt yêu cầu. Quy định độ tách dầu không quá 3-5%
khi thí nghiệm tăng áp tách dầu. Mỡ nhờn mà tính ổn định cấu thể kém không dùng vào
nơi có nhiệt độ và phụ tải cao, không có khả năng tồn chứa lâu.
1.6.1.3.Tính ổn Định Oxy Hóa.
21
Tiêu chuẩn xác định ASTM D1402
Tính ổn định hóa học biểu thị tính chống lại quá trình oxy hóa của mỡ nhờn trong lúc
bảo quản và sử dụng. Để đánh giá tính ổn định hóa học theo tiêu chuẩn Liên Xô. Người ta
cho 20g mỡ vào bình thép không rỉ rồi cho oxy hóa ở 100
0
C áp lực 8 atm trong một khoảng
thời gian nhất định của mỡ đựa trên lượng oxy hóa bị hấp thụ và chỉ số acid tăng lên của
mẫu thí nghiệm. Yêu cấu của các mẫu mỡ này không được vượt quá giới hạn cho phép
ASTM D492 để xác định tính bền oxy hóa bằng phương pháp bom oxy hóa và đơn vị
xác định chỉ tiêu này theo KG/cm
2
. Phương pháp này dựa trên nguyên tắc cho một thử
nghiệm vào bơm ở nhiệt độ ổn định là 99
0
C được nạp đầy khí oxy ở áp suất 110Psi. Áp
xuất của bơm sẽ được theo dõi và được ghi lại trong một khoảng thời gian xác định. Tại
điểm áp suất bắt đầu giảm có nghĩa là sự oxy hóa của mỡ đã xảy ra. Quy định chỉ tiêu ổn
định oxy hóa của các loại mỡ không được thấp dưới giới hạn cho phép.
ASTM D1402 để xác định hiệu ứng của kim loại đồng tới ổn định oxy hóa của mỡ
nhờn đo bằng phương pháp bơm oxy. Cơ sơ của phương pháp này cũng giống như ASTM
D 942, chỉ khác là lượng mỡ thí nghiệm được phết lên kim loại đồng sự oxy hóa xảy ra dễ
dàng hơn. Khi áp suất oxy hóa giảm cũng là lúc sự oxy hóa bắt đầu xảy ra.
1.6.1.4. Tính Bền Đối Với Nước Của Mỡ Nhờn.
Tiêu chuẩn xác định ASTM D1264
Tính bền đối với nước của mỡ nhờn biểu thị mức độ nhũ của mỡ nước, khi thử

nghiệm người ta lấy ít mỡ cho vào ống nghiệm có nước cất và lắc mạnh trong 2 phút và để
yên trong 3 giờ. Sau đó xem xét kết quả hòa tan trong mỡ để xác định độ nhũ hóa. Nếu mỡ
tan nhiều trong nước: độ nhũ hóa 4, nếu mỡ hoàn toàn không tan: độ nhũ hóa 1, nhũ hóa 2-
3 là mức độ trung gian. Mỡ gốc sáp có độ nhũ hóa 1 rất kỵ nước, gốc xà phòng canxi có dộ
nhũ hóa 2, gốc xa phòng natri có độ nhũ hóa 4 (có khi là 3) không kỵ nước. Dựa vào độ
nhũ hóa để lựa chọn mỡ thích hợp cho những nơi ẩm ướt, tiếp xúc nhiều với nước, mỡ có
độ nhũ hóa 4 thì không thể dùng ở những nơi có độ ẩm cao.
ASTM D 1246 là phương pháp định lượng xác định tính bền của mỡ đối với nước,
mỡ thí nghiệm được phết trên một quả cầu và quay tròn trong một thiết bị chuyên dùng với
tốc độ quay là 600 ± 30 vòng/phút, phun nước lên quả cầu mỡ với tỉ lệ 5 ± 0.5 ml/sec. Sau
1 giờ xác định lượng mỡ bị rửa trôi theo nước. Từ lượng mỡ rửa trôi đó suy đoán về khả
năng chịu nước của mỡ thí nghiệm, khối lượng mỡ rữa trôi càng ít, chứng tỏ mỡ càng bền
với nước và ngược lại
1.6.2. Xác Định Kiềm Tự Do Và Acid Hữu Cơ Tự Do (TBN và TAN)
Tiêu chuẩn xác định TCVN 2704-78, GOST 6307-60
22
Hàm lượng aicd hòa tan trong nước được xác định theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn
của TCVN và GOST. Cơ sở của phương pháp xác định là cho chất chỉ thị màu acid- bazơ
vào dung dich chiếc nóng của mỡ nhờn. Khi xác hiện có lượng acid hay kiềm hòa tan, tiến
hành định lượng bằng phương pháp chuẩn độ với thể tích chất chỉ thị màu hoặc đo điện
thế. Trong các loại mỡ gốc xà phòng luôn có một lượng kiềm qui đổi về NAOH.
1.6.2.2. Kiểm Nghiệm Ăn Mòn Mảnh Đồng.
Tiêu chuẩn xác định IP 112
Mỡ nhờn có tác dụng bảo vệ bề mặt kim loại, chống ăn mòn. Tuy nhiên trong quá
trình bảo quản, sử dụng, mỡ có thể biến chất do quá trình oxy hóa, do đó cần đánh giá tính
chất này bằng kiểm nghiệm ăn mòn mảnh đồng ở 25
0
C. Trong vòng 24 giờ, theo quy định
của các loại mỡ không được biểu hiện tính ăn mòn đối với mảnh đồng.
1.6.3 Độ Sạch Của Mỡ Nhờn.

1.6.3.1. Nước Trong Mỡ
Tiêu chuẩn xác định TCVN 3183-79, ASTM D95
Nước có một tỉ lệ nhất định trong mỡ nhờn và điều đó cần thiết cho việc tạo thành
cấu thể của mỡ, nhưng nếu lượng nước vượt quá giới hạn cho phép thì sẽ ảnh hưởng
không tốt đến tính ổn định cơ học của mỡ, làm giảm khả năng bảo vệ kim loại của mỡ, gây
tác hại ăn mòn. Tùy từng gốc mỡ mà lượng nước cho phép khác nhau theo % khối lượng
so với mỡ.
- Mỡ gốc xà phòng Canxi lượng nước cho phép là 1,.0 – 3.0%
- Mỡ gốc xà phòng Canxi-Natri lượng nước cho phép là 0.3-0.5%
- Mỡ gốc xà phòng Natri lượng nước cho phép là 0.5%
- Mỡ gốc xà phòng sáp không cho phép có nước.
ASTM D95 dùng định lượng nước trong mỡ cũng như các sản phẩm dầu mỏ khác
bằng phương pháp chưng cất.
TCVN 3183-79 dùng để xác định nước trong mỡ theo phương pháp định tính
1.6.3.2 Tạp Chất Cơ Học.
Tiêu chuẩn xác định TCVN 2696-78.
Các chất rắn không tan trong hỗn hợp cồn etylic với benzen và không tan trong nước
nóng gọi là tạp chất cơ học của mỡ. Tạp chất cơ học có thể có sẵn trong dầu và xà phòng là
nguyên liệu chế biến mỡ, các tạp chất cơ học như bụi, mạt kim loại có thể từ ngoài lọt
vào mỡ. Tạp chất cơ học được đánh giá % khối lượng so với mẫu mỡ. Yêu cầu chung là
23
mỡ không có chất tan chất cơ học, ngoại trừ mỡ gốc xà phòng canxi được phép có một
lượng tạp chất cơ học 0.3-0.6% khối lượng.
TCVN 2696-78 dùng để xác định tạp chất cơ học trong mỡ một cách đơn giản là
dùng dung dịch HCL phân hủy mỡ hòa tan trong dung môi, lọc và sấy khô rồi cân lượng
tạp chất còn lại trên giấy lọc. Cũng có thể dụng cụ Solet để cất chiết mỡ bằng dung môi
thích hợp.
1.6.3.3. Hàm Lượng Tro ( Ash)
Tiêu chuẩn ASTM D482
Để xác định hàm lượng tro của mỡ cần đốt và nung nóng mỡ thí nghiệm ở những

điều kiện nhất định. Tiếp theo sẽ định lượng chất cặn rắn còn lại ( theo % khối lượng). Ở
các loại mỡ gốc sáp, hàm lượng tro rất thấp, chỉ khoảng 0.02-0.07%, còn với các loại mỡ
gốc xà phòng thì hàm lượng tro cao hơn, có thể tới 0.5-4%. Dựa trên đặc điểm đó có thể
phân biệt mỡ nhờn gốc sáp hoặc gốc xà phòng, phân biệt gốc xà phòng kim loại hoặc loại
xà phòng hóa hữu cơ (mỡ dạng này cũng có hàm lượng tro thấp như gốc sáp).
1.6.4.Một Số Tính Năng Sử Dụng Khác Như Mỡ Nhờn.
1.6.4.1. Độ Nhớt Của Mỡ Nhờn.
Tiêu chuẩn xác định ASTM D 1092
Ở điều kiện làm việc khi tác dụng của tải trọng dưới giới hạn bền của mỡ, cấu trúc
của mỡ được bảo tồn, khi có khả năng bôi trơn của mỡ được đánh giá theo độ nhớt biểu
kiến.
ASTM D1092 được sử dụng để tiến hành xác định độ nhớt biểu kiến của mỡ nhờn
trong dụng cụ đo độ nhớt chuyên dùng ở khoảng nhiệt độ từ -53 đến 37,8
0
C.
Ở điều kiện làm việc, khi tác dụng của tải trọng lớn hơn giới hạn độ bền của mỡ, cấu
trúc của mỡ bị phá vỡ và mỡ chayy3 lỏng như mỡ nhờn bôi trơn. Ở giai đoạn này tính chất
của mỡ được đặc trưng bằng độ nhớt động học như với dầu nhờn, tuy vậy độ nhớt của mỡ
vẫn khác so với dầu. Độ nhớt của mỡ không chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ mà còn phụ thuộc
vào tốc độ biến dạng, chủ yếu là vì giữa các phân tử chất làm đặc của khung cấu trúc bị
phá vỡ luôn luôn có xu hướng tạo lập lại mối liên kết của cấu trúc. Sự phá vỡ cấu trúc làm
giảm độ nhớt, còn sự tạo lập cấu trúc lại làm tăng độ nhớt.
Sự phụ thuộc độ nhớt của mỡ vào tốc độ biến dạng biểu hiện ở chỗ, khi tốc độ biến
dạng tăng thì độ nhớt giảm. Khi tốc độ biến dạng tăng tới một giới hạn nào đó thì độ nhớt
của mỡ không phụ thuộc vào tốc độ biến dạng nửa và lúc đó chất lỏng Niutơn. Sự phụ
24
thuộc độ nhớt mỡ nhờn vào gradien tốc độ biến dạng gọi là độ nhớt tốc độ (còn gọi là độ
nhớt hiệu dụng).
Sự phụ thuộc độ nhớt mỡ nhờn vào nhiệt độ cũng gọi là tính nhớt – nhiệt của mỡ. Sự
khác nhau về độ nhớt giữa dầu và mỡ là ở chổ độ nhớt mỡ nhờn ít phụ thuộc vào nhiệt độ

như độ nhớt dần nhờn, có nghĩa là chỉ chỉ số nhớt của mỡ cao hơn của dầu.
Tính chất độ nhớt của mỡ là khá quan trọng đối với mỡ. Cho phép đánh giá khả năng
khởi động của các máy móc bôi trơn bằng mỡ nhờn, khả năng bơm chuyển mỡ nhờn theo
các ống mềm trong bảo quản và trong các ống dẫn mỡ tới các bộ phận cần bôi trơn cũng
như đánh giá sự tiêu hao mỡ trong các bộ phân ma sát.
1.6.4.2. Độ Rắn Đặc Của Mỡ Nhờn
Tiêu chuẩn xác định TCVN-5853-1995, ASTM D217
Độ rắn đặc của mỡ bôi trơn được đánh giá qua độ xuyên kim. Độ xuyên kim là độ lún
sâu của chóp nón kim khí có khối lượng qui định để rơi trong 5 giây vào một khối mỡ thí
nghiệm đã được nhào đều, ở nhiệt độ 25
0
C. Mỗi đơn vị độ xuyên kim tương ứng với độ
lún sâu 0.1mm. Xác định độ xuyên kim theo tiêu chuẩn TCVN-5853-1995 hoặc ASTM-
D217 trong dụng cụ chuyên dụng.
Độ xuyên kim nhỏ là biểu hiện mỡ rắn đặc và ngược lại. Độ xuyên kim phần nào tùy
vào tỉ lệ và đặc tính của chất làm đặc, tỉ lệ chất làm đặc càng nhiều thì độ xuyên kim nhỏ
và ngược lại. Loại mỡ gốc xà phòng của acid béo có độ xuyên kim lớn hơn độ xuyên kim
của mỡ gốc xà phòng acid không no. Độ xuyên kim cũng phụ thuộc vào tính chất của loại
dầu dùng chế biến mỡ, dầu có độ nhớt lớn thì mỡ có độ xuyên kim nhỏ và ngược lại.
Dựa vào độ xuyên kim làm cơ sở để chọn mỡ dùng cho thích hợp với điều kiện sử
dụng cụ thể, như ở nơi có áp lực lớn thì phải dùng mỡ có độ xuyên kim nhỏ và ngược lại.
Ngoài ra còn xác định độ xuyên kim của khối lượng mỡ đã chịu 100000 lần chày giã,
nghĩa là mỡ ở trạng thái gần với trạng thái của động cơ. Chỉ tiêu này biểu hiện cho độ bền
làm việc của mỡ, chỉ tiêu này của mỡ càng thấp chứng tỏ độ bền làm việc của mỡ càng cao
và ngược lại. Đương nhiên độ xuyên kim như vậy cao hơn độ xuyên kim xác định theo tiêu
chuẩn ASTM D217.
1.6.4.3. Khuynh Hướng Của Mỡ Nhờn.
Tiêu chuẩn xác định ASTM D1263
Khuynh hướng rò rỉ đo bằng khối lượng (gam) hao hụt đi của mỡ dùng bôi trơn ở vô
lăng xe ôtô, trong điều kiện thử nghiệm bằng thiết bị chuyên dụng, ở điều kiện chuyên

dùng.
25

×