TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
LÊ THANH PHONG
THỰC HIỆN MỘT SỐ TIÊU BẢN VI THỂ:
GAI LƯỠI, KHÍ QUẢN, PHỔI, THẬN,
BÀNG QUANG, DỊCH HOÀN
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: BÁC SĨ THÚ Y
Cần Thơ, 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: BÁC SĨ THÚ Y
Tên đề tài
:
THỰC HIỆN MỘT SỐ TIÊU BẢN VI THỂ:
GAI LƯỠI, KHÍ QUẢN, PHỔI, THẬN,
BÀNG QUANG, DỊCH HOÀN
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. Lê Hoàng Sĩ Lê Thanh Phong
MSSV: 3092631
Lớp: TY K35
Cần Thơ, 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình luận văn nào trước.
Tác giả luận văn
Lê Thanh Phong
ii
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NỘNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
Tên đề tài: “Thực hiện tiêu bản vi thể: gai lưỡi, khí quản, phổi, thận, bàng quang,
dịch hoàn” do sinh viên Lê Thanh Phong lớp Thú Y Khóa 35 thực hiện tại phòng
thí nghiệm mô học (Histology), bộ môn Thú Y, Khoa Nông Nghiệp & Sinh Học
Ứng Dụng Trường Đại học Cần Thơ từ tháng 09 đến tháng 11 năm 2013.
Cần Thơ, ngày….tháng….năm…. Cần Thơ, ngày….tháng….năm….
Duyệt Bộ môn Cán bộ hướng dẫn
Lê Hoàng Sĩ
Cần Thơ, ngày….tháng….năm….
Duyệt khoa Nông Nghiệp & SHƯD
iii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian ở giảng đường Đại học và bốn tháng thực hiện luận văn
tốt nghiệp của mình, tuy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc nhưng bên
cạnh tôi luôn có sự động viên, ủng hộ của gia đình, đặc biệt là người mẹ thân yêu
của tôi, luôn có sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè, tôi đã cố gắng hoàn thành tốt khóa
học và luận văn tốt nghiệp của mình.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Lê Hoàng Sĩ và thầy Trần Hiền Nhơn
đã hết lòng hướng dẫn, quan tâm, lo lắng động viên hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Với tất cả lòng kính trọng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy
cô Bộ môn Thú Y, các thầy cô của trường Đại học Cần Thơ đã dạy dỗ tôi trong
suốt thời gian học tập tại trường.
Cuối cùng cảm ơn tất cả những người bạn của tôi và tập thể lớp Thú Y khóa
35 đã luôn chia sẻ, động viên, giúp đỡ tôi những khi khó khăn trong học tập và
cuộc sống.
Xin chân thành biết ơn và kính chúc quý thầy cô, người thân và bạn bè tôi
được dồi dào sức khỏe, có thật nhiều niềm vui và thành công trong cuộc sống.
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
TRANG DUYỆT ii
LỜI CẢM ƠN iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC HÌNH vii
TÓM LƯỢC viii
Chương I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1 Tổng quan về phương pháp thực hiện tiêu bản hiển vi 2
2.2 Lưỡi 2
2.2.1 Gai chỉ 3
2.2.2 Gai nấm 3
2.2.3 Gai lá 3
2.2.4 Gai đài 3
2.3 Khí quản và phế quản gốc 3
2.3.1 Lớp niêm mạc 3
2.3.2 Lớp dưới niêm mạc 4
2.3.3 Lớp thanh mạc (vỏ ngoài) 4
2.4 Phổi 4
2.4.1 Đường dẫn khí 4
2.4.2 Phần hô hấp 5
2.5 Thận 6
v
2.5.1 Tiểu cầu thận 7
2.5.2 Ống lượn gần 7
2.5.3 Quai Henle 7
2.5.4 Ống lượn xa 7
2.5.5 Ống góp 8
2.6 Bàng quang 8
2.7 Tinh hoàn 8
2.7.1 Sự sinh tinh 9
2.7.2 Tổ chức kẻ 9
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 11
3.1 Phương tiện 11
3.1.1 Địa điểm thực hiện 11
3.1.2 Dụng cụ, trang thiết bị và hóa chất 11
3.2 Phương pháp tiến hành 11
3.2.1 Lấy mẫu 11
3.2.2 Cố định mẫu 11
3.2.3 Lấy mẫu nhỏ 12
3.2.4 Rửa nước 12
3.2.5. Khử nước 12
3.2.6. Tẩm dung môi trung gian 12
3.2.7 Tẩm paraffin 13
3.2.8 Đúc khuôn 13
3.2.9 Cắt mẫu 13
3.2.10 Tải, dán, hấp mẫu 14
vi
3.2.11 Nhuộm mẫu 14
3.2.12 Dán lamelle – dán nhãn 16
Chương 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 17
4.1 Lưỡi 17
4.1.1 Gai chỉ 18
4.1.2 Gai nấm 18
4.1.3 Gai đài 19
4.1.4 Gai lá 19
4.2 Khí quản 20
4.3 Phổi 21
4.4 Thận 24
4.5 Bàng quang 25
4.6 Tinh hoàn 26
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 29
5.1 Kết luận 29
5.2 Đề nghị 29
PHỤ CHƯƠNG 31
vii
DANH MỤC HÌNH
Hình Tựa hình Trang
3.1
3.2
4.1
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6
4.7
4.8
4.9
4.10
4.11
4.12
4.13
4.14
4.15
4.16
4.17
4.18
Khuôn đúc Leuckart
Sơ đồ qui trình nhuộm mẫu
Cấu trúc gai chỉ thỏ (vật kính 10X)
Gai nấm (vật kính 10X)
Gai đài (vật kính 10X)
Gai lá heo (vật kính 10X)
Gai lá heo (vật kính 40X)
Khí quản chuột (Vật kính 40X)
Phế quản lớn thỏ (vật kính 10X)
Phế quản lớn thỏ (vật kính 40X)
Phổi (vật kính 10X)
Phổi (vật kính 40X)
Miền vỏ thận (vật kính 10X)
Miền vỏ thận (vật kính 40X)
Miền tủy thận thỏ (vật kính 40X)
Bàng quang thỏ (vật kính 10X)
Dịch hoàn chuột (vật kính 10X)
Dịch hoàn chuột (vật kính 40X)
Phụ dịch hoàn chuột (vật kính 10X)
Phụ dịch hoàn chuột (vật kính 40X)
13
15
18
18
19
19
20
21
22
22
23
23
24
24
25
26
27
27
28
28
viii
TÓM LƯỢC
Đề tài “Thực hiện một số tiêu bản vi thể: gai lưỡi, khí quản, phổi, thận bàng
quang, dịch hoàn” nhằm khảo sát quy trình thực hiện tiêu bản vi thể đối với từng
loại tổ chức trên. Trong thời gian từ tháng 09 đến tháng 11 năm 2013, tại phòng
thí nghiệm mô học – Khoa Nông nghiệp & SHƯD – Đại học Cần Thơ cùng với
trang thiết bị và các hóa chất sẵn có. Qua quá trình thực hiện tiêu bản mô trên thỏ,
chuột, heo, tôi đã đúc 180 mẫu trong đó có 48 khối hoàn chỉnh. Cắt nhuộm được
354 tiêu bản và chọn ra 303 tiêu bản đạt yêu cầu những tiêu bản đạt yêu cầu gồm
có: lưỡi thỏ (36 tiêu bản), gai lá heo (22 tiêu bản), khí quản chuột (31 tiêu bản),
phổi chuột (34 tiêu bản), phổi thỏ (25 tiêu bản), phế quản lớn thỏ (25 tiêu bản),
thận thỏ (36 tiêu bản), bàng quang thỏ (54 tiêu bản), dịch hoàn chuột (40 tiêu
bản). Qua đó rút ra được một số đặc điểm riêng trên từng mẫu so với quy trình
chung.
Chúng tôi đã khảo sát phương pháp thực hiện tiêu bản hiển vi cố định mô
động vật và tìm ra thứ tự thời gian cố định mẫu thích hợp cho từng loại tổ chức
như sau: cố định 24 giờ là lưỡi, khí quản, phổi, thận, dịch hoàn, cố định 36 giờ là
bàng quang.
Ngoài ra, paraffin tẫm mẫu phải là paraffin mới để có thể ngấm sâu vào các
tổ chức bên trong. Còn paraffin đúc khuôn thì phải pha paraffin mới và paraffin
đã được làm “già” qua lửa (đun nóng trong nồi vài giờ) với tỷ lệ tùy thuộc vào độ
“già” của paraffin, sao cho khi cắt khối paraffin không quá dẽo cũng không quá
cứng.
1
Chương I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ thể động vật là một thể thống nhất, toàn vẹn và hoàn chỉnh. Bất kì bộ
phận nào cũng đảm nhận một chức năng nhất định. Ngược lại bất kì chức năng
nào cũng điều do một hoặc một số cấu tạo thực hiện, phù hợp với điền kiện sống.
Trong thú y, để tìm hiểu về mức độ gây hại, các tổn thương khi mắc phải… ở một
cơ thể vật nuôi thì việc khảo sát ở cấp độ tế bào là hết sức cần thiết. Nhưng muốn
khảo sát mức độ tế bào của mô bệnh thì chúng ta cần khảo sát tế bào mô bình
thường trước.
Do vậy, sinh viên ngành Thú y cần hiểu biết rõ về cấu tạo, tổ chức cơ thể động
vật ở mức vi thể. Nhờ vào cấu tạo vi thể mà chúng ta có thể giải thích được các
quá trình sinh lý bình thường của vật nuôi.
Với các lợi ích thiết thực như vừa nêu trên tôi thực hiện đề tài “Thực hiện một số
tiêu bản: lưỡi, khí quản, phổi, thận, bàng quang, dịch hoàn”.
Mục tiêu đề tài:
Đọc và mô tả về mặt tổ chức học của các tiêu bản đã thực hiện bao gồm:
lưỡi, khí quản, phổi, thận, bàng quang, dịch hoàn.
Thực hiện tiêu bản có chất lượng phục vụ cho học tập, giảng dạy và nghiên
cứu.
2
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Tổng quan về phương pháp thực hiện tiêu bản hiển vi
Muốn thực hiện nghiên cứu tế bào và mô, phải dùng các loại kính hiển vi.
Vì vậy phải thực hiện những tiêu bản có độ dày thích hợp cho phép quan sát dưới
kính hiển vi.
Có nhiều phương pháp làm tiêu bản để nghiên cứu bao gồm: phương pháp
xét nghiệm tươi; phương pháp tế bào, hóa mô; phương pháp phóng xạ tự chụp;
phương pháp làm tiêu bản cố định và nhuộm màu.
Trong các phương pháp trên phương pháp làm tiêu bản hiển vi cố định và nhuộm
màu là phương pháp phổ biến dùng trong xét nghiệm mẫu bệnh so với đối chứng.
Phương pháp làm tiêu bản cố định và nhuộm màu:
Thực hiện tiêu bản hiển vi cố định bằng phương pháp tiêu bản cắt lát và
nhuộm kép bằng Hematoxylin va Eosin Y. Kỹ thuật mô học này nhằm tạo được
những mảnh cắt mỏng, trong suốt của mô và của cơ quan, cho phép quan sát được
dưới kính hiển vi. Thêm vào đó, mảnh cắt sẽ nhuộm bằng các thuốc nhuộm đặc
hiệu, các phần của mảnh cắt bắt màu khác nhau giúp cho việc quan sát dễ dàng.
Tiêu bản hiển vi cố định được thực hiện theo phương pháp này phải trải qua
nhiều giai đoạn. Phải thực hiện tốt tất cả các giai đoạn mới thu được tiêu bản có
chất lượng. Nếu một giai đoạn nào đó thực hiện không tốt thì tiêu bản thu được sẽ
không đạt được chất lượng. Tóm lược quy trình như sau: lấy mẫu – cố định – cắt
lát mỏng – nhuộm kép bằng Hematoxylin – Eosin Y (Phạm Phan Dịch, 1998)
2.2 Lưỡi
Lưỡi là cơ quan di động duy nhất trong xoang miệng, là khối cơ vân được
bao bộc bởi niêm mạc miệng, dính vào sàn miệng bởi một cuống rộng gọi là
cuống lưỡi hay rễ. Lưỡi gồm 2 mặt: mặt trên và mặt dưới, biểu mô niêm mạc mặt
dưới không có gì đặc biệt, niêm mạc mặt trên rất dày thuộc loại biểu mô phủ kép
lát hóa sừng, có hai phần khác nhau: phần trước có những gai lồi lên trên mặt lưỡi
gọi là gai lưỡi, phần sau có tổ chức bạch huyết phát triển thành một hạnh nhân tức
là hạnh nhân lưỡi, hai phần này được giới hạn bởi một đường hình chữ V gọi là V
lưỡi (Trương Cam Cống, 1973).
Dưới lớp niêm mạc là cơ vân, cơ vân chen chút nhau và chia nhánh đến bám
vào lớp niêm đệm. Trên mặt lưỡi có bốn loại gai:
3
2.2.1 Gai chỉ
Đây là những nhú mô liên kết được bao phủ bằng biểu mô phủ kép lát hóa
sừng, nhỏ, mảnh, phân bố 2/3 phía trước mặt trên và hai bên bờ lưỡi không có nụ
vị giác, những gai chỉ cao khoảng 0.3 – 3 mm. Tác dụng của gai là giữ cho thức
ăn không bị rớt ngoài vì tạo trong bề mặt lưỡi độ nhám và gai cũng giúp đưa thức
ăn vào bên trong.
2.2.2 Gai nấm
Được gọi là gai nấm vì chúng nổi lên trên mặt lưỡi, hình dạng giống như
nấm, phần trên rộng phần đáy hẹp. Gai nấm nằm rải rác xen lẫn với gai chỉ. Ở
những mặt bên của gai có thể có nụ vị giác, gai nấm tập trung ở đầu lưỡi và hai
bên đầu lưỡi.
2.2.3 Gai lá
Là những nếp gấp song song của niêm mạc, thấy ở hai bên bờ lưỡi gần gốc
lưỡi. Ở người, cừu, dê không có gai này. Gai lá được hợp bởi nêm mạc và biểu
mô phủ niêm mạc thuộc loại biểu mô phủ kép lát không hóa sừng. Trong lớp biểu
mô có nhiều nụ vị giác có chức năng vị giác.
2.2.4 Gai đài
Gai đài có hình dạng giống như gai nấm nhưng kích thước lớn hơn và được
bao quanh bởi một rảnh hình vòng. Gai đài có số lượng rất ít, chủ yếu nầm ở gốc
lưỡi. Trong biểu mô lợp mặt bên của gai (tức là thành trong của rảnh) có nhiều nụ
vị giác, ở đáy của rảnh có những lỗ bài xuất của tuyến Von Epne, bên dưới có mô
liên kết khá dày và cơ vân (Nguyễn Xuân Hoạt, 1978).
2.3 Khí quản và phế quản gốc
Khí quản là ống hình trụ hơi dẹt ở phía lưng, thành của khí quản gồm 3 lớp:
2.3.1 Lớp niêm mạc
Lớp niêm mạc gồm 2 lớp:
Lớp biểu mô: biểu mô phủ niêm mạc khí quản là biểu mô phủ kép trụ giả
có lông rung.
Lớp đệm: là mô liên kết thưa có nhiều mạch máu, sợi chun và nhiều tuyến
nhỏ tiết nhầy.
4
2.3.2 Lớp dưới niêm mạc
Là mô liên kết thưa chứa nhiều tuyến pha. Trong lớp dưới niêm mạc có
những vòng sụn hình chữ C. Hai đầu tự do của vòng sụn được nối với nhau bằng
những bó sợi cơ trơn nằm ngang được gọi là cơ khí quản.
2.3.3 Lớp thanh mạc (vỏ ngoài)
Lớp thanh mạc là một màng liên kết thưa. Cấu tạo của phế quản gốc tương tự như
khí quản. Ðiểm khác:
Vòng sụn không liên tục, bao toàn bộ chu vi lòng phế quản .
Cơ trơn: tạo thành một lớp cơ bao toàn bộ chu vi lòng phế quản (Hồ Thị Hà,
2008).
2.4 Phổi
2.4.1 Đường dẫn khí
Phổi phải chia thành 3 thùy, phổi trái chia thành 2 thùy. Mỗi thùy được chia
thành những khối nhỏ được gọi là tiểu thùy phổi, tiểu thuỳ phổi là đơn vị cấu tạo
và có chức năng của phổi. Mỗi lá phổi được bọc bởi một màng liên kết mỏng gọi
là màng phổi. Khí quản chia thành 2 phế quản gốc, mỗi phế quản gốc đi vào một
lá phổi. Phế quản gốc phải chia 3 nhánh, phế quản gốc trái chia 2 nhánh, mỗi
nhánh đi vào một thùy phổi. Trong mỗi thùy phổi, các phế quản tiếp tục phân
nhánh nhiều lần theo cách phân đôi và nằm trong các vách liên kết giữa các tiểu
thùy phổi được gọi là phế quản gian tiểu thùy. Các nhánh phế quản gian tiểu thùy
cùng với các nhánh động mạch phổi đi kèm tiếp tục phân nhánh và đi vào mỗi
tiểu thùy phổi ở đỉnh của tiểu thùy. Tiểu thùy phổi hình tháp, có đỉnh hướng về
phía rốn phổi, đáy hướng về phía bề mặt phổi. Các tiểu thùy được ngăn cách với
nhau bởi những vách liên kết mỏng. Nhánh phế quản khi đi vào tiểu thùy phổi
được gọi là tiểu phế quản. Tiểu phế quản tiếp tục phân nhánh để tạo thành các
tiểu phế quản tận, tiểu phế quản tận phân nhánh tạo thành các tiểu phế quản hô
hấp rồi ống phế nang và cuối cùng tạo thành các phế nang. Nhánh động mạch
phổi đi kèm với tiểu phế quản cũng phân nhánh nhiều lần và cuối cùng tạo thành
một lưới mao mạch phong phú bao quanh các túi phế nang gọi là lưới mao mạch
hô hấp.
2.4.1.1 Cấu tạo phế quản
Cấu tạo phế quản không hoàn toàn giống nhau trong suốt chiều dài của cây
phế quản, chúng dần dần có sự thay đổi cùng với sự giảm của đường kính ống và
sự mỏng dần của thành phế quản. Về cấu tạo, các phế quản lớn, nhỏ đều có cấu
tạo tương tự nhau.
5
Lớp niêm mạc: niêm mạc có nhiều nếp gấp được phủ bởi lớp biểu mô trụ
giả có lông rung. Lớp đệm là mô liên kết thưa, đặc biệt có nhiều sợi chun. Dưới
lớp đệm còn có lớp cơ trơn nằm giữa lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc. Các tế
bào cơ trơn tạo thành bó, xếp theo hướng vòng được gọi là lớp cơ vòng
Reissessen.
Lớp dưới niêm mạc : Có chứa những mảnh sụn trong không đồng đều, phân
bố xung quanh đường kính phế quản và một số tuyến tiết chất nhầy và tuyến pha.
2.4.1.2 Cấu tạo của tiểu phế quản và tiểu phế quản tận
Khác với phế quản, cấu tạo của các tiểu phế quản không có sụn và tuyến.
Thành của tiểu phế quản gồm 2 lớp:
Lớp biểu mô: Biểu mô phủ thành tiểu phế quản là biểu mô đơn trụ có lông
rung với số lượng tế bào đài giảm nhiều. Ở tiểu phế quản tận là biểu mô đơn hợp
có lông rung không có tế bào đài.
Lớp đệm: Là mô liên kết chứa nhiều sợi chun và những tế bào cơ trơn xếp
theo hướng vòng tạo thành cơ Reissessen, ở tiểu phế quản tận lớp cơ này mỏng,
đứt quãng, không rõ.
2.4.2 Phần hô hấp
Phần hô hấp là nơi xảy ra sự trao đổi khí giữa máu trong các mao mạch hô
hấp với không khí trong lòng các túi phế nang.
2.4.2.1 Tiểu phế quản hô hấp
Là ống chuyển tiếp giữa phần dẫn khí và phần hô hấp. Cấu tạo tiểu phế quản
hô hấp giống như tiểu phế quản tận, nhưng thành ống không liên tục, gián đoạn
do thành ống có những chỗ phình ra tạo thành phế nang. Toàn bộ những ống phế
nang xuất phát từ một tiểu phế quản hô hấp được gọi là chùm phế nang.
2.4.2.2 Ống phế nang
Là đoạn ống tiếp nối với tiểu phế quản hô hấp. Ống phế nang chia nhánh
hình thành những chùm ống phế nang. Thành của ống phế nang phình ra thành
những túi gọi là túi phế nang và phế nang.
2.4.2.3 Túi phế nang và phế nang
Túi phế nang được tạo thành bởi một số phế nang (2- 4 phế nang). Phế nang
là những túi hở hình đa diện, miệng túi mở vào ống hay túi phế nang. Các phế
nang được ngăn cách với nhau bởi một lớp mô liên kết mỏng được gọi là vách
gian phế nang. Hai phế nang kề bên có thể thông nhau qua lỗ phế nang.
6
Cấu tạo thành phế nang: Thành phế nang được lợp bởi một lớp biểu mô đặc
biệt rất mỏng, nằm trên màng đáy được gọi là biểu mô hô hấp, gồm 2 loại tế bào:
+ Phế bào I (tế bào phế nang dẹt): Là những tế bào dẹt, rất mỏng, chiếm số
lượng nhiều nhất. Nhân dẹt nằm ở phần trung tâm tế bào, phần bào tương xung
quanh nhân mỏng trải rộng trên màng đáy. Trong bào tương chứa nhiều túi vi ẩm
bào. Phế bào I bao phủ 97% diện tích bề mặt phế nang. Các phế bào I liên kết với
nhau bằng những thể liên kết.
+ Phế bào II (tế bào chế tiết): Là những tế bào hình đa diện hoặc hình cầu,
nằm rải rác hoặc thành từng đám (2 - 5 tế bào) lồi vào lòng phế nang, thường
phân bố gần miệng phế nang, nơi chuyển tiếp từ phế nang này sang phế nang bên
cạnh (Hồ Thị Hà, 2008).
2.5 Thận
Ở gia súc thận là một cơ quan hình hạt đậu, có một bờ lồi và một bờ lõm. Ở
bờ lõm, có một chỗ lõm sâu gọi là rốn thận, tĩnh mạch thận từ trong thận đi ra
ngoài và niệu quản thông với bể thận. Ở bên trong rốn thận, bể thận chia thành 2
nhánh dài và lớn gọi là những đài thận lớn, những nhánh này lại chia thành những
nhánh nhỏ ngắn hơn gọi là những đài thận nhỏ.
- Vùng vỏ thận được chia làm ba phần: phần giáp vỏ là một lớp nhu mô thận
mỏng nằm sát với vỏ xơ và ở bên ngoài đỉnh các tia tủy (tháp Ferrein); mê đạo là
phần nhu mô thận chen vào giữa các tia tuỷ và cột thận (còn gọi là trụ Bertin) là
phần nhu mô thận chen vào giữa các tháp thận (tháp Malpighi).
- Nhu mô thận được tạo thành bởi những đơn vị cấu tạo và hoạt động chức
năng gọi là ống sinh niệu. Mỗi thận có khoảng 1 - 4 triệu ống sinh niệu. Các ống
sinh niệu được vùi trong một mô liên kết gọi là mô kẽ. Cấu tạo mỗi đoạn ống sinh
niệu được biệt hoá khác nhau để đảm nhiệm chức năng riêng. Mỗi đoạn của một
ống sinh niệu hoặc của các ống sinh niệu khác nhau nằm ở các vị trí khác nhau
trong nhu mô thận.
- Vùng tủy cấu tạo bởi 6-10 khối hình tháp gọi là tháp thận, đỉnh hướng về
phía bể thận, đáy quay về phía bờ cong lồi của thận. Ở đỉnh mỗi tháp thận có 20-
25 miệng những ống gọi là ống nhú thận mở vào đài thận nhỏ. Từ mặt đáy mỗi
tháp thận, vùng tủy có những khía dọc (khoảng 500 khía) tỏa ra vùng vỏ theo
hướng nan hoa. Quan sát bằng kính hiển vi quang học, mỗi khía dọc ấy gọi là tia
tủy, là một khối hình tháp nhỏ, cao, đáy nằm trên đáy tháp thận. Mỗi khối hình
tháp nhỏ ấy gọi là tháp Ferrein.
7
2.5.1 Tiểu cầu thận
Tiểu cầu thận là một khối tròn, chứa chùm mao mạch Malpighi, được bọc
ngoài bởi một lá thành lợp bởi một biểu mô phủ đơn lát, bao quanh chùm mao
mạch Malpighi là tế bào có chân được gọi là lá tạng, giữa lá tạng và lá thành
(màng ngoài của nang Bowman được gọi là xoang Bowman, nơi nước tiểu sơ
khởi sẽ được thành lập). Tiểu cầu thận gồm có hai cực là cực mạch và cực niệu.
Cực mạch khởi đầu bằng một động mạch dẫn đến đi vào xoang Bowman, tiểu
động mạch dẫn đến chia thành 2-5 nhánh, từ đó tạo thành những búi mao mạch.
Các búi mao mạch này sẽ hợp nhau lại bằng một nhánh động mạch đi, như vậy
cực mạch gồm có động mạch đến và động mạch đi nằm ở tiểu cầu thận.
Tế bào có chân là những tế bào phủ toàn bộ mặt ngoài của màng đáy, từ một
tế bào có chân sẽ phân ra các nhánh sơ cấp, từ các nhánh sơ cấp này sẽ phân ra
các nhánh thứ cấp đến bọc quanh các màng đáy như các ngón tay bọc quanh một
khối. Rãnh của các ngón tay này rộng chừng 25 nm và được xem như là khe lọc.
Như vậy máu trong lòng mao mạch Malpighi sẽ qua lỗ thủng của tế bào nội mô,
màng đáy và khe lọc của tế bào có chân.
2.5.2 Ống lượn gần
Ống lượn gần bắt đầu từ cực niệu của tiểu cầu thận, các ống này thường
được lợp bởi hàng tế bào hình khối vuông đứng trên một màng đáy, nhân nằm ở
giữa. Ống lượn gần rất dài và chạy vòng quanh trong vùng vỏ. Về mặt cực đáy
của tế bào ống lượn gần bào tương gấp lại thành từng nếp gọi là mê đạo đáy, bên
trong chứa nhiều ty thể, mê đạo đáy được xem như là có vai trò vận chuyển các
chất tái hấp thụ xuyên qua gian chất thận, sự vận chuyển này cần năng lượng do
ATP cung cấp.
2.5.3 Quai Henle
Quai Henle có hình chữ U, gồm có 3 phần: phần thứ nhất đi xuống dày với
cấu tạo giống như ống lượn gần. Phần thứ hai mảnh, đi xuống rồi lại đi lên tạo
thành hình chữ U. Phần thứ ba đi lên dày, có cấu trúc giống như ống lượn xa. Tất
cả các phần của quai Henle đều nằm trong miền tủy.
2.5.4 Ống lượn xa
Tiếp nối phần đi lên của quai Henle được bọc ngoài bởi một màng đáy. Tế
bào của biểu mô ống lượn xa thường ít bờ bàn chải, có lòng rộng hơn. Người ta
thấy rằng ống lượn xa có nhiều bộ golgi ở vùng đáy, ống lượn xa ngắn hơn ống
lượn gần và cũng chạy vòng trong vùng vỏ. Có một điểm mà ống lượn xa đến tiếp
8
xúc với động mạch dẫn đi của tiểu cầu thận gọi là vết đặc (macula densa), vai trò
của vết đặc có lẽ là duy trì áp suất thẩm thấu của dịch trong lòng ống lượn xa.
2.5.5 Ống góp
Thâu nhận nước tiểu từ ống lượn xa và chảy vào ống góp, Ống này sẽ mở
rộng vào đỉnh của tháp thận. Những ống góp nhỏ có đường kính chừng 40 nm
nhưng những ống lớn hơn ở vùng đỉnh của tháp thận có thể lên tới 200 nm. (Hồ
Thị Hà, 2008).
2.6 Bàng quang
Là một túi tròn dài. Đầu trước tròn to, đầu sau thon nhỏ, cổ bàng quang
được nối tiếp với niệu đạo qua cơ thắt niệu đạo – cổ bàng quang.
Ở con đực bàng quang nằm ở phần trước của xương chậu, dưới trực tràng.
Ở con cái bàng quang nằm dưới tử cung, âm đạo, trên xương háng (Nguyễn Đình
Nhung, 2005)
Cấu tạo vi thể
Lớp niêm mạc: có nhiều nếp gấp, cấu tạo biểu mô phủ kép biến dị, phía trên
có lớp tế màng láng có chức năng không thẩm thấu để chống sự hấp thu nước tiểu
trở lại, mỗi tế bào thường có hai nhân phủ kính kể cả khi bàng quang căng nước,
kế là lớp tế bào hình thoi vuông góc lớp trên, phía dưới là lớp tế bào đa giác.
+ Lớp đệm có nhiều sợi keo, ít sợi chun.
+ Dưới lớp đệm là tầng cơ niêm mỏng.
+ Hạ niêm mạc là tổ chức liên kết thưa.
Gồm 3 lớp cơ trơn: cơ dọc trong, cơ vòng giữa và cơ dọc ngoài.
Lớp giữa dày và liên tục. Giữa các lớp không có tổ chức liên kết, các sợi cơ
đi chéo nhau làm các lớp nối chặt lại với nhau.
Cổ bàng quang có vòng cơ to tạo thành vòng cơ co thắt vững chắc, luôn thắt
chặt lại chỉ mở khi nước tiểu chứa đầy (đống mở theo phản xạ).
Lớp ngoài: có cấu tạo là tổ chứa liên kết (Nguyễn Xuân Hoạt, 1978).
2.7 Tinh hoàn
Nhu mô tinh hoàn tạo bởi những ống sinh tinh uốn lượn, đường kính rộng
có thể đến 150 µm. Trong quãng giữa 2 bức ngăn, các ống này xếp khít nhau, có
nhiều gấp khúc, nhiều phân nhánh và hợp lại thành một ống chung, đến đây các
ống trở thành thẳng đổ vào những khe nhỏ gọi là lưới tinh hoàn, tiếp theo lưới
tinh hoàn là những ống dẫn ra, ống dẫn ra này đổ vào một ống lớn gọi là ống mào
tinh. Toàn bộ ống dẫn tạo thành đầu của mào tinh, còn ống dẫn tinh thì tạo thành
thân của mào tinh.
9
Thân của ống sinh tinh gồm tế bào tinh và những tế bào Soma, xếp lẫn lộn
với nhau khi con vật còn sống trong bào thai. Về sau do quá trình biệt hóa, các tế
bào tinh tạo ra biểu mô tinh của ống sinh tinh, còn tế bào Soma thành hợp bào
dinh dưỡng. Trong bào tương của hợp bào dinh dưỡng chứa các tế bào biểu mô
tinh, từ tinh nguyên bào đến tinh trùng. Hợp bào dinh dưỡng từng nơi đâm vào
ống sinh tinh, những mõm bào tương trông giống như tế bào. Tinh trùng đã được
hình thành thường đến bám vào các mõm bào tương (tế bào Sertolie).
Tế bào Sertolie là loại tế bào lớn, nằm xen kẻ với những tế bào dòng tinh ở
trong thành ống dẫn tinh, dưới kính hiển vi quang học, nó ở vị trí rìa ống, cạnh
tinh nguyên bào và chỉ thấy rõ hình thái của nhân. Nhân của tế bào này đa dạng,
có thể hình trứng, hình tam giác không đều, hình thoi. Tế bào Sertolie có chức
năng dinh dưỡng và bảo vệ tế bào dòng tinh. Tùy vào giai đoạn của quá trình sinh
tinh mà tế bào Sertolie thấy rõ hay không rõ.
Thành của ống dẫn tinh là nơi diễn biến của quá trình sinh tinh. Quá trình này
chia làm 4 giai đoạn: giai đoạn sinh đẻ - giai đoạn lớn lên – giai đoạn thành thục –
và giai đoạn tạo hình.
2.7.1 Sự sinh tinh
Các tế bào tinh trùng, tiền tinh trùng, tinh bào 2, tinh bào 1 đều do tinh
nguyên bào sinh ra, đều là những dạng phát triển và tiến hóa của tinh nguyên bào.
Chúng hợp lại thành một dòng tinh bào. Mỗi tinh bào nguyên thủy sinh ra một
dòng tinh bào của nó. Các dòng tinh bào đều song song tồn tại trên thành ống sinh
tinh theo cách thức như nhau:
Một tinh bào nguyên thủy bắt đầu phân bào, sinh ra một dòng tinh bào tiến hóa
dần từ tinh bào một đến tinh bào hai, tiền tinh trùng rồi tinh trùng.
Dòng tinh trùng ấy chưa phát triển đến giai đoạn cuối cùng của nó thì một tinh
nguyên bào khác, ở gần đó đã bắt đầu phân bào và sinh ra một dòng tinh bào thứ
hai, tiến hoá qua các giai đoạn như trên, dòng tinh bào thứ 2 này đẩy dòng tinh
bào thứ nhất về phía lòng ống sinh tinh. Dòng thứ 2 này chưa phát triển đến giai
đoạn cuối cùng của nó thì một dòng tinh bào nguyên thủy thứ ba bắt đầu phân
bào, sinh ra một dòng tinh bào thứ ba và cũng đùn đẩy hai dòng tinh bào trước về
lòng ống. Và cứ như thế đến dòng thứ tư, năm, sáu
2.7.2 Tổ chức kẻ
Giữa các ống sinh tinh là tổ chức kẻ chức mạch quản và thần kinh. Trong tổ
chức kẻ này có những nhóm tế bào đa giác, bào tương có hạt gọi là tế bào kẻ hay
tế bào Leydig. Tế bào Leydig thường tập trung từng đám, cùng với mao mạch
10
hợp thành tuyến kẽ, một loại tuyến nội tiết kiểu tản mạn ở trong mô liên kết thưa
xen giữa các ống sinh tinh trong tinh hoàn.
11
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
3.1 Phương tiện
3.1.1 Địa điểm thực hiện
Đề tài được thực hiện tại phòng Mô học khoa Nông Nghiệp và Sinh Học
Ứng Dụng, trường đại học Cần Thơ.
3.1.2 Dụng cụ, trang thiết bị và hóa chất
Dụng cụ
- Thủy tinh: chai, phễu, ống đong, lame và lamelle
- Dụng cụ giải phẫu: dao, kéo, kẹp
- Các dụng cụ khác: đèn cồn, khay mổ, kim mũi giáo, kim mũi nhọn, ống
nhỏ giọt…
- Máy cắt vi mẫu
- Kính hiển vi quang học
- Máy ảnh kỹ thuật số
- Tủ hấp, tủ sấy, bếp tải
- Bản và thanh đúc mẫu
Hóa chất
- Cồn, xylen, formol, paraffin
- Phẩm nhuộm: Hematoxylin, Eosin Y
- Keo Canada balsam
- Acid Acetic đậm đặc
- Nước cất
3.2 Phương pháp tiến hành
3.2.1 Lấy mẫu
Chọn thỏ trưởng thành có trọng lượng 2kg, khỏe mạnh, giết thỏ bàng cách
hủy não, sau đó tách nội tạng ra khỏi cơ thể, dùng kéo giải phẫu cắt lấy các bộ
phận: lưỡi, phổi, thận, bàng quang.
Chọn chuột đồng khỏe mạnh, giết bằng cách hủy não, sau đó lấy dịch hoàn
và khí quản.
Heo vừa giết mổ, lấy mẫu lưỡi.
3.2.2 Cố định mẫu
Cố định mẫu bằng dung dịch formol 10%. Mẫu sau khi lấy phải được cố
định ngay để tránh tình trạng bị thoái hóa, tự hủy hay biến dạng do một số phản
ứng sinh hóa của những enzyme nội bào hay do điều kiện ngoại cảnh tác động
12
như vi sinh vật. Người ta sử dụng formol là thông dụng nhất do formol có những
đặc tính:
Vận tốc xuyên thấm, cố định mẫu nhanh.
Không làm co mẫu nhưng làm cho mẫu cứng lại.
Bảo quản tốt cấu trúc tế bào.
Làm tăng sự kiềm tính của cấu trúc khi nhuộm.
Mục đích giai đoạn này là giết thật nhanh tổ chức nhưng vẫn giữ nguyên
hình dạng, cấu trúc bên trong như lúc tổ chức còn sống. Ban đầu ngâm nguyên
các phần trong dung dịch formol 10% trong 15’ để ổn định tổ chức cho dễ cắt.
3.2.3 Lấy mẫu nhỏ
Cắt nhỏ mẫu với kích thước khoảng 0,5 cm x 0,5 cm x 1 cm. Tiếp tục cố
định mẫu trong formol 10%, thời gian cố định khoản 24 giờ nhưng thời gian này
còn tùy thuộc vào nồng độ dung dịch, vận tốc xuyên thấm, vận tốc cố định của
dung dịch, nhiệt độ môi trường, độ dày mỏng của mẫu và cấu trúc từng loại
mẫu…
3.2.4 Rửa nước
Mẫu sau khi được cố định xong phải được rửa lại bằng nước sạch, ta đặt
mẫu vào trong chậu nước dưới vòi chảy nhẹ trong 2 giờ.
3.2.5. Khử nước
Dùng các lọ cồn với nồng độ tăng dần từ 70
0
, 80
0
, 90
0
, 100
0
, 100
0
để khử
nước, tránh tổ chức bị mất nước đột ngột co rúm lại. Ngâm mỗi lọ trong 2 giờ.
Muốn khử nước đạt kết quả cao cần chú ý:
- Hai lọ cồn tuyệt đối cuối cần đảm bảo nồng độ.
- Mật độ mẫu trong lọ không nên nhiều tránh làm loãng nồng độ ảnh hưởng
đến sự rút nước từ mẫu ra ngoài.
- Thường xuyên lắc đầu lọ ngâm mẫu để tránh nước thoát ra ngoài từ trong
mẫu lắng xuống ở đáy lọ.
- Để rút ngắn thời gian rút nước nhưng vẫn đảm bảo đạt yêu cầu nên tăng số
lọ ngâm hơn tăng thể tích cồn tuyệt đối.
3.2.6. Tẩm dung môi trung gian
Paraffin không tan trong cồn, để paraffin ngấm vào tổ chức hoàn toàn, ta sử
dụng xylen làm dung dịch trung gian. Đồng thời xylen còn làm trong mẫu và tan
mỡ. Nó có thể làm cứng mẫu nếu ngâm lâu. Chuyển mẫu qua 2 lọ xylen, mỗi lọ
ngâm trong 45’.
13
3.2.7 Tẩm paraffin
Chuyển mẫu từ lọ xylen cuối cùng vào các lọ có chứa paraffin đang lỏng đặt
trong tủ sấy ở nhiệt độ 60
0
C. Chuyển mẫu qua lọ paraffin khác nhau, mỗi lọ tẩm
trong 2 giờ.
3.2.8 Đúc khuôn
3.2.8.1 Chuẩn bị
- Chùi sạch thanh kim loại và bản kim loại.
- Dùng các thanh kim loại gãy góc xếp thành hình chữ nhật có kích thước
tùy ý muốn.
- Đèn cồn, kẹp gắn mẫu.
3.2.8.2 Tiến hành
- Lấy lọ paraffin đang lỏng đổ vào khuôn. Dùng kẹp hơ nóng trên ngọn đèn
cồn, gấp mẫu vào khuôn và định vị cấu trúc không gian của mẫu. Sau 15’ ta tách
khối paraffin ra khỏi thanh kim loại và đúc mẫu khác.
- Dán nhãn, ghi ký hiệu vào khối mẫu, sau 24 giờ tiến hành cắt mẫu.
3.2.9 Cắt mẫu
3.2.9.1 Chuẩn bị
Dao cắt vi mẫu: chuẩn bị dao mới để cắt những mẫu dai và cứng.
3.2.9.2 Tiến hành
Trước khi cắt mẫu cần kiểm tra lại máy cắt chặt chẽ.
Gắn mẫu lên trục mang mẫu, siết chặt ốc.
Gắn dao nghiêng khoảng 15
0
đến 20
0
.
Hình 3.1 Khuôn đúc Leuckart
Thanh kim
loại
Bảng kim
loại
Khối paraffin
14
Định hướng khối và dao trên máy cắt mỏng cho thích hợp. Chú ý nếu
muốn cắt mảnh cát thành dãy thì phải làm cho hai mặt trên và dưới của mặt
cắt song song với nhau.
Điều chỉnh ốc vi cấp của máy cắt, cắt mẫu thử ở 10 μm rồi giảm đến độ
mỏng trong khoảng 5-7 μm .
3.2.10 Tải, dán, hấp mẫu
3.2.10.1 Chuẩn bị
- Bếp tải và chậu nước ấm.
- Lame sạch
3.2.10.2 Tiến hành
- Dùng mũi giáo đỡ nguyên băng mẫu cho vào chậu ước ấm.
- Khi paraffin đã căng, lấy lame sạch, nghiêng nhẹ trên mặt nước rồi vớt
những mẫu đã chọn đúng vị trí giữ lame.
- Nghiêng lame cho ráo nước, cho vào tủ hấp mẫu ở 40
0
C trong 30’.
3.2.11 Nhuộm mẫu
3.2.11.1 Chuẩn bị
Năm lọ xylen, năm lọ cồn tuyệt đối, hai lọ cồn 90
0
, hai lọ cồn 80
0
, một lọ
cồn 70
0
, một lọ nhuộm Hematoxylin, một lọ Eosin nhuộm, hai chậu nước sạch,
giấy thấm.
15
3.2.11.2 Tiến hành
Qui trình nhuộm mẫu được thực hiện theo sơ đồ trên với ý nghĩa như sau:
- Cho lame từ tủ hấp lần lượt từ các lọ xylen 1, lọ xylen 2, nhằm loại
paraffin.
- Ngâm mẫu trong cồn có nồng độ giảm dần: 100
0
, 90
0
, 80
0
để khi nước
thấm vào mẫu rút xylen ra khỏi mẫu, sẽ không làm mẫu biến dạng khi nước thấm
vào đột ngột.
- Rửa nước để loại bỏ cồn trong mẫu.
- Hematoxylin: nhuộm nhân.
- Ngâm lame trong nước 10’ để rữa sạch mẫu.
- Eosin: nhuộm tế bào chất.
- Nhúng qua cồn 70
0
, 80
0
, 90
0
, 100
0
để loại bỏ hết màu dư, khử nước đồng
thời rửa bớt Eosin thừa trong mẫu (mỗi lọ 1’)
- Ngâm xylen để loại hết cồn ra khỏi mẫu.
Hình 3.2 Sơ đồ qui trình nhuộm mẫu
Cồn 90
0
1’
Cồn 100
0
1’
Cồn 100
0
1’
Cồn 100
0
1’
Xylen I
2’
Xylen II
2’
Xylen III
2’
Xylen 1
20’
Xylen 2
1’
Cồn 100
0
1’
Cồn 100
0
1’
Hematoxylin
5’
Rữa nước
5’
Cồn 80
0
1’
Cồn 90
0
1’
Rữa nước
10’
Eosin
15-20’
Cồn 70
0
1’
Cồn 80
0
1’