Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Chăm Bà Ni ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.41 KB, 22 trang )

Mục lục
A MỞ ĐẦU
B NỘI DUNG
Chương I : Khái quát về Chăm bà Ni ở Việt Nam
1. Lịch sử hình thành
2. Văn hóa tính ngưỡng của người Chăm Bà Ni – những yếu tố bản địa
Chương II: Đặc trưng về tục cưới hỏi Chăm Bà Ni
1. Quan niệm về hôn nhan gia đình của Chăm Bà Ni
2. Giai đoạn tìm hiểu trước hôn nhân
3. Những nghi lễ cưới hỏi chính
4. Hoạt động sau khi cưới
5. Sự bãi hôn và đính hôn
6. So sánh với tục cưới hỏi của Chăm Islam và chăm Bà La Môn
Chương III: Những biến đổi trong hôn nhân của người Chăm Bà Ni ngày nay
1. Y phục cưới
2. Món ăn trong lễ cưới
3. Thay đổi về nhận thức, hủ tục lạc hậu trong hôn nhân
C KẾT LUẬN
A MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay, tình yêu và hôn nhân luôn là vấn đề quan trọng và thiết thực
trong cuộc sống. Nam và nữ qua quá trình tự do tìm hiểu lâu dài sẽ đi đến một
quyết định lớn là tổ chức hôn lể, cưới hỏi. Nam và nữ đều được tự do trong
tình yêu, tự nguyện và bình đẳng trong hôn nhân. Người Chăm là bộ phận duy
nhất ở Việt Nam theo tín ngưỡng Hồi giáo, văn hóa Chăm đã mang nhiều nét
đặc sắc lại them sự đa dạng trong tín ngưỡng Hồi giáo đã làm cho tọc người
này có nhiều đặc biệt nhất là trong tục cưới hỏi. Từ việc giáo lý Hồi giáo luôn
dành ưu thế tuyệt đối cho đàn ông trong hôn nhân thì vào người Chăm Bani,
việc coi trọng đàn ông đã bị biến thể theo chế độ mẫu hệ vốn tồn tại ở Việt
Nam. Nữ thường là người phải ở lại chăm lo cho nhà chồng nhưng đến với
Chăm BaNi ta sẽ thấy được nét khác biệt về tục lệ này, chú rể sẽ đến nhà cô
dâu thong qua lễ rước rễ và người sẽ không quan hệ trong 3 ngày. Những tục lệ


khác biệt này đã làm cho tục lệ cưới hỏi Chăm BaNi trở thành chút đặc trưng.
Trong nghi lễ cưới hỏi của Chăm BaNi cũng có rất nhiều điều thú vị, đã 1 Phần
bị “bản địa hóa” so với hồi giáo Thế giới. Để hiểu rõ nghi lễ cưới hỏi của
người Chăm BaNi và sự khác biệt của tục cưới hỏi này với Chăm Islam và
Chăm Balamon như thế nào thì sau đây nhóm 4 sẽ trình bày đôi nét.
B NỘI DUNG
Chương I. Khái quát về Chăm Bà Ni ở Việt Nam
Đồng bào Chăm, còn gọi là người Chàm, là một trong số 54 dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam; là một dân tộc có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu
đời, rất đa dạng và phong phú. Một trong những cái đa dạng và phong phú của
nền văn hóa ấy là người Chăm, một dân tộc có chữ viết sớm nhất ở nước ta;
truyền thống văn hóa ấy đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa,
đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. Bản sắc và truyền thống
của văn hóa Chămpa biểu hiện đặc trưng cho lĩnh vực tín ngưỡng – tôn giáo,
thông qua các sinh hoạt mang tính phong tục, lễ hội truyền thống và tín ngưỡng
cổ của cộng đồng dân tộc này
Người Chăm là dân tộc duy nhất ở Việt Nam theo Hồi giáo. Hồi giáo thế giới
có những luật lệ khắt khe nhưng khi du nhập vào cộng đồng người Chăm nó đã
bị biến đổi rất nhiều và mang đậm tính nhân văn tộc người bởi sức sống mãnh
liệt của truyền thống văn hóa bản địa. Đó chính là đặc trưng văn hóa Chăm –
Nền văn hóa gắn liền và bị chi phối một cách mạnh mẽ bởi sự đan xen và dung
hòa của tín ngưỡng và tôn giáo.
1 Lịch sử hình thành
Sau khi nhà nước Chiêm Thành suy vong số đông dân Chiêm Thành lưu
tán sang Campuchia bằng 3 con đường lưu trú chính là vượt Trường Sơn sang
Stung-cheng ; theo đường bộ vào phía Nam rồi ngược sông Mê-Kông sang
Công-pông-chàm , theo đường biển xuống phía Nam vòng qua mũi Cà Mau
sang Rê-an, Căm-pốt . Tại Campuchia người Chăm tiếp xúc với người Mã Lai
theo Hồi giáo nên dần cải đạo Bàlamôm để theo Hồi giáo . Sau đó trở về quê
hương vận động bà con bỏ đạo Bàlamôm để theo Hồi giáo nhưng vì người

Chăm theo chế độ mẫu hệ với tôn giáo chính là Bàlamôm nên việc vận động
không mấy kết quả .
Theo ghi chép của Tống sử, từ thế kỷ 10 đạo Hồi đã được truyền vào Chăm Pa,
tuy nhiên từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15 đạo Hồi vẫn chưa phải là tôn giáo chính
thống, từ sau khi Chăm Pa suy vong, nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền
thống là đạo Bà La Môn để theo Hồi giáo, từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể
trong cộng đồng người Chăm và chính từ thời điểm này, sự giao hòa giữa đạo
Hồi và đạo Bà La Môn đã hình thành ra một tôn giáo mới của người Chăm, đó
là đạo Bani (đạo Bà Ni)
Do vị trí địa lý , hoàn cảnh truyền đạo , do điều kiện sống và mức độ giao
lưu với bên ngoài , nhất là với thế giới Hồi giáo đã hình thành hai khối người
Chăm theo Hồi giáo ở Việt Nam:
- Hồi giáo miền Trung Việt Nam gọi là Hồi giáo Chăm Bani. Đây là
nhóm Hồi giáo không chính thống vì đã pha lẫn với yếu tố sinh hoạt
và tôn giáo bản địa. Các lễ thức được tiếp biến cho phù hợp với chế độ
gia đình mẫu hệ và các lễ liên quan đến chu kỳ đời sống của con người
và các lễ thức nông nghiệp, không có liên hệ với Hồi giáo thế giới. Có
thể nói rằng, Hồi giáo Bàni ở Việt Nam là tôn giáo đặc trưng chỉ có ở
Việt Nam, nó gắn chặt với dân tộc Chăm, là một phần tạo nên bản sắc
văn hoá tôn giáo của người Chăm, mặt khác chính bản sắc văn hoá của
người Chăm đã có tác động làm "mềm hoá" tính cứng nhắc của Hồi
giáo, làm cho hệ phái Hồi giáo ở Việt Nam phong phú và đa dạng.
- Hồi giáo ở miền Nam Việt Nam là Hồi giáo Chăm Islam, theo Hồi
giáo chính thống, thuộc hệ phái Safi'i dòng Sunni, không bị pha trộn
với phong tục, tập quán, tín ngưỡng cũ và thường xuyên liên hệ với
thế giới Hồi giáo Campuchia và Malaysia.
Địa bàn sinh sống chủ yếu của người Chăm Bà Ni là khu vực duyên hải Nam
Trung Bộ, tập trung đông nhất ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
2. Văn hóa tính ngưỡng của người Chăm Bà Ni – những yếu tố bản địa
Người Chăm theo Hồi giáo ở Ninh Thuận và Bình Thuận là những người

“Hồi sớm”, tức là đến sớm mà không sâu, căn bản vẫn là Chăm, lưu giữ và pha
trộn nhiều tập tục Hindu trong tín ngưỡng và cấm kị Hồi giáo. Họ không theo
đầy đủ, không đúng quy tắc và không liên hệ gì với thế giới Hồi giáo cũng như
với những đồng đạo của mình ở miền Nam. Họ không biết giáo lý Hồi giáo,
không biết chữ Arab, không thông hiểu kinh Coran (chỉ một vài người đứng đầu
có thể đọc được kinh Coran bằng tiếng Arab nhưng không phải tiếng Arab hiện
đại).
Cộng đồng người Chăm ở miền Trung hình thành hai thực thể khác nhau, sống
bên cạnh nhau. Người Chăm theo tôn giáo truyền thống (Hindu giáo) tự gọi
mình là Chăm Bàlamôn hay chăm Jat (tiếng Phạn Jati = gốc, nguồn gốc), còn
người Chăm theo Hồi giáo tự gọi mình là Chăm Bàni (tiếng Arab thì Beni =
con, tức là con cháu của thánh Allah) và gọi người Chăm Jat là Chăm Kaphir
“vô đạo”… Mỗi nhóm theo những phong tục, tập quán, quy tắc khác nhau…
Tuy nhiên, họ không có thái độ kỳ thị nhau, cùng tổ chức và tham dự lễ hội cổ
truyền: lễ Kate, Chabun và các nghi lễ truyền thống khác.
Lễ trưởng thành của phụ nữ Chăm Bà Ni – Một nghi lễ thể hiện sự dung hợp
của người Chăm Bà Ni với văn hóa Chăm bản địa
Khác với người Chăm Islam ở Nam Bộ, người Chăm Bàni ở Ninh Thuận và
Bình Thuận tin vào Allah như một đấng tối cao nhưng không phải là duy nhất.
Họ vẫn tôn thờ các vị thần trong tín ngưỡng truyền thống như Thần Mưa, Thần
Núi, Thần biển Họ vẫn thực hiện các nghi lễ nông nghiệp theo tín ngưỡng dân
gian như lễ cầu xin thần Mẹ Xứ Sở (Rija Nưgar), lễ cầu mưa (Yor Yang), lễ cầu
thần Sóng Biển (Plao Pasah), lễ chặn dầu nguồn (Kap Hlâu Krong) Người
Chăm Bàni cầu nguyện 3 lần/ ngày; không nhịn ăn ban ngày vào tháng
Ramưwan mà chỉ có giáo sĩ nhịn ăn ba ngày đầu tháng mà thôi. Họ cũng không
hành hương tới thánh địa La Mecque. Tính bản địa trong Hồi giáo của người
Chăm ở nước ta được xuất phát và gìn giữ bởi nền tảng văn hoá truyền thống
Chămpa cổ.
Chương II. Đặc trưng về tục cưới hỏi của người Chăm Bà
Ni

Với người Chăm Bà Ni những yếu tố văn hóa bản địa có ảnh hưởng rõ nét đến
các phong tục. Lễ nghi, tính ngưỡng của họ trong đó tục cưới hỏi là một ví dụ
điển hình cho sự dung hợp giữa yếu tố văn hóa Hồi giáo bị biến thể và văn hóa
bản địa ở nơi đây
1 Quan niệm về hôn nhân gia đình của người Chăm Bà Ni
Qui định của luật và giáo lý Hồi giáo buộc tín đồ Hồi giáo chung sống
với nhau phải thông qua lễ cưới hỏi, cho nên người Chăm hồi giáo nào chung
sống không thông qua lễ cưới hỏi thì họ gọi là “dì nà” là điều không tốt. Từ
quan niệm giáo lý hôn nhân đóng một vai trò khá quan trọng trong đời sống
người Chăm Hồi giáo, và có thể nói đó là tiêu chuẩn đầu tiên để làm thước đo
chuẩn mực của một người hồi giáo.
Người Chăm Hồi giáo Bà Ni coi sự độc thân là một tội lỗi, nên trong gia đình
thường gả con sớm.
Quan hệ nam nữ trước hôn nhân của người hồi giáo Bà Ni được quan niệm
giống như của những người theo đạo Bà La Môn. Nghĩa là bước đầu của lễ
thành hôn là một giai đoạn khó khăn, người ta thường dùng một danh từ có
nhiều nghĩa đó là danh từ “pa luak pa noih” (dạm hỏi) để chỉ: thầm kín, cần
nhiều tài khôn khéo, xã giao, hùng biện (dạm hỏi).
Cũng như người Chăm Bà La Môn, người Chăm Hồi Giáo Bà Ni quan niệm
người con gái thuộc nội tộc, con gái là nội tướng, có bổn phận nội trợ, quản lý
tài sản, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc chồng con, thờ cúng tổ tiên v.v Người
con gái ngoài bổn phận làm mẹ, làm vợ còn cả tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh
và rất hiếu khách. Quan niệm của người Chăm Hồi giáo Bà Ni cũng giống như
người Chăm Bà La Môn.
2 Giai đoạn tìm hiểu trước hôn nhân
Khi con gái trưởng thành, cha mẹ lo tìm kiếm trong làng hay vùng lân cận có
chàng trai nào xứng đáng với con mình chủ động tính toán việc chồng con cho
con mình bằng cách nhờ người mai mối (Ôn Binhuk) Qua dò la tìm hiểu nếu
cha mẹ đằng trai đồng ý thì định ngày cho phép bên gái cử một số đại diện lại
gia đình bên trai để làm lể hỏi. Cũng như lễ dạm hỏi của người Chăm Bà La

Môn giai đoạn dạm hỏi với mọi việc luôn diễn ra về đêm trong âm thầm. Khi có
kết quả tốt mới tiến hành vào ban ngày bằng lễ hỏi.
- Trước khi cưới
+ Trường hợp cô nàng không thích anh chàng, anh chàng lại mê cô nàng,
sự quyết định do cha mẹ đằng gái. Trường hợp trên có 2 cách giải quyết
thường thấy
• Cha mẹ đằng gái không đồng ý, hôn nhân sẽ không thành
• Cha mẹ đằng gái đồng ý, hôn nhân có thể thành vì theo phong tục của
người Chăm Bà Ni cha mẹ đặt đâu con người đó
• Nếu không thuyết phục được con gái thường xảy ra trường hợp ép
duyên con gái
+ Trường hợp 2 người xa lạ không hề yêu nhau. Hai bên cha mẹ tự kén
chọn, lứa tuổi cùng tốt môn đăng hộ đối, xứng đôi. Tiến hành công việc
cậy người làm mai mối dạm hỏi. Trong trường hợp nàu, duyên nợ hoàn
toàn do cha mẹ đặt
+ Trường hợp con trai để ý người con gái nhưng cha mẹ người con gái
khước từ, cha mẹ người con tán đồng, hôn nhân có thể thành dưới hình
thức không có đám linh đình mà theo hình thức tự ý, tức đi lén ( gọi là
“Nao Klek” ) sau ít lâu, chờ thời gian thuận tiện, cha mẹ đằng gái nhờ
người có uy tín dẫn 2 vợ chồng qua bên nhà trai.
+Trường hợp 2 bên cha mẹ đều không tán thành hôn nhân, có thể đôi trai
gái sẽ thoát ly gia đình để tự lập, nhưng thực ra trường hợp này rất hiếm
có trong người Chăm Bà Ni.
Đối với người Chăm, tuy rằng con trai được con gái cưới về nhà ở rể nhưng
người chủ động tìm kiếm và tán tỉnh phải là người con trai, cho đến khi nào hai
người yêu nhau, hiểu và hợp nhau rồi đi đến quyết định lấy nhau thì khi ấy,
người con gái mới thực hiện những tập tục cưới hỏi theo truyền thống.
Tóm lại: người Chăm Bà Ni trước khi tổ chức lễ hỏi hay lễ cưới phải có giai
đoạn quá trình tìm hiểu, để biết được thái độ của đôi trai gái, cũng như cha mẹ 2
bên để có hình thức lễ hỏi và lễ cưới phù hợp

3. Những nghi lễ cưới hỏi chính
Lễ Pa luak Pa Nôih (Dạm hỏi)
Cũng giống như người Chăm Bà La Môn, đây là giai đoạn hoạt động khó khăn
nhất của gia đình nhà gái. Mọi việc được tiến hành âm thầm bí mật, càng kín
đáo càng tốt. Vì e rằng câu chuyện mai mối không thành gây ảnh hưởng rất lớn
đối với gia đình và thân phận cuộc đời của người con gái. Quan niệm về phương
diện gia đình, về phương diện thân phận người con gái, về giai cấp và kể cả đức
tính cần có của người Chăm Hồi giáo Bà Ni cùng giống như quan niệm của
người Chăm Bà La Môn mà chúng tôi đã trình bày ở phần trên.
Khi con gái trưởng thành, cha mẹ lo tìm kiếm trong làng hay vùng lân cận có
chàng trai nào xứng đáng với con mình, chủ động tính toán việc chồng cho con
mình bằng cách nhờ ông mai mối (ôn binhuk) qua dò la, tìm hiểu.
Nếu cha mẹ đàng trai đồng ý thì định ngày cho phép bên gái cử một số đại diện
lại gia đình bên trai để làm lễ hỏi, cũng như lễ dạm hỏi ở người Chăm Bà La
Môn. Giai đoạn dạm hỏi mọi việc luôn luôn diễn ra về đêm, trong âm thầm. Khi
có kết quả tốt mới tiến hành ban ngày bằng lễ hỏi.
Lễ Nao pôih (Lễ hỏi)
Lễ hỏi của người Chăm Hồi giáo Bà Ni giống như lễ hỏi người Chăm Bà La
Môn, đây là giai đoạn mọi việc tiến hành bán công khai, tế nhị, nhưng sáng tỏ
và có nhiều triển vọng. Sau lễ dạm hỏi, nếu hai bên gia đình và hai dòng họ
đồng ý, thì nhà gái mang trầu cau đến nhà trai xin ấn định thời gian làm đám
hỏi. Đặc biệt lễ hỏi của người Chăm Hồi giáo Bà Ni khác với lễ hỏi của người
Chăm Bà La Môn là nhà gái không cần hỏi ý kiến của Thầy cả mà hai bên bàn
bạc thống nhất ngày đám hỏi.
Theo cổ tục, tới ngày ấn định nhà gái sửa soạn các lễ vật gồm các loại như
sacada hay còn gọi là pei saliya (làm bằng trứng gà, bột và đậu phộng được trộn
chung với nhau pha thêm nước dừa xong cho vào một cái tô đem chưng cách
thuỷ); pei nung (bánh tét), bánh truyền thống “nònya” (được làm bằng trứng gà
với bột nếp, hình bánh các loại “pì ngù” tức là các loại hoa, xong bỏ vào chảo
chiên); “pei mang” (giống bánh cốm của người Việt) và một số trái cây như

chuối, xoài, nho v.v và một ít rượu, đựng trong một cái “ciết” mang qua nhà
trai. Cùng đi với “ôn binhuk” (ông mai) còn có cha mẹ, cậu, dì và một số người
họ hàng thân tộc gần nhất. Bên nhà trai cũng mời họ hàng thân tộc gần gũi nhất
đến tiếp chuyện với đại diện họ nhà gái. Nếu không có việc gì trục trặc xảy ra
thì họ cùng nhau uống nước, ăn bánh bàn bạc về chuyện hôn nhân. Nhà trai còn
tổ chức tiệc mặn hoặc tiệc ngọt để thết đãi đàng nhà gái. Nhà gái không mời nhà
trai sang nhà gái “làm khách” giống như lễ hỏi của người Chăm Bà La Môn.
Sau khi lễ hỏi được hai bên đồng ý và thống nhất, nhà gái cử đại diện (thường là
cha mẹ) mang một ít bánh trái đến nhà ông binhuk (ông mai) để tạ ơn và nhờ
ông mai đến gia đình đàng trai bàn bạc chính thức ngày “cló panôih” (lễ đính
hôn).
Lễ Takloh Panôih (Lễ Đính hôn)
Đây là giai đoạn hai bên bàn bạc, đưa ra ngày chính thức để tổ chức đám cưới,
đồng thời xác định lại chú rể có đồng ý lấy cô dâu hay không. Theo tục lệ
thường tổ chức vào ban đêm vào các ngày thứ hai (pụk), thứ ba (thôm) theo lịch
của người Chăm.
Đến ngày lễ đính hôn, cha mẹ cô gái cùng với người thân trong gia đình như
ông cậu, bác, dì cùng cô dâu và ông mai mang rượu, bia, và có khi nước ngọt,
đặc biệt trong lễ đính hôn phải có cá khô (thường là “kan pàu”(cá đuối)). Trầu
cau cũng là món không thể thiếu trong lễ đính hôn. Tất cả mọi thứ được đựng
trong một cái “ciết” truyền thống của người Chăm do chính cô dâu đội.
Bên nhà cũng mời tất cả những người thân, họ hàng để đến chứng kiến lễ đính
hôn của thành viên dòng tộc mình. Lễ đính hôn thường tổ chức ở giữa sàn nhà
và không có bàn ghế, mọi người ngồi trên hai dãy chiếu dài.
Lễ thường bắt đầu vào khoảng 7 đến 8 giờ tối. Cha mẹ đàng trai đón đàng gái
rất ân cần. Nghi thức đầu tiên là ông mai rót rượu khấn vái ông bà, tổ tiên đàng
trai báo cho biết là ngày đính hôn của một thành viên gia đình, đồng thời cầu
mong ông bà tổ tiên phù hộ. Sau đó, người trưởng tộc hoặc cậu của chàng trai
đứng lên hỏi cô gái có đồng ý lấy anh ta làm chồng không. Cô gái trả lời ưng
thuận thì lễ được chấp nhận. Ông hỏi tiếp chàng trai có chấp nhận cô gái làm vợ

mình không. Nếu thuận cả hai, thì đương nhiên lễ đính hôn hoàn thành.
Sau khi các nghi thức của lễ đính hôn được hoàn thành, nhà gái đem những thức
ăn như cá, rượu, bánh trái ra thết đãi họ đàng trai. Hai họ trò chuyện, ăn nhậu
mừng buổi lễ đính hôn thành công và kết thúc lễ đính hôn để chuẩn bị cho buổi
lễ cuối cùng và quan trọng nhất trong các lễ đám cưới đó là lễ “pa kháh” (lễ
cưới).
Sau lễ đính hôn, người Chăm hồi giáo Bà Ni có tục lệ chú rể tương lai phục vụ
vô điều kiện cho nhà gái một tuần. Đây là việc thử thách người rể tương lai có
giỏi hay không. Thường chú rể tương lai làm những công việc cày bừa, đi chặt
củi, phụ việc lặt vặt trong gia đình nhà gái. Ngoài ra cùng thời gian này, cô dâu
cũng sang nhà đàn trai giúp việc như nấu cơm, gánh nước cho cha mẹ chồng
tương lai của mình.
Lễ Pa khah (Lễ cưới hay lễ thành hôn)
Lễ cưới của người Chăm Hồi giáo Bà Ni cũng như lễ cưới của người
Chăm Bà La Môn, thường được tiến hành sau lễ hỏi ít ngày, nhưng được quá 4
tháng, có lẽ do không muốn để lâu nhiều kẻ dèm pha gây khó khăn cho hôn
nhân, ảnh hưởng không tốt cho việc cưới
Người Chăm Hồi giáo Bà Ni cũng thường ấn định ngày cưới giống bhư người
Chăm Bà La Môn, thường là vào buổi chiều thứ tư ngày chẳn, trong hạ tuần
trăng từ 16 đến cuối tháng theo lịch Chăm của các tháng, tháng ba, sáu, tám,
mười và tháng mười một.
Theo chế độ mẫu hệ việc tổ chức đám cưới do nhà gái tổ chức. Tới ngày cưới,
nhà trai sửa soạn lễ rượu, trầu cau, cầu trời và ông bà, tổ tiên (prók) đã khuất
chứng giám cho việc hôn nhân của con cái mình.
Đến ngày đã định tất cả những người bà con thân tộc kể cả bạn bè thân thiết
của đàng trai đều tập trung đông đủ. Đám cưới của người Chăm Hồi giáo Bà
Ni không giới hạn người đến dự như người Chăm Bà La Môn. Tất cả mọi
thành viên họ hàng đàng trai đều có quyền đến dự, không phân biệt gái trai, già
trẻ. Mỗi thành viên của dòng họ đều không quên mang theo tiền gọi là “chền
chúk” tiền (gâup gàn), tức tiền họ hàng dùng để làm của hồi môn cho chú rể.

Trước khi đưa chú rể qua nhà gái, chú rể không cần làm lễ rửa tội giống như
chú rể Chăm Bà La Môn. Nhà gái cử ông mai đến nhà trai để đón rước họ
hàng chàng trai về đàng gái để làm lễ cưới. Đi đầu là tộc trưởng dẫn đường, kế
đến chú rể, các ông già, thanh niên, sau đến đàn bà dẫn đầu là vợ tộc trưởng,
kế đến là các bà già, cuối cùng là các cô thiếu nữ. Tất cả mọi thành viên của
dòng họ đàng trai ăn mặc rất lịch sự; các bà, các cô thiếu nữ trang điểm và đeo
nhiều đồ trang sức rất lộng lẫy và hấp dẫn.
Đoàn đưa rể đến gần nhà gái khoảng 20 - 30m mà chưa đến giờ tốt (giờ
lành) thì phải dừng nghỉ 10 - 15 phút. Nhà gái cử một đoàn do người đàn ông
cao tuổi cùng với người cậu của cô dâu, mang chiếu, trầu cau ra thết đãi họ
hàng nhà trai, chờ giờ tốt. Tất cả cùng nhau trò chuyện, uống nước. Đến đúng
giờ lành đã định, một số người trong đoàn nhà gái quay trở vào nhà để thông
báo cho phía nhà gái biết là đoàn nhà trai đã đến, để tiếp đón chính thức. Đúng
giờ lành, nhà trai vào nhà gái theo thứ tự trên. Để tỏ lòng kính trọng đàng trai,
nhà gái để một lu nước “khan ya” có một người đàn bà cầm gáo múc nước dội
cho từng thành viên nhà trai rửa chân tay và mời họ theo hàng chiếu đã trải sẵn
bước vào nhà. Các thành viên đàng trai được ông mai, cha mẹ và họ hàng đàng
gái tiếp đón rất nồng hậu và cởi mở, đặc biệt kính trọng, không để mất lòng
đàng trai. Nếu để mất lòng và làm những điều không vừa ý nhà trai thì bị nhà
trai bắt lỗi và có thể dừng đám cưới. Trường hợp như thế xảy ra thì hai bên
phải thoả thuận, thường tộc trưởng hai bên đứng ra giải quyết. Nhà gái phải
làm lễ “thú tội”. Trường hợp trên thường xảy ra ở đám cưới người Chăm Hồi
giáo Bà Ni và người Chăm gọi là “mứk kai” (bắt lỗi).
Trong nhà, người ta trải ba chiếc chiếu dài thành ba hàng dọc, hàng chiếu
giữa dành cho ông mai, chú rể, những người già cả và những người có chức
sắc; hàng chiếu bên phải dành cho họ hàng đàng trai; hàng chiếu bên trái dành
cho họ hàng đàng gái. Hiện nay không còn ngồi dưới chiếu, thay vào đó là bàn
ghế.
Đến giờ qui định, chú rể được ông mai dẫn vào phòng the của cô dâu, lúc
này cô dâu đã được trang điểm và đang ngồi chờ sẵn. Phòng của cô dâu là một

gian ở phía trong của căn nhà, kiến trúc theo lối nhà cổ truyền được gọi là
“thang yơ” (nhà tục). Trong phòng the được kê một tấm phản hoặc trải chiếu
dưới nền đã được yểm bùa chú, chú rể đến ngồi kế bên cô dâu, ông mai cầm
chiếc chiếu đập xuống ba lần, khấn vái các thần linh rồi trải xuống tấm phản của
cặp hôn nhân, đầu chiếu quay về hướng Bắc, đuôi chiếu quay về hướng Nam.
Kế đó ông mai cầm chiếc gối đã để sẵn ở đó đẩy sát vào nhau.
Trong lúc này, người ta mang vào một mâm lễ gồm trầu cau, vôi, rượu, để
trước mặt cô dâu và chú rể, trên chiếc phản. Ông mai thắp nến làm lễ bổn
mạng cho hai người, rồi rót rượu khấn vái thần linh yamư, Pôinưgar, pôpan và
tổ tiên, ông bà chứng giám cho hôn lễ này là trịnh trọng lấy một lá trầu to, đẹp
từ trong một hộp đựng trầu cau, xẻ đôi dưa cho cô dâu một nữa, cô dâu lại xẻ
đôi miếng trầu ra làm hai phần, đưa cho chú rể một phần. Cô dâu lấy ít vôi bôi
vào trầu cau của chú rể và của mình, rồi hai người cùng ăn miếng trầu trong
niềm hạnh phúc. Sau đó cô dâu chú rể đợi đến giờ ra làm lễ.
Đám cưới Chăm
Theo nghi lễ của Hồi giáo, đám cưới phải cử hành ở thánh đường. Muốn
làm lễ gia chủ phải đến hỏi người đứng đầu trong đạo gọi là “pô grù” ông này
cho ngày tốt để cử hành hôn lễ. Gia đình, cha mẹ phải báo cho họ hàng láng
xóm biết đúng ngày đó đến thánh đường làm lễ với con mình. Nhưng ở người
Hồi giáo Bà Ni nguyên tắc này gần như không được thực hiện nguyên xi mà
đã có cải biến phần nào.
Theo giáo lý của Hồi Giáo, chú rể và cô dâu cùng họ hàng đến thánh
đường làm lễ trước rồi sau đó mới được quyền vào phòng the. Nhưng do ảnh
hưởng của đạo Bà La Môn, chú rể vào phòng the trước, cho nên đành phải làm
lễ rửa tội ở nhà, không đến thánh đường bằng cách tới ngày lễ đã định, người
ta dựng một cái nhà lợp bằng tranh gọi là”càn” để làm lễ. Bên trong “càn”
được trang hoàng rất đẹp. Dưới mái nhà, người ta che một hay hai tấm ra trắng
có tua phủ hai bên.
Y phục của chú rể gồm áo “ao loák” (áo truyền thống của người Hồi giáo
Bà Ni) hoặc áo trắng (kiểu áo sơ mi), sarong trắng và đặc biệt chú rể phải cột

đầu bằng khăn “xếu” có tua hai bên màu trắng. Cô dâu cùng mặc y phục
truyền thống gồm áo “ao may” (áo dài Chăm), váy, khăn choàng (khar drăm).
Toàn bộ y phục cho lễ cưới toàn màu trắng.
Đến giờ làm lễ (thường vào khoảng 8 giờ sáng), cô dâu và chú rể bước ra
khỏi phòng the đi đến nơi làm lễ cưới “càn”. Hai ông thầy là imưm và một ông
grù (người đứng đầu tôn giáo) ngồi chờ sẳn. Bắt đầu nghi lễ, các giáo sĩ đọc
kinh cầu nguyện, ngồi trước mặt giáo sĩ là chú rể sau đó là cô dâu, tiếp đến là
mẹ và những người thân trong gia đình và họ hàng. Những người thân của cô
dâu chú rể cầu nguyện thánh Alla ban phước lành cho cô dâu và chú rể.
Chiếu được trải dài từ nhà cho đến nơi làm lễ mục đích để cho chân cô
dâu và chú rể không được chạm đất. Khi lễ đọc kinh cầu nguyện vừa chấm
dứt, cha mẹ cô dâu nói với chàng rể rằng “Hôm nay chúng tôi cho anh cưới
con gái chúng tôi là con gái này đây”. Chú rể đưa hai tay ra và trả lời: “slan,
slan, slan” tức là “tôi xin nhận” 3 lần trước mặt thầy cả và hai ông i mưm là
nhân chứng cho cuộc hôn nhân. Tiếp đến cô dâu chào các giáo sĩ bằng cách lạy
3 lần rồi trở vào phòng the một mình, để chú rể ở lại đó với hai vị i mưm ngồi
hai bên chú rể. Đặc biệt trong lễ cuới phải có một cặp đứa trẻ từ 4 đến 6 tuổi,
mặc bộ áo truyền thống màu trắng giống như bộ áo cưới của chú rể gọi là “nưk
là con” để chứng giám cuộc hôn nhân. Ông Thầy Cả bảo giáo sĩ hỏi chú rể
xem có bằng lòng cho các giáo sĩ đứng ra làm trung gian, để cho cuộc hôn
nhân anh ta hợp thánh đạo không? Những tặng vật chú rể mang tặng cô dâu
gồm những tặng vật gì? Theo tục lệ cổ truyền, quà tặng của chú rể cho cô dâu
bắt buộc phải có một chiếc nhẫn hình mắt cá, bằng bạc, đồng hay bằng vàng
tuỳ theo hoàn cảnh gia đình chú rể khá giả hay không (chiếc nhẫn này người
Chăm gọi là “kara mưta”). Sau đó họ cầu phúc cho họ bằng những đoạn kinh
trích trong kinh Coran. Thường trong lễ cưới, lễ cầu nguyện cho cuộc hôn
nhân đều có lư hương dùng để đốt trầm. Có lẽ hương trầm được đốt và toả
hương để mang lời cầu nguyện đến với thánh Alla.
Có lẽ tất cả các nghi lễ hôn nhân này có ý diễn lại đám cưới con của
thánh Môhamat là Ali và Pô Tha Mứh. Tất cả những nhân vật chính của cuộc

hôn nhân này đều mang tên của Thánh nhân toàn là những vị đã sáng lập ra
Hồi giáo. Nhưng chỉ mượn tên trong lúc làm lễ mà thôi. Ông Thầy cả lấy tên
hoàng tử Môhamat, vị đệ nhất i mưm làm nhân chứng là hoàng tử
“Abubaken”, chú rể là ông hoàng Ali hay chàng Bauguidoeu Ali, cô dâu lấy
tên Phatimau.
Sau đó hai vị i mưm tay giữ chiếc nhẫn là người làm chứng cho cuộc hôn
nhân bước vào nhà. Móc ngón tay trỏ vào nhau hướng về phía cô dâu và nói
với nàng “Phatimau”: Hoàng tử Môhamat phái chúng tôi đến đây để hỏi nàng
có chấp thuận chàng Ali làm chồng không? Cô gái trả lời rằng “Tôi vui mừng
chấp nhận”. Một vị giáo sĩ đeo chiếc nhẫn vào ngón tay của cô dâu, một giáo
sĩ khác trải tấm vải trắng lên chiếu, rồi hai giáo sĩ này đi ra, hai tay vẫn móc
vào nhau tiến vào hướng nơi làm lễ và báo cáo với vị chủ trì tức Thầy Cả
rằng”Phatimau đã chấp nhận chàng Ali”. Ông grù cầm tay chú rể đến với cô
dâu. Hai giáo sĩ đi trước, chú rể đi sau, ngoài ra đi sau còn có cả hai em bé mặc
bộ áo truyền thống toàn màu trắng gọi “nư là con”. Hai em bé này có nhiệm vụ
mang tấm chiếu và tấm vải trắng để trải lên giường cưới. Khi vào đến phòng
the, chú rể lấy ra ba miếng trầu mang đập bằng hòn đá trên ngưỡng cửa.
Trong phòng the của cô dâu, có bốn bà già gọi là mú úa, (người chỉ dẫn
cô dâu), trải chiếu và vải trắng ra cho cô dâu ngồi lên, chú rể cùng ngồi xuống
bên cạnh cô dâu. Vị i mưm nói “Đây là giường nằm của hai người trong tối tân
hôn” và “đây là chồng của nàng đây, nàng có bằng lòng không”. Cô dâu cùng
với bốn mú úa đều trả lời “chúng tôi ưng thuận”. Các vị i mưm cầm tay chú rể
đặt vào tay cô dâu và người ta đẩy hai vợ chồng ngồi gần nhau. Tiếp đến hai vị
i mưm rắc nước phép lên đầu hai người gọi là nước phép rửa tội, cầu phúc cho
cô dâu, chú rể, dặn họ đôi điều về mặt giáo lý, xong ngồi ra ngoài. Sau đó cô
dâu lấy trầu cau và bôi một ít vôi đưa vào miệng chú rể, chú rể cởi áo cưới vắt
lên người cô dâu. Sau đó hai người ra nơi làm lễ, một lần nữa lạy các giáo sĩ.
Cô dâu lạy cha mẹ chồng. Các giáo sĩ tiếp tục đọc kinh và kết thúc lễ cưới.
Lễ Dua anưk atâu (Lễ trình diện tông môn)
Cũng giống như người Chăm Bà La Môn. Sau lễ cưới 3 ngày, cha mẹ cô

dâu làm các loại bánh gồm bánh sacada (là loại bánh truyền thống của người
Chăm) peinung (bánh tét) cùng trầu cau, chuối và một lít rượu đựng trong một
cái (ciết) do cô dâu, cha mẹ cô cùng với một số người bà con thân tộc gần gũi
nhất như cậu, bác, dì v.v đến nhà trai làm lễ tạm biệt cha mẹ đàng trai. Lễ
này diễn ra giống như lễ “ta lơh akhar ao” của người Chăm Bà La Môn đã
được trình bày trên đây.
4 Những hoạt động sau khi cưới
Đến ngày thứ ba sau lễ cưới, đôi vợ chồng trẻ chuẩn bị vật lễ như bánh
trái, cau trầu, bánh sakaya, bánh tét… để về nhà trai trả lễ. Người Chăm gọi lễ
này là taleh khan aw (lễ trả áo). Nhà trai sẽ trịnh trọng đón đôi vợ chồng trẻ và
dịp này, cha mẹ, anh chị, cô bác chú rể cũng trao tặng cho đôi vợ chồng những
tặng phẩm như vải lụa, trang sức, tiền và những vật dụng thiết yếu xem như là
của hồi môn.
Sau khi trải qua quá trình cưới hỏi cô dâu và chú rể chính thức được xã
hội người chăm công nhận là một cặp vợ chồng. Người chồng ở rể luôn bên
nhà vợ bắt đầu cuộc sống gia đình. Người chăm theo chế độ mẫu hệ nên con
cái được tính theo dòng mẹ nhưng ngày nay con cái thường được lấy họ cha.
Phụ nữ trong cuộc sống nắm mọi quyền trong gia đình như giữ tài sản, quyết
định mọi hình thức cưới hỏi, tang lễ của gia đình.
5 Sự Bãi hôn và Đính hôn
Gia đình người Chăm cho phép đôi nam nữ tự do lựa chọn người mình
kết duyên. Nhưng sau khi bằng lòng nhận trầu cau, bánh trái của nhà gái rồi thì
coi như đã hứa hôn, nếu bên nào bãi hôn không có lý do chính đáng, làm lỡ dở
việc hôn nhân thì bên đó coi như là thất ước, bội hôn. Theo tục lệ thì bị phạt vạ
và bồi thường duyên phí tổn cho bên kia. Theo thuật ngữ người Chăm gọi là
“táh pàu kia” và “tạh plao mưta”. Trá duyên tức là dắt một cặp trâu bồi thường
duyên nợ, tuy nhiên nếu hoàn cảnh gia đình nghèo thì làng châm chước, phạt
vạ nhẹ hơn. Điều đặc biệt là nếu người con trai, con gái đã già, hay ly dị một
lần thì dù có thất ước, bội hôn cũng chỉ phạt rất nhẹ. Ngoài ra hai bên đã định
ngày cưới, đột nhiên một bên có người thân thiết mất thì phải xin hoãn lại đám

cưới. Sau đó, hai bên định ngày khác chậm nhất là một năm.
6 So sánh tục cưới hỏi của người Chăm Bà Ni với Chăm Islam
Hồi giáo truyền bá vào Việt Nam đã đem những văn minh và cả những
giáo luật khắt khe đến với cộng đồng Chăm nước ta. Tuy nhiên, quá trình tiếp
xúc với văn hoá bản địa. Xét về bản chất Hồi giáo của người Chăm, chúng ta
thấy rõ sự tác động và vai trò của tín ngưỡng
Hồi giáo thế giới có những luật lệ khắt khe nhưng khi du nhập vào cộng
đồng người Chăm nó đã bị biến đổi rất nhiều và mang đậm tính nhân văn tộc
người bởi sức sống mãnh liệt của truyền thống văn hóa bản địa. Đó chính là
đặc trưng văn hóa Chăm – Nền văn hóa gắn liền và bị chi phối một cách mạnh
mẽ bởi sự đan xen và dung hòa của tín ngưỡng và tôn giáo, Trong đó hôn nhân
là một trong những mặt thể hiện rõ sự khác biệt giữa người Chăm theo hồi
giáo chính thống (Chăm Islam) với người Chăm Bà Ni có những biến đổi và
dung hợp văn hóa với người Chăm Bà La Môn
Người Chăm Islam
Người Chăm Islam có những ảnh hưởng gần như là nguyên bản của Đạo
hồi, trong đó có những quan niệm về hôn nhân và gai đình Người con gái đến
tuổi trưởng thành không được giao du bên ngoài phải ở nhà làm nội trợ, nếu ra
ngoài phải che mặt hoặc có người thân đi bên cạnh.
Đối với người Chăm Islam ở Nam Bộ, hôn nhân được thực hiện theo
nguyên tắc là “cấm tín đồ kết hôn với mẹ ghẻ, con gái, chị em ruột, các cô, dì,
cháu gái (con của anh/chị/em ruột) mẹ nuôi, chị em cùng bú một dòng sữa với
mình, mẹ vợ, con dâu, con gái riêng của vợ….” (Điều 27 chương IV kinh
Koran). Đảm bảo theo nguyên tắc hôn nhân này nhưng người Chăm lại xem
các hình thức hôn nhân anh em họ chéo (hôn nhân con cô con cậu) và hôn
nhân anh em họ song song (hôn nhân anh em con chú con bác và hôn nhân con
dì) được khuyến khích. Điều này không chỉ là sự cho phép của giáo luật mà
còn nhằm để tài sản không bị lọt ra bên ngoài và con trai về nhà vợ cũng là về
với người trong gia đình, trong cộng đồng Islam, giáo luật cho phép nam giới
được lấy nhiều vợ.

Hôn nhân của người Chăm Islam đơn giản hơn người Chăm Bà Ni.
Người Chăm Isam chỉ có 4 lễ chính đó là: Trong 4 lễ chính này, phía nhà trai
là bên chủ động
Dạm hỏi (nao kha da): Khác với người Chăm Bà Ni, với người Chăm
Islam thì con trai đi hỏi vợ chứ không phải con gái đi hỏi chồng. (Tuy nhiên,
nhà trai đi hỏi chỉ là cái cớ để phù hợp với giáo lý hồi giáo, còn thực tế, khi
gia đình hai bên đồng ý, nhà gái nhờ ông mối “Tahma” đến nhà trai bàn bạc
tiền dẫn cưới)
Lễ đính hôn (Clok Pa Nôith): Đoàn nhà trai gồm cha mẹ, chú bác, cô dì
và chú rể mang lễ vật: cam , quýt, roi, đường, sữa… tất cả đều xếp theo cặp,
đặt trên một cái mâm rất cao và quần, áo, váy sang nhà gái. Từ các nguyên
liệu nhà trai mang sang, cô dâu phải làm bánh tặng nhà trai để chứng tỏ tài
khéo léo của mình.
Lễ tặng quà “Chol Khal ao”: Nhà trai biếu quà cho nhà gái như phấn,
son, tiền, vàng, áo, váy cho nhà gái là tập tục trước khi cưới để cô gái chấp
nhận gửi gắm cuộc đời mình cho chàng trai
Lễ cưới “Pakhah”: Cưới xin có thể diễn ra ở bất cứ thời gian nào thuận
tiện, có nơi tổ chức vào mùa hành hương để những người ở xa có điều kiện về
dự. Lễ cưới thường được tổ chức ở nhà cô dâu, mẹ chú rể không bao giờ tham
dự
Người Chăm Bà Ni
Người Chăm ở Việt Nam theo mẫu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, người
phụ nữ trong nhà nắm giữ nhiều của cải, quyết định mọi hình thức cưới hỏi.
Đạo Hồi đã đem phụ hệ, phụ quyền vào đời sống Chăm nhưng đã dung hoà
với phong tục truyền thống Chăm:
Cũng như người Chăm Bà La Môn, người Chăm Hồi Giáo Bà Ni quan
niệm con gái là nội tướng, có bổn phận nội trợ, quản lý tài sản, phụng dưỡng
cha mẹ, chăm sóc chồng con, thờ cúng tổ tiên v.v Người con gái ngoài bổn
phận làm mẹ, làm vợ còn cả tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh và rất hiếu khách.
Quan niệm của người Chăm Hồi giáo Bà Ni cũng giống như người Chăm Bà

La Môn
Khác với người Chăm Islam, trong hôn nhân, con gái đến tuổi lập gia
đình, thì người phụ nữ chủ động trong việc hỏi chồng, cưới chồng. Con cái
sinh ra nhận bên “mẹ” làm nội. Người mẹ có quyền quyết định đối với các
con, người đàn bà lớn tuổi nhất trong gia đình có quyền quyết định hết thảy
công việc trong gia đình, dòng họ. Tuy đàn ông thực tế có vai trò chính trong
lao động sản xuất nhưng chủ gia đình luôn là người đàn bà cao tuổi. Người
quản lý tài sản, nhà cửa, ruộng vườn… là người vợ. Phong tục người Chăm qui
định con theo họ mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ có
con gái được thừa kế tài sản, đặc biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ
già nên được phần chia tài sản nhiều hơn các chị. Trong trường hợp hai vợ
chồng ly hôn, tất cả con cái đều ở với mẹ. Gia sản chung của hai vợ chồng đều
giao lại cho vợ quản lý và giao lại cho người con gái trong gia đình. Người đàn
ông ra đi với hai bàn tay trắng.
+ Trong hôn nhân có sự bình quyền tương đối giữa nhà trai và nhà gái,
cho tự do tìm hiểu giữa nam nữ trước hôn nhân.
+ Cho phép kết hôn con chú, con gì.
+ Cho phép con mang cả họ mẹ và họ cha.
+ Chú rể – chồng bắt buộc phải ở lại nhà vợ 2 - 3 tháng (ở nông thôn)
hay 3 - 4 ngày ở thành thị sau ngày cưới. Người Chăm theo mẫu hệ, họ chỉ có
tục đưa rể chứ không đón dâu. Chú rể được đưa sang nhà cô dâu và mọi thủ
tục, nghi lễ được thực hiện bên nhà gái.
+ Con trai có thể đi hỏi vợ nhưng phải mang theo 2, 3 bà chị hoặc bạn
của mẹ.
+ Khi ly hôn, theo luật pháp người đàn ông được chia tài sản nhưng
phần lớn họ ra đi tay không.
+ Người đàn ông có quyền lấy 4 vợ nhưng rất hiếm trường hợp người
đàn ông Chăm lấy hơn một vợ (6) (Luật pháp Việt Nam không cho phép).
+ Người Chăm có thể tục huyền khi vợ hoặc chồng chết, tuy nhiên người
đàn bà phải ở vậy trong 10 tháng để xác định dòng máu của đứa con sau này

(có nơi người ta chỉ bắt buộc người phụ nữ ở vậy trong 3 tháng để xác định có
thai hay không). Mặc dù có sự ngự trị của chế độ phụ hệ nhưng gia đình mẹ
vợ (nếu như có điều kiện kinh ế) giúp đỡ người con gái xây dựng nhà cửa bên
cạnh nhà mình, nhất là với người con gái út (huyết thống theo dòng mẹ và
theo đằng con gái út).
Hôn nhân người Chăm Bà Ni có những nét ảnh hưởng của người Chăm
bản địa và có phần phức tập hơn so với ngươdi Chăm Islam, hôn nhân của họ
gồm 5 lễ chính
Lễ Pa luak Pa Nôih (Dạm hỏi)
Lễ Nao pôih (Lễ hỏi)
Lễ Takloh Panôih (Lễ Đính hôn)
Lễ Pa khah (Lễ cưới hay lễ thành hôn)
Lễ Dua anưk atâu (Lễ trình diện tông môn)
Trong việc cưới hỏi nhà gái là phía chủ động trong hầu hết mọi công việc
và nghi lễ.
Chương III: Những biến đổi trong hôn nhân của người
Chăm Bà Ni ngày nay
Trong chế độ hôn nhân của người Chăm đã có nhiều biến đổi khá rõ nét. Như
chúng ta đã biết, giáo lý của tôn giáo đã chi phối khá sâu sắc trong gia đình và
nhất là trong hôn nhân của người Chăm. Các lễ nghi trong hôn nhân phải thực
hiện theo giáo lý, cấm không được sửa đổi. Sự sửa đổi trong lễ nghi hôn nhân
được coi là “harâm” xấu và cuộc hôn nhân không được chấp nhận chính thức.
Sự bảo thủ của giáo lý đã tác động rất mạnh đến tư tưởng của mỗi thành viên.
Mỗi tín đồ đều phải tuân theo lễ nghi giáo lý của tôn giáo đặt ra. Mặc dù tôn
giáo đã ăn sâu vào mỗi tiềm thức của mỗi thành viên Chăm, nhưng kiềm hãm
được ảnh hưởng của sự phát triển của nền văn minh; khoa học kỷ thuật đang
hằng ngày phát triển mở đường cho nhân loại đến với nền văn minh rực rỡ và
người Chăm đã đón nhận thành tựu của thời đại khoa học ấy.
1. Y phục cưới
Trong gia đình hôn nhân của người Chăm cũng đã chịu ảnh hưởng một phần

nào những yếu tố văn minh hiện đại. Ví dụ khi tiến hành lễ nghi đám cưới xong,
cô dâu và chú rể có thể mặc y phục theo phong cách của chú rể hiện đại như
mặc áo vét, mang cà vạt, mang giày. Cô dâu có thể thuê khăn đóng hoặc bộ áo
cưới dài kiểu Tây phương. Sự đổi mới về nhận thức thẩm mỹ đã tô thêm khung
cảnh ngày hôn lễ có phần đẹp, lộng lẫy và đa dạng hơn.
2. Món ăn trong lễ cưới
Ngoài sự thay đổi y phục của cô dâu và chú rể, còn có sự thay đổi về cách nấu
ăn để thết đãi họ hàng. Trước kia thường thết đãi những món ăn cổ truyền, nay
đổi mới còn có thức ăn có đủ gia vị giống những món ăn của người Việt. Về
cách trang trí cho ngày hôn lễ cũng khang trang và lộng lẫy hơn trước, đặc biệt
những bông hoa được đưa vào trang trí, điều mà trước đây không có.
3. Thay đổi về nhận thức, hủ tục lạc hậu trong hôn nhân
Hôn nhân trong xã hội Chăm ngày nay dưới ảnh hưởng của nền văn minh thời
đại đã tiến bộ rất nhiều, nhất là trong nhận thức về nếp sống mới đẩy lùi trong
số hủ tục. Ngoài ra quan niệm hôn nhân “con cô, con cậu” vốn được ưa thích,
hiên nay đã giảm đi rất nhiều. Người Chăm đã nhận thức: Trong hôn nhân cặp
vợ chồng có dòng máu gần nhau sẽ gây nên hiện tượng đồng huyết ảnh hưởng
xấu cho con cái và thế hệ người Chăm sau này. Ngoài ra tư tưởng phong kiến
xưa tồn tại rất mạnh ở gia đình và xã hội người Chăm. Nhưng sau ngày giải
phóng đường lối đúng đắn đã dẫn dắt người Chăm thoát khỏi những quan niệm
hẹp hòi, ích kỷ, không rộng lượng trong tình yêu gây nên cảnh chia cắt nhiều
cặp tình nhân.
Hiện nay trong hôn nhân người Chăm đã giảm bớt lễ nghi rườm rà ví dụ như
trong thết đãi không dùng rượu, đây là điểm nổi bật nhất. Điều đó làm giảm bớt
gánh nặng kinh tế gia đình. Trước đây tình trạng men rượu đã gây ra rất nhiều
chuyện ẩu đả và những chuyện không hay khác.
Trong hôn nhân không thể nói đến tác động của yếu tố tôn giáo. Tôn giáo chi
phối hoạt động của xã hội cũng như sinh hoạt hằng ngày nhất là trong hôn nhân
của người Chăm. Mặc dù trong xã hội Chăm tín ngưỡng và văn hoá dân gian tác
động trở lại làm cho hai tôn giáo Bà La Môn và Hồi Giáo có sự đan xen lẫn

nhau về lễ nghi. Sự đan xen đó của hai tôn giáo tưởng chừng để đoàn kết các bộ
phận thuộc cộng đồng dân tộc Chăm với nhau, nhưng do ảnh hưởng của giáo rất
lớn làm cho những cặp tình nhân không cùng chung một tôn giáo bị chia cắt.
Tình cảnh này tồn tại trong xã hội Chăm hằng mấy trăm năm nay, khiến rất
nhiều cặp tình nhân phải kết liễu cuộc đời một cách thảm thương. Sự đau
thương đó đã biến thành nỗi đau của hàng trăm con tim người Chăm, họ phải
đành bó tay trước giáo lý tôn giáo, điều đó đã thể hiện trong bản trường ca nổi
tiếng “Chăm Bà Ni” mà ai cũng biết.
Sau ngày giải phóng (1975) bản chất cố hữu không kéo lùi lại sự tiến hoá của xã
hội. Sự giáo dục của nhà nước đã hướng tư tưởng của cộng đồng dân tộc Chăm
ngày một tiến bộ. Sự phân biệt giữa hai tôn giáo nhất là trong hôn nhân đã có sự
chuyển biến và thay đổi một phần nào. Đã có nhiều nhiều cặp trai gái khác nhau
về tôn giáo yêu thương nhau và được sống hạnh phúc. Có những lúc họ vấp
phải sự ngăn chặn và phản đối kịch liệt của cha mẹ và có khi cả dòng họ, nhưng
tình yêu đã vượt qua tất cả
Hôn nhân và gia đình người Chăm ở Việt Nam đã có sự đổi mới nhất định
trong thời đại hiện nay, tạo cho xã hội Chăm có nếp sống văn minh lành mạnh
hơn trước, góp phần đẩy lùi và xoá bỏ tàn dư của xã hội phong kiến xưa đã ăn
sâu vào tiềm thức của người Chăm hàng mấy thế kỷ. Với hiện tượng trên tuy
chưa phổ biến trong xã hội Chăm nhưng là dấu hiệu hoàn toàn mới mẻ phản
ánh một phần nào sự đấu tranh quyết liệt của tuổi trẻ Chăm với những tập tục
cổ hủ của giáo lý đã tồn tại trong xã hôi Chăm hàng chục thế kỷ.
C TỔNG KẾT
Trong quá trình lịch sử, sự hoà trộn các yếu tố văn hoá nội sinh và ngoại
sinh đã hình thành một nền văn hoá Chămpa phong phú về nội dung và đa
dạng về diện mạo. Tại mỗi vùng cư trú của người Chăm, quá trình giao lưu,
tiếp xúc với yếu tố văn hoá bên ngoài (văn hoá Ấn Độ và Hồi giáo) đã hình
thành những sắc thái văn hoá đặc thù mang đậm tính bản địa.
Tài liệu tham khảo:
Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam - Bá Trung Phụ

Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam – Ngô Đức Thịnh


Danh sách nhóm
1. Lê Văn Phúc
2. Trần Thị Trúc Phương
3. Lê Thị Kiều Quyên
4. Thái Bá Quyết
5. Nguyễn Thị Phượng
6. Nguyễn Thị Phương
7. Nguyễn Thị Quỳnh Sen
8. Hà Thị Kim Phương
9. Hồ Thị Quỳnh

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×