I.Dẫn nhập
- Đồng bào Chăm, còn gọi là người Chăm, là một trong số 54 dân
tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một dân tộc có
truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, rất đa dạng và phong phú.
Người Chăm, một dân tộc có chữ viết sớm nhất ở nước ta, truyền
thống văn hóa ấy đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn
hóa, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. Bản sắc và
truyền thống của văn hóa Chămpa biểu hiện đặc trưng cho lĩnh vực
tín ngưỡng – tôn giáo, thông qua các sinh hoạt mang tính phong
tục, lễ hội truyền thống và tín ngưỡng cổ của cộng đồng dân tộc
này.
II Giải quyết vấn đề.
1 Người Chăm và đạo Bà la môn ở Bình Thuận
1.1 Một vài nét về người Chăm
- Nguồn gốc:
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến
đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở
thế kỷ thứ I và thứ II TCN.
Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải
Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu
vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã
hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mẫu thuẫn nội bộ, người Chăm
không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà
phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các
quốc gia khác.
1
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng
mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của
các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Các cộng đồng
người Chăm ở Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Hoa Kì có quan
hệ đồng tộc, đồng tôn. Ở Việt Nam người Chăm có mối liên hệ gần
gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc nhóm ngôn ngữ Mã
lai-Đa đảo như Jarai, Ra Daiy, Ra Glai và Cru.
- Một vài yếu tố khác:
+ Phân bố và dân số:
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 400.000 người,
phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái
Lan và Hoa Kỳ. Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235 người
Chăm sinh sống, sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây
Ninh, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Do đặc
điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng
miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng
chính là: Chăm Hroi, Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận và Chăm
Nam Bộ.
+ Ngôn ngữ và chữ viết:
2
Tiếng Chăm là ngôn ngữ của người Chăm ở Đông Nam Á, và
trước đây là ngôn ngữ của Vương quốc Chăm Pa ở miền Trung
Việt Nam. Đây là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-
Polynesia của hệ ngôn ngữ Nam Đảo, được 100.000 người ở Việt
Nam. Các ngôn ngữ Chăm khác được nói ở Việt Nam là Ra Glai, Ê
Đê, Gia Rai, Chu Ru, H'roi) và một dân tộc thiểu số tại đảo Hải
Nam.
Chữ viết Chăm được sử dụng để viết tiếng Chăm. Bộ chữ cái này
bắt nguồn từ chữ Phạn thuộc hệ Bhrami. Trước đây chữ viết Chăm
bị hạn chế phát triển, nay được giảng dạy rộng rãi trong.
+Tổ chức cộng đồng:
Người Chăm thường sinh sống tập trung trong palei Cam (làng
Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo
một tôn giáo nhất định,
Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am
hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng
thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm
3
trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết.
Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả:
“Cây to lan tỏa một lòng
Xoè ra che mát cho người dừng chân”
1.2 Đạo Bà la môn
- Nguồn gốc của đạo Bà la môn
Bà La Môn giáo (Brahmanisme) còn có khi gọi là Ấn Độ giáo
(Hindouisme) hình thành trên cơ sở Vê-Đa giáo, khoảng 800 năm
trước Tây Lịch, tức là khoảng thời gian không dài lắm trước khi
Phật Giáo và Thiên Chúa giáo mở ra ở Ấn Độ.
Đạo Bà La Môn đưa ra những kinh sách giải thích và bình luận
Kinh Vê-Đa như: Kinh Brahmana, kinh Upanishad, giải thích về
Maya (tức là thế giới ảo ảnh) và về Niết Bàn.
Đạo Bà La Môn thờ đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh
hồn của vũ trụ.
4
Đạo Bà La Môn chia xã hội Ấn Độ ra làm 4 giai cấp chính:
1 Những tu sĩ Bà La Môn giáo = Brahmana
2 Những chiến sĩ, quý tộc = Kasitrya
3 Những thương nhân = Vaisya
4. Những nông dân = Sudra
Họ được sanh ra từ chân của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm
các nông dân và công nhân nghèo khổ.
Ngoài ra, còn một đẳng cấp gọi là Paria, những người trong đẳng
cấp này là lớp cùng khổ. Đây là giai cấp thấp kém nhứt trong xã
hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề hèn hạ như : Ở đợ, làm
mướn, chèo ghe, giết súc vật, vv …
Niềm tin duy nhất của tín đồ đạo Bà La Môn là niềm tin vào
Thượng đế, là làm thế nào để mình được hòa chung với Thượng đế
5
vĩnh hằng. Tuân theo những nghi thức tôn giáo chưa đủ phối hợp
với Thượng đế chí tôn, mà tín đồ Bà La Môn còn phải thực nghiệm
bằng bản thân mình sự trong sáng tuyệt đối, lòng vị tha vô bờ bến,
sự khắc kỷ mạnh mẽ, sự tôn kính chân lý, sự bất bạo động, lòng
thương yêu và nhân ái với tất cả chúng sanh, kể cả những loại vật
khác.
- Sự du nhập của đạo Bà La Môn vào Chăm
Những người Ấn Độ đầu tiên đã theo đường biển mà đến Việt
Nam ngay từ đầu công nguyên thông qua con đường giao thương
buôn bán. Dấu vết của họ thấy cả ở vùng Óc Eo (An Giang), cả ở
ven biển miền Trung và cả ở Luy Lâu (Hà Bắc). Họ mang theo cả
Bàlamôn giáo lẫn Phật giáo vào Việt Nam. Từ đó đạo Bà- la-môn
du nhập vào Chăm, bởi nó du nhập theo con đường hòa bình, khác
với Trung Hoa, không mang theo chiến tranh, nên văn hóa Ấn Độ
6
cũng như đạo Bà-la-môn được người Chăm vui vẻ tiếp nhận. Tuy
vậy, đến cuối thế kỉ XV mới có nhiếu người theo.
2 Lễ hội Katê của đồng bào Chăm Bà La Môn
2.1 Xuất sứ và sơ lược
Katê là lễ hội hàng năm của đồng bào Chăm vào tháng 7 theo lịch
Chăm (khoảng tháng 10 dương lịch) để tưởng nhớ các vị thần mà
cũng là những anh hùng dân tộc như Pô Klong Garai, Pô
Rôme, được tổ chức trên một không gian rộng lớn (đền tháp,
làng, gia đình), trong khoảng thời gian chừng một tháng.
Đây là lễ hội đặc sắc trong hàng chục lễ hội hàng năm của đồng
bào Chăm. Là nơi hội tụ những tinh hoa văn hoá, sinh hoạt, tập
tục, tín ngưỡng, kỹ thuật, mỹ thuật, tập quán thông qua các đồ
cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bản thánh ca, ca ngợi các vị vua
hiền có công với dân với nước, ca ngợi công việc đồng áng, mùa
màng, những vần thơ ca ngợi sự hưng thịnh, sản vật trăm hoa, trăm
quả, trăm nghề,…Lễ hội Katê là dịp để các chàng trai tài, gái sắc,
phô diễn trước công chúng những điệu nhảy, bài ca, điệu kèn mang
một phong cách độc đáo, riêng có của dân tộc Chăm, làm lay động
7
lòng người. Trong âm thanh dìu dặt của kèn Samanai, trong nhịp
giật thôi thúc của trống Ginăng đưa những người dự lễ lên đỉnh cao
của sự thăng hoa, hoà vào điệu múa của các thiếu nữ Chăm bay
khắp cõi trời mơ. Lễ hội Katê chính là giây phút thiêng liêng của
người trần thế đánh thức các tháp Chăm cổ kính yên ngủ dưới lớp
bụi thời gian bừng dậy, sáng loà, toả ra trăm sắc, ngàn hương, góp
phần làm phong phú cho vườn hoa văn hoá đa sắc, đa màu của các
dân tộc Việt Nam.
2.2 Công tác chuẩn bị và diễn biến lễ hội
- Công tác chuẩn bị
Chuẩn bị lễ vật rất phong phú: hoa quả bánh trái đủ loại và đặc biệt
là bánh gừng, cúng cơm, cúng rượu và thịt. Theo Sư cả Bà La Môn
Bích Văn Nhuận ở thôn Lạc Trị, xã Phú Lạc, huyện Tây Phong,
tỉnh Bình Định thì lễ vật Katê gồm bánh trái như bánh Tét, chuối,
bánh gân trâu, chè, xôi, cơm, thịt, nongya (bánh gừng), dê, gà, trầu
cau, nén trầm, hoa quả. Tại nơi đây người ta sẽ chuẩn bị mọi thứ
cho lễ hội, mỗi thứ được chuẩn bị bởi dân làng làm cho không khí
sẽ trở lên nhộn nhịp, náo nhiệt trước ngày diễn ra lễ hội. Ngày xưa
lễ hội kate kéo dài khoảng 1 tháng nhưng nhịp sống hiện đại đã rút
gọn thời gian lễ hội và dù mất mùa hay bội thu, người Chăm giữ
nguyên những lễ thức quan trọng trong suốt 3 ngày.Các chàng trai,
cô gái,các chị, các mẹ thì gấp rút tập luyện các tiết mục văn nghệ,
thể thao và rèn tay nghề để tham gia hội thi dệt thổ cẩm, hội thi
làm đồ gốm, thi đội nước và biểu diễn văn nghệ dân gian Chăm,
ẩm thực,…hứa hẹn nhiều điều lôi cuốn và hấp dẫn du khách. Lễ
vật dâng cúng gồm: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp, 5
mâm cơm cúng có thịt dê, 1 mâm cơm với muối vừng, 3 ổ bánh
gạo và hoa quả.
8
+ Hình thức bài trí:
Lễ vật của người Chăm cũng mang biểu tượng đặc trưng của
thuyết âm và phục vụ cho con người theo quy luật sinh tồn của vạn
vật. Người Chăm có câu ca dao liên quan đến việc bài trí lễ vật
rằng: “Peinung Ala, Sakaya ngaok” có nghĩa là “Bánh Tét đặt ở
dưới, bánh Hồng để trên”. Về mặt hình thức, bánh Tét là biểu
tượng của dương tính và bánh Sakaya là biểu tượng của âm tính
nhưng lại được đặt ở trên, cho nên quan niệm của người Chăm vai
9
trò phụ nữ rất được tôn vinh theo chế độ mẫu hệ. Còn bánh Gừng
người Chăm gọi là Ginjraong riya là thể hiện vẻ đẹp và sự chung
thủy của phụ nữ Chăm. Riêng cách bài trí cơm canh là biểu hiện
cho hình thể con người đầu mình và tứ chi. Cách bài trí lễ vật để
dâng cúng cho thần linh còn mang tính nghệ thuật thẩm mỹ cao.
- Diễn biến lễ hội
Lễ hội Katê là lễ hội lớn nhất của đồng bào Chăm, được tổ chức
mỗi năm một lần, để tưởng nhớ các vị thần như Pô Klong Garai,
Pô Pôme và dâng lễ cúng tổ tiên với lòng thành kính cầu mong
quốc thái dân an, mưa thuận nắng hòa, mùa màng bội thu, vạn vật
sinh sôi, gia đình bình an.
Nghi lễ tôn nghiêm gắn liền với hoạt động văn nghệ dân gian sôi
nổi tạo thành nét văn hóa độc đáo của lễ hội: biểu diễn trống
Ginăng, kèn Saranai, các điệu múa truyền thốngLễ hội thường diễn
ra trong 3 ngày vào tháng 7 lịch Chăm, tức là khoảng 25/9 đến
5/10 dương lịch hàng năm. Lễ hội Katê cũng bao gồm hai phần:
phần lễ và phần hội.
Lễ hội Katê diễn ra theo tình tự các bước đã có truyền thống từ xa
xưa, bao gồm lễ rước y trang, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ
mặc y phục cho tượng thần và sau cùng là đại lễ. Lễ hội tại đền
tháp do Ban tế lễ là các chức sắc đạo Bàlamôn gồm: Thầy cả sư
(Pô Dhia) làm chủ lễ, thầy kéo đàn Kanhi - hay còn gọi là thầy cò
ke (Ôn Kadhar), bà bóng (Muk Payâu) dâng lễ và ông từ
(Camưnay).
+ Phần lễ: Lễ rước y trang của nữ thần Pô Nâgar (thần Mẹ xứ sở)
diễn ra một ngày trước ngày hội chính. Y phục của Nữ thần Pô
Nâgar do người Raglai (một bộ tộc miền thượng) cất giữ. Lý do vì
sao mà y trang của Nữ thần Mẹ xứ sở của người Chăm lại do
người Raglai giữ hộ thì hiện còn nằm trong các màn sương dày của
các truyền thuyết! Đến ngày hội lễ Katê thì người Chăm làm lễ đón
y trang do người Raglai chuyển lại và để y trang của Nữ thần Mẹ
10
xứ sở vào một ngôi đền gần tháp. Trước khi rước y trang lên tháp,
đoàn người Raglai tập trung đông đủ, ông từ giữ đền dâng cúng lễ
vật, gồm: Trứng, rượu, trầu cau và xin phép thần được rước y trang
về tháp để làm lễ.
Tiếp theo là lễ mở cửa tháp do một vị cả sư và ông từ trong coi
tháp điều hành. Lễ vật gồm có rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần
có pha trầm hương, Trong không khí trang nghiêm, vị cả sư đọc
mấy câu thơ (trong kinh hành lễ): “Chúng con lấy nước từ sông
lớn/ Chúng con đội về tháp tắm thần/ Thần là thần của trời đất/
Chúng con lấy những tấm khăn đẹp nhất/ Lau mồ hôi trên mình,
tay chân của thần, ”.
Sau đó ông từ cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng phù điêu thần
Siva trên vòm cửa chính cuả tháp. Tiếp đó, thầy kéo đàn Kanhi
(tương tự đàn nhị của người Việt) và bà bóng tiến đến trước cửa
tháp chính, ngồi bên tượng bò thần Nađin để hát lễ xin mở cửa
tháp: “Hãy xông hương trầm bằng lửa thiêng/ Hương trầm của
người trần dâng lễ/ Hương trầm bay toả ngát không gian/ Chúng
con xin mở cửa tháp cúng thần”.
Bà bóng và ông từ bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm
nghi ngút và sự chăm chú của mọi người.
Tiếp theo là lễ tắm tượng thần, lễ này được diễn ra bên trong tháp.
Lễ tắm tượng thần là một thủ tục linh thiêng, do ông cả sư, thầy cò
ke, bà bóng, ông từ và một số tín đồ nhiệt thành thực hiện. Sau khi
11
đọc các đoạn trong kinh hành lễ, ông từ cầm lọ nước tắm vẫy lên
pho tượng đá, mọi người có mặt cùng tắm cho thần. Trong khi tắm,
những tín đồ nhiệt thành lấy nước trên thân tượng thần bôi lên đầu,
lên thân thể mình để cầu tài lộc, sức khoẻ, may mắn,
Sau khi tắm cho tượng thần xong là bắt đầu lễ mặc y phục. Thầy
cò ke hát một bài thánh ca, hát đến đâu thì ông từ, bà bóng mặc y
phục đến đó. Đầu tiên là mặc váy, rồi đến áo cho tượng thần.
Đại lễ được tiếp theo khi tượng thần đã mặc trên mình bộ xiêm bào
lộng lẫy, các lẽ vật dâng cúng được bày ra trước bệ thờ. Chủ trì
buổi lễ là vị cả sư, bà bóng bày lễ vật, thầy kéo đàn Kanhi mời các
vị thần cùng về dự lễ. Lần lượt thầy cò ke hát mời 30 vị thần, mỗi
vị thần thầy hát một bài thánh ca để mời. Thầy cả sư làm phép đọc
kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ và phù hộ độ trì cho muôn
dân. Kết thúc đại lễ là màn vũ điệu múa thiêng của bà bóng.
Trong lúc bà bóng đang xuất thần điệu múa thiêng bên trong tháp
để kết thúc đại lễ thì bên ngoài bắt đầu mở hội. Những điệu trống
Ginăng, kèn Saranai cùng loạt vang lên, cầm nhịp cho các cô gái
Chăm trong vũ điệu cuồng nhiệt, say sưa, hấp dẫn, thôi thúc mọi
người. Không khí vui nhộn liên tục cho đến khi mặt trời khuất sau
các dãy núi,
+ Phần hội: Kết thúc phần nghi lễ ở các đền, chùa và tháp, thì
không khí của hội lại sôi nổi diễn ra ở các làng, thôn xóm của
12
người Chăm. Nhân dịp này các thôn xóm Chăm nhộn nhịp với
những trò chơi dân gian, thể thao, biểu diễn văn nghệ của các
chàng trai, thiếu nữ Chăm.Ở phần hội, thông qua các cuộc thi dân
gian, du khách sẽ được các nghệ nhân Chăm hướng dẫn cách trưng
bày và trang trí lễ vật để dân cúng tổ tiên, làm bánh gừng. Ngoài ra
du khách còn được thưởng thức triển lãm ảnh, đồ gốm đặc trưng
của người Chăm. Cũng trong dịp này, Trung tâm trưng bày văn
hóa Chăm Bình Thuận tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ
đậm đà bản sắc văn hóa dân gian để phục vụ đồng bào Chăm và du
khách vui Tết Katê. Trung tâm còn tổ chức chương trình giao lưu
văn hóa đặc trưng của dân tộc mang ý nghĩa cầu mưa thuận gió
hòa, mùa màng tươi tốt; tổ chức nhiều hội thi văn hóa truyền thống
Chăm như hòa tấu nhạc cụ dân tộc, thi nắn bánh gừng, thi viết chữ
Chăm truyền thống nhanh và đẹp
13
Các lễ hội Katê ở các làng Chăm diễn ra một hoặc có khi là vài
ngày sau khi kết thúc lễ hội ở các tháp. Ở đây, mấy hôm trước
ngày hành lễ Katê làng, dân làng đã quét dọn đền miếu (mỗi làng
Chăm thường thờ riêng một vị thần), chuẩn bị sân khấu, bãi chơi
để thi dệt thổ cẩm Chăm, thi đội nước, kéo co,…Những năm gần
đây còn tổ chức cho thanh niên chơi bóng đá, bóng chuyền, mọi
nhà đều sắp xếp, trang hoàng nhà cửa, mua sắm đồ ăn, thức
uống Nếu như lễ hội Katê ở tháp nặng về phần lễ thì Katê làng lại
nghiêng về phần hội.
Trong ngày hội Katê làng, sau khi chuẩn bị xong lễ vật, buổi sáng,
mọi người làm lễ cúng Katê ở Nhà Làng để cầu mong thần phù hộ
cho dân làng bình an, khoẻ mạnh và làm ăn phát đạt. Chủ lễ không
phải là chức sắc tôn giáo mà chủ làng (Pô Paley) hoặc già làng có
uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Khi kết thúc buổi lễ là lúc
bắt đầu các trò chơi. Tại làng Mỹ Nghiệp, nơi tập trung hơn 500
thợ dệt thổ cẩm Chăm lành nghề (thị trấn Phước Dân huyện Ninh
Phước, Ninh Thuận) trong lễ hội Katê hàng năm, ngoài các trò
chơi như, múa quạt, kéo co, đã diễn ra hội thi dệt thổ cẩm rất sôi
nổi.
Khi lễ Katê làng kết thúc thì lễ Katê gia đình mới được bắt đầu.
Mỗi gia đình, tuỳ theo điều kiện của mình mà mua sắm các thứ cho
ăn mặc như Tết nguyên đán của người Kinh vậy. Khi cúng lễ ở
mỗi nhà, mọi người trong gia đình phải có mặt đầy đủ để cầu mong
tổ tiên thần linh phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, tránh được
rủi ro, gặp nhiều may mắn, Đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ giáo
dục con cháu nhớ ơn công lao sinh thành, giáo dưỡng của ông bà,
tổ tiên, Mọi người sau khi cúng lễ xong thì hưởng lễ hay đi thăm
viếng người thân, bạn bè, chúc tụng nhau. Trong lúc đến viếng
thăm nhau, ngoài những lời chúc tụng về sức khoẻ, hạnh phúc và
công việc, người Chăm hay mời nhau uống rượu, ăn các loại bánh,
trái cây,
Lễ hội Katê Chăm thực chất là lễ nghi nông nghiệp tôn thờ các vị
thần nông, thần thủy lợi, thờ các anh hùng dân tộc, anh hùng văn
hóa như vua Pôklong Garai, Pô Rôme Ðây là mùa tương đối
nông nhàn, do đó ngày hội Katê đa dạng trong sắc thái biểu hiện,
trong đối tượng tờ cúng, trong không gian văn hóa và trong cách
14
diễn xướng dân gian. Lễ hội Katê không những thu hút dân làng,
du khách bởi những sinh hoạt văn hóa đặc sắc như đấu bóng, văn
nghệ, thi dệt vải, đội nước mà còn hướng người Chăm về cội
nguồn dân tộc, về Tháp Chăm cổ kính.
Các hoạt động giữa phần lễ và phần hội được gắn kết chặt chẽ tạo
ra điểm nhấn làm nổi bật lễ hội như nghi thức rước y trang giao lưu
văn nghệ, trình diễn nghề dệt thổ cẩm, nghề gốm bằng phương
pháp thủ công và các trò chơi dân gian mang đậm sắc thái của
đồng bào Chăm.Tóm lại thì lễ hội Katê không chỉ nhằm duy trì và
phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể mà còn góp phần giới
thiệu, quảng bá đến du khách trong và ngoài nước nét văn hóa đặc
sắc của Bình Thuận nói chung và văn hóa cộng đồng người Chăm
nói riêng.
2.3 Sắc màu của đạo Bà La Môn được bản địa hóa trong lễ hội
Mặc dầu cộng đồng người Chăm chịu nhiều ảnh hưởng nền văn
hoá Ấn Độ song lễ hội Katê lại biểu hiện một lối đi riêng, một thái
độ tiếp thu văn hoá gắn với truyền thống văn hóa bản địa. Vì người
Chăm theo chế độ mẫu hệ nên vị thần Vishnu trở thành nữ thần
khác với Ấn Độ. Những người chủ của lễ hội này, của nền văn hoá
Chăm, mặc dù trong tâm thức, người ta vẫn thờ cúng thần Siva
nhưng cộng đồng người Chăm trên lãnh thổ Việt Nam còn coi
trọng, tôn thờ những vị anh hùng dân tộc, kết hợp hài hoà giữa cái
xưa và cái nay, cái quá khứ và cái hiện tại. Vì vậy mà các tháp
Chăm, nơi hành lễ Katê đều gắn liền tên của một ông vua có nhiều
công với thần dân, được mọi người phong thành Thần và tên tháp
thờ mang tên ông, như tháp Pô Klong Garai, Pô Rômê, Pô
Nưgar, Đấy chính là một điểm mấu chốt để nền văn hóa Chăm
mãi mãi vững bền trước các biến cố lịch sử, biểu hiện sức sống
mãnh liệt của văn minh cội nguồn hội nhập với văn hoá Đông Nam
Á, làm cho diện mạo của lễ hội Katê thêm phong phú, đa dạng,
hợp lòng người, mãi mãi trường tồn.
2.4 Ý nghĩa và giá trị của lễ hội
- Ý nghĩa:
+ Lễ hội Katê là lễ hội mang nhiều tấm gương phản chiếu những
sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ những di sản văn hóa
15
Chăm đồ sộ mà người Chăm tích lũy được trên dặm đường lịch sử
của mình, đó chính là dịp để người Chăm phô bày sắc thái văn hóa
của dân tộc mình, không những vậy lễ hội Katê còn đem đến cho
người dự hội những vẻ đẹp của tháp Chăm cổ kính, những sản
phẩm của nghề trồng lúa và đi biển, thông qua những lễ vật dâng
cúng lễ hội còn trình diễn cho mọi người thấy được một nền ca-
múa-nhạc dân gian giàu bản sắc riêng. Cũng chính vì vậy nên lễ
hội Katê mang đậm bản sắc văn hóa,lịch sử của người Chăm.
Lễ hội Katê còn tôn vinh vẻ đẹp văn hóa của đồng bào Chăm lúc
bấy giờ.
+ Cũng như chúng ta đã biết, lễ hội Katê mang nhiều yếu tố đối lập
của cấu trúc lưỡng hợp: màu sắc, nghi lễ, hội hè từ đực-cái, ngày-
đêm, sáng-tối. Tất cả đều thể hiện một ước vọng phồn thực trong
sự liên kết lứa đôi, cầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của con người,
vật nuôi và mùa màng tốt tươi của cư dân nông nghiệp. Đó cũng
chính khát vọng của tất cả người dân ở đây, họ đều mong cho
chính họ có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
+ Lễ hội Katê còn là lễ hội dân gian thiêng liêng, đặc sắc nhất của
cộng đồng người Chăm, là lễ hội tưởng nhớ các vị Nam thần,
tưởng nhớ ông bà tổ tiên, trời đất phù hộ độ tì cho con người nơi
đây. Đó cũng là nghi thức thể hiện sự biết ơn của con cháu đời sau
với những vị thần đã có công, những người đã khuất, những vị anh
hùng dân tộc, tạ ơn các thần linh đã giúp mưa thuận gió hòa, mùa
màng bội thu là tình cảm của thế hệ sau thể hiện lòng thành kính
với lớp người đi trước.
+ Cũng như ngày tết của người Kinh, lễ hội Katê để gắn chặt hơn
tình cảm của con cháu anh em trong gia đình, trong tộc họ. Đó là
dịp để mọi người hàn huyên tâm sự, để người ta tổ chức thăm
viếng giữa người thân tộc, bạn bè hoặc gia đình dòng họ nào khó
khăn sẽ nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng người. Đây cũng
được coi là một trong những nét đẹp văn hóa của người Chăm
vùng Ninh Thuận-Bình Thuận.
- Giá trị
+ Giá trị văn hóa, lịch sử
- Lễ hội Katê là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng
văn hóa của người Chăm, là tấm gương phản chiếu sinh hoạt cộng
đồng; nơi hội tụ những giá trị tinh hao văn hóa dân tộc. Do đó, lễ
16
hội không những gắn liền với đền tháp cổ kính – nơi hội tụ những
giá trị kĩ thuật và mỹ thuật đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật của nền
văn hóa Chăm mà còn gắn với những yếu tố khác của văn hóa như:
đồ cúng tế, ẩm thực, y phục Đặc biệt, đến với lễ hội Katê, du
khách sẽ thưởng thức những tiết mục văn nghệ độc đáo, với những
bài thánh ca ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nước. Lễ
hội còn những phần biểu diễn trước công chúng những bài ca múa
- nhạc dân gian với phong cách riêng độc đáo. Chính vì vậy lễ hội
luôn mang lại cho ta những nét văn hóa rất riêng của mỗi vùng
miền.
-Dưới sự quan tâm của Đảng và nhà nước trong việc bảo tồn, lưu
giữ, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của các dân tộc, Lễ hội
Katê năm nay đã tái hiện bức tranh sinh động đầy màu sắc và âm
thanh theo đúng nghi thức vốn có của nền văn hóa Chămpa dưới
chân tháp cổ PôSahInư bởi những nghệ nhân của các làng Chăm
trong tỉnh. Đây là lễ hội mang ý nghĩa lịch sử to lớn của toàn đồng
bào Chăm, nó được tổ chức với sự chủ trì của các bậc tiền bối đi
trước, tôn vinh được vẻ đẹp lịch sử văn hóa của đồng bào Chămpa.
Nhờ vào lễ hội mà ở đó những yếu tố văn hóa truyền thống không
ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát
triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước.
Đó chính là cả kết quả của quá trình lịch sử mà không chỉ của một
cộng đồng người, là tinh hoa được đúc kết, kiểm chứng trong suốt
chiều dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng dân cư nào
=> Đó là sự kết tinh của yếu tố văn hóa, lịch sử của chính cộng
đồng người Champa. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, liên kết chặt chẽ
mọi người lại với nhau, hình thành nên một giá trị văn hóa truyền
thống lịch sử lâu đời không bao giờ có thể mờ nhạt được. Thể hiện
sự phấn đấu, công lao của các lớp người luôn bảo vệ và phát huy
truyền thống này. Trong quá trình hình thành và tồn tại cho đến
hôm nay, nó luôn gắn kết mọi cộng đồng với nhau, làm nên một
nền văn hóa đặc sắc, rực rỡ.
+ Giá trị hướng về cội nguồn:
Tất cả mọi lễ hội đều hướng về cội nguồn và lễ hội Katê cũng vậy,
đó là tự nhiên mà con người sinh ra từ trước đến nay vẫn hướng
về, nguồn cội cộng đồng như đất nước, tổ tiên, nguồn cội văn
hóa Hơn thế nữa, nguồn cội đã đi vào tâm thức của con người
Việt Nam. Con người Việt Nam - ''uống nước nhớ nguồn'' - ''ăn
17
quả nhớ kẻ trồng cây''
Trong xã hội hiện đại, khoa học kĩ thuật phát triển, với lịch sử một
ngày đang bị mai một dần thì con người đang cố gắng để mang cội
nguồn về với cuộc sống thực tại, trong môi trường như vậy, con
người càng phải hướng về cội nguồn tự nhiên của mình, khẳng
định nguồn gốc và bản sắc văn hóa trong cái chung của văn hóa
nhân loại.
+ Gía trị tâm linh
-Lễ hội Katê có một sức lôi cuốn, hấp dẫn, thu hút mọi người và
trở thành một nhu cầu khát vọng không thể thiếu của cộng đồng
người Chăm. Khát vọng đó được đáp ứng và thỏa nguyện qua mọi
thời đại, xuyên suốt quá trình sinh sống và tồn tại của con người.
- Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn
hiện hữu đời sống tâm linh. Đây chính là đời sống của con người
hướng về cái cao cả thiêng liêng-chân thiện mỹ-cái mà con người
ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín
ngưỡng. Vậy nên lễ hội Katê cũng ảnh hưởng đến tâm linh, tuy
nhiên cũng không phải là tất cả nhưng hiện thực nó luôn phản ánh
gần một nữa như đời sống tâm linh của con người, các nghi lễ đã
góp phần làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con
người, đó là ''cuộc đời thứ hai'', là trạng thái ''thăng hoa'' từ đời
thực trần tục. Tất cả đó là trạng thái ''thăng hoa'' từ đời sống hiện
thực, vượt lên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội thuộc về
phạm trù thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng
với cái trần tục của đời sống hiện thực. Tâm linh của lễ hội còn thể
hiện qua việc thờ cúng, cần nguyện, thờ các vị thần những người
đã khuất
- Lễ hội mang nhiều giá trị tâm linh đối với cộng đồng người
Chăm, là dịp để mọi người hướng tu tâm, trên thờ thân đức, cầu
mong mọi việc tốt đẹp sẽ đến với mọi người, nhờ ân đức mà thánh
thần độ trì, kế đến là tổ tiên ông bà che chở. Nhưng cái cốt lõi quan
trọng ở đây là mỗi người phải biết ơn, đền ơn, kết nối truyền thống
gia đình ''Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng/Nghĩa sinh thành
muôn kiếp khó đáp đền''.
+ Giá trị sáng tạo và thụ hưởng văn hóa:
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng-văn hóa cộng đồng
của nhân dân ở Bình Thuận-Ninh Thuận. Ở lễ hội đó nhân dân tự
18
đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hóa
cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hóa tâm linh, do vậy lễ hội
bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc.
Đặc biệt trong ''thời điểm mạnh'' của lễ hội, khi mà tất cả mọi
người chan hòa không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biết
xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xóa nhòa, con
người cùng sáng tạo và thừa hưởng những giá trị văn hóa do chính
mình tạo nên.
+ Giá trị bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa:
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc mà
còn là sư bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân tộc ấy.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng là lễ hội mà chỉ là vài ngày hội
trong một năm, nơi thôn quê tĩnh lặng đó cất lên tiếng trống
chiêng, nơi đình làng nhộn nhịp, nơi đó con người được hồi sinh,
sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay việc
bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa trở dân tộc trở nên quan
trọng hơn hết, làng xã, lễ hội trở thành một gánh nặng để phát triển
được giá trị của lễ hội
Phát triển và bảo tồn trở thành một vấn đề cấp bách và ảnh hưởng
đến đời sống cộng đồng.
III Kết luận
Lễ hội Katê không chỉ phát huy truyền thống văn hóa dân tộc
Chăm, mà thông qua đó còn giới thiệu, quảng bá những nét văn
hóa đặc sắc của đồng bào Chăm nói riêng, vùng đất Bình Thuận
nói chung với du khách trong và ngoài nước. Mặc dù trải qua nhiều
năm tháng nhưng lễ hội Katê của đồng bào Chăm vẫn được tái
hiện với rực rỡ sắc màu và âm thanh theo đúng nghi thức nguyên
gốc vốn có của một nền văn hóa Chămpa bởi những nghệ nhân đến
từ các làng Chăm trong tỉnh Bình Thuận. Những nghi thức truyền
thống trong phần Lễ như: Mở của tháp, tắm bệ thờ Linga-Yoni,
cúng chính đã thể hiện vẻ đẹp uy nghi của những đền, chùa và
tháp Chăm. Những điệu múa Biyên, Marai truyền thống của những
thiếu nữ Chăm duyên dáng, uyển chuyển hòa quyện trong những
19
trống Baranưng rộn ràng, tiếng réo rắt của kèn Saranai giúp du
khách có thể hình dung tổng quan về một nền văn hóa Chăm độc
đáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vi – vn.facebook.com
Www.youtobe.com
Baotangnhanhoc.org
www.google.com.vn
Giáo trình lịch sử tư tưởng Việt Nam
vv
20
Danh sách nhóm 2:
1. Lê thị Hà (nhóm trưởng)
2. Thái Thị Hạnh
3. Lê Thị Hồng Hạnh
4. Nguyễn Hữu Hàng
5. Nguyễn Thanh Hằng
6. Đỗ Gia Hân
7. Nguyễn Văn Hậu
8. Nguyễn Văn Hiếu
9. Thái Thị Hòa
21