Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Giới thiệu 3 quốc gia Đông Nam Á hải đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 47 trang )

1.Sự so sánh giữa ba quốc gia trong khu vực : 43
3.Vị thế và tầm quan trọng của các quốc gia Đông Nam Á hải đảo: 44
C.KẾT LUẬN : 46
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO : 47
A. DẪN NHẬP :
Nằm ở vị trí chiến lược, ngay tại ngã tư của các tuyến đường mậu dịch thế giới,
khu vực Đông Nam Á đón nhận rất nhiều nguồn ảnh hưởng từ bên ngoài: Ấn Độ, Ả
Rập, Trung Quốc, Châu Âu và cả phần còn lại của thế giới. Tất cả những ảnh hưởng
này được hấp thụ và kế thừa trong nền văn hoá bản địa, rồi lại được thể hiện ra qua
nền văn hoá, ngôn ngữ, kiến trúc… độc đáo nhưng lại có những mối quan hệ mật thiết
với những nền văn hoá mà nó chịu ảnh hưởng. Với vị trí và tầm quan trọng của mình
trong lịch sử Đông Nam Á hải đảo cũng như các quốc gia trong khu vực đang dần
khẳng định mình trên trường quốc tế. Tuy là một quần đảo nhỏ các quốc gia sinh sống
trong khu vực bị chi phối bởi hệ thống khí hậu nhiệt đới gió mùa, các cư dân Đông
Nam Á hải đảo đã sáng tạo nên những nền văn hoá tộc người và địa phương đa dạng,
phong phú. Trên nền tảng của những tín ngưỡng, văn hóa dân gian bản và quá trình
tiếp nhận lâu dài ảnh hưởng văn hóa từ Ấn Độ, Trung Hoa, thế giới Ảrập và châu Âu
đã làm gia tăng tính đa dạng về văn hoá và tôn giáo ở khu vực này. Hầu hết chữ viết
của cư dân Đông Nam Á đều được sáng tạo trên cơ sở chữ Ấn Độ và chữ Trung Hoa,
nhưngquá trình vay mượn này diễn ra vào những thời điểm khác nhau nên khi du
nhập vào các quốc gia nó được biến thể thành muôn hình muôn vẻ kiểu chữ khác
nhau. Các món ăn, lễ hội bên cạnh dấu ấn tín ngưỡng bản địa còn mang dấu ấn tôn
giáo của mỗi dân tộc.
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Với vị trí và tầm quan trọng của mình trong lịch sử, Đông Nam Á đã từ lâu thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước, nhiều nhà
khoa học khác nhau, các viện nghiên cứu: Viện Quan hệ Quốc Tế, Viện nghiên cứu
Đông Nam Á thược trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia và một số cơ
quan khác… đã có những công trình nghiên cứu về Đông Nam Á được xuất bản.
Một số tác phẩm được công bố như: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
– Bộ ngoại giao”, “Lược sử Đông Nam Á – Tác giả Phan Ngọc Liên, NXB GD Năm


1997”, “Lịch sử Đông Nam Á – Tác giả Lương Ninh (Chủ biên), NXB GD 2005”,
“Lịch sử phát triển Đông Nam Á – tác giả Mary Somers Heidhues, NXB văn hóa
thông tin”, Lịch sử 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới – tác giả Cao Liên.
Ngoài những bài viết được công bố thành sách, còn rất nhiều bài viết, chuyên
khảo đăng trên các tạp chí: Thời báo kinh tế, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á
(6/2006), Báo nhân dân (18,19/4/2010)…
Nhìn chung các công trình ấy, các bài viết ấy đã phần nào cho ta thấy được biểu
hiện, các đặc trưng về con người, điều kiện tự nhiên và một nền văn hóa vô cùng đặc
sắc của các nước Đông Nam Á hải đảo. Từ những cái đó đã tạo nên cơ sở, nền tảng
vững chắc nhất cho nhóm chúng tôi có một cái nhìn khái quát hơn về nó, từ đó bắt tay
vào nghiên cứu về con người, điều kiện tự nhiên và văn hóa một cách tốt nhất.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu :
Đặc điểm văn hóa của một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hải đảo và
làm rõ hơn về đất nước và con người của ba quốc gia Singapore, Indonesia, Philippin
trong khu vực Đông Nam Á hải đảo.
3. Mục đích nghiên cứu :
- Cho người đọc thấy được những nét sơ lược về các quốc gia Đông Nam Á hải
đảo cũng như ba quốc gia nổi bật Singapore, Indonesia và Philippin. Đem lại cái nhìn
đa chiều hơn về văn hóa của ba quốc gia trên.
- Tăng thêm nguồn tài liệu cho người đọc hiểu rõ hơn về đặc trưng văn hóa ba
quốc gia Singapore, Indonesia và Philippin.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Trong đề tài này nhóm chúng tôi sử dụng phương pháp:
- Phương pháp sưu tầm tài liệu.
- Phương pháp lựa chọn, phân tích tài liệu.
- Phương pháp so sánh và hệ thống.
5. Cấu trúc đề tài :
Đề tài nhóm chúng tôi gồm có phần dẫn nhập, nội dung, kết luận và tài liệu tham
khảo.
Hơn nữa đề tài gồm có 3 chương trong phần nội dung đó là:

Chương I: Khái quát về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo
Chương II: Giới thiệu 3 quốc gia ở Đông Nam Á hải đảo
Chương III: Tổng kết
B. NỘI DUNG :
Chương I: Khái quát chung về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo :
1.1 Điều kiện tự nhiên :
Đông Nam Á hải đảo là một vùng địa lý thuộc Đông Nam Á, có 6 quốc gia nằm
trong vung này là: Malaysia, Brunei, Singapore, Inđônêsia, Philippines và Đông
Timor.
- Vị trí địa lý: Các nước này tạo nên một Quần đảo Mã Lai. Quần đảo này
được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về Vành đai núi lửa Thái Bình
Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế giới.
- Khí hậu: Chủ yếu Khí hậu xích đạo. Thường xuyên có bão nhiệt đới tàn phá
nặng nề
Singapore: Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm gió mùa
Inđônêsia: Khí hậu nhiệt đới gió mùa
Philippin: Khí hậu nhiệt đới gió mùa
Malysia: Khí hậu xích đạo
Brunei: Khí hậu nhiệt đới xích đạo
Đông Ti Mo: Khí hậu nhiệt đới.
- Địa hình: Hệ thống núi hướng vòng cung Đông và Tây, Đông Bắc – Tây Nam,
núi lửa. Có núi và đồng bằng nhỏ hẹp ven biển, ít đồng bằng lớn.
- Sông ngòi: Vì là các nước hải đảo nên các con sông thường nhỏ và ngắn, ít
sông lớn
- Đông Nam Á hải đảo có tổng diện tích là: 2.271.574,7 km2
- Tổng số đảo của các nước thuộc vùng Đông Nam Á hải đảo là: hơn 20.000 các
hòn đảo lớn nhỏ. Trong đó, Inđônêsia là quốc gia có nhiều đảo nhất, con số lên
đến 17.500 hòn đảo.
- Tài nguyên: chủ yếu là rừng nhiệt đới và các loại khoáng sản như: dầu mỏ, khí
đốt, đồng ,

- Sinh thái: rừng xích đạo ẩm.
• Thuận lợi:
Phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng về sản phẩm
Phát triển tổng hợp kinh tế biển và thương mại
Nguồn nguyên, nhiên liệu dồi dào cho phát triển kinh tế.
• Khó khăn :
Thiên tai: động đất, sóng thần, bão
Diện tích rừng đang bị thu hẹp
1.2 Điều kiện lịch sử - xã hội :
• Lịch sử :
Ở khu vực Đông Nam Á nói chung và Đông Nam Á hải đảo nói riêng sau thời kì
phát triển thịnh đạt của chế độ phong kiến thì bước sang thế kỉ thứ 16 chế độ phong
kiến lâm vào suy yếu. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho các cuộc xâm nhập và xâm
lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Sau các cuộc phát kiến địa lý thì Đông Nam Á trong đó gồm cả Đông Nam Á hải đảo
trở thành một trong những đối tượng quan trọng của thực dân Bồ Đào Nha, sau đó là
các cường quốc thực dân Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và Pháp…kỉ nguyên của chủ
nghĩa thực dân bắt đầu vào đầu thế kỉ 16. Bồ Đào Nha là nước đầu tiên có mặt tại
Đông Nam Á để tiến hành xây dựng đế quốc thuộc địa của mình. Bồ Đào Nha đã
chiếm lấy các đảo miền Đông Nam Indonesia. Nối gót theo là Tây Ban Nha mặc dù
đã kí kết hiệp ước với Bồ Đào Nha là ngừng thám hiểm nhưng người Tây Ban Nha
vẫn đến được quần đảo mà họ gọi là Philippin và thành lập thuộc địa của mình.
Sau Tây Ban Nha là Hà Lan, Anh, Pháp cũng tìm cách xâm lược. Có thể nói lòng
tham của chủ nghĩa thực dân là vô đáy và không có giới hạn của nó. Indonesia nhanh
chóng rơi vào tay Hà Lan và Hà Lan nhanh chóng gạt bỏ vai trò của người Bồ Đào
Nha ở khu vực này.
Ở phía Tây Đông Dương thực dân Anh đang chạy đua với Pháp để chinh phục miền
đất này. Như các quốc gia Đông Nam Á lục địa thì Malaysia cũng bị thực dân Anh
nhòm ngó và cuối cùng cũng trở thành “đất thực dân eo biển” của Anh. Anh hoàn
toàn thôn tính được Malaysia với nhiều chế độ chính trị khác nhau. Singapore và

Brunay đã từng trở thành thuộc địa của Anh. Tuy nhiên Anh không chiếm được vùng
đất này dễ dàng mà họ phải đấu tranh quyết liệt với Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp…
Những nước Đông Nam Á hải đảo cũng giống như các nước lục địa chịu khá nhiều sự
xâm lược của phương Tây và có nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra. Nhìn chung thời
điểm của các nước Đông Nam Á hải đảo trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây
khác nhau, quá trình chinh phục và xâm lược của thực dân phương Tây trải qua một
thời gian khá dài, không hề nhanh như họ mong muốn bởi những cuộc kháng cự của
dân tộc nơi đây. Có những nơi thực dân phải trải qua cuộc chinh phục kéo dài trên
dưới 3 thế kỉ mới hoàn thành như là Indonesia.
Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2, các nuớc Đông Nam Á hải đảo đã giành
được độc lập và đứng trước khá nhiều khó khăn về kinh tế xã hội, chế độ chính trị mà
tàn dư thực dân để lại. Các quốc gia loay hoay thích ứng với nền công nghiệp mới và
và dân dân các quốc gia đã vươn lên thoát qua khó khăn và đạt được những thành tựu
to lớn.
• Xã hội :
Dân cư của Đông Nam Á hải đảo khoảng 350 triệu người, chủ yếu là người Nam
Đảo và sử dụng ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo. Khu vực này có mối quan hệ xã hội và
văn hóa gần gũi với những người Nam Đảo ở Thái Bình Dương hơn là với cư dân
Đông Nam Á lục địa.
Các tôn giáo chính trong vùng là đạo Hồi , đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Hinđu và
tín ngưỡng vật linh truyền thống
Thông thường phần thuộc lục địa của Malaysia cũng được gộp vào như một thành
phần của Đông Nam Á hải đảo để đảm bảo cho việc tất cả các nhóm sắc tộc
Austronesia nhưng phi đại dương có thể được gộp cùng nhau trong một khu vực văn
hóa.
Nền văn hóa ở khu vực Đông Nam Á hải đảo có tính đồng nhất. Tính đồng nhất này
được xem là “Viễn Ấn” hay “Đại Ấn Độ”, được Coedes gọi là “những quốc gia Ấn
Độ hóa ở Đông Nam Á”, trong khi nhiều học giả khác coi đây là khu vực chịu ảnh
hưởng của Tung Hoa một phần (hoặc ở mức độ cao hơn như Singapore).
Những tổ chức có các quốc gia trong khu vực tham gia: ASEAN (Hiệp hội các quốc

gia Đông Nam Á): có 5 nước trừ Đông Ti Mo, APEC( Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á – Thái Bình Dương): 5 nước trừ Đông Ti Mo, WTO (Tổ chức thương mại thế giới):
5 nước trừ Đông Ti Mo….
Nhìn chung thì trải qua nhưng tiến trình lịch sử theo thời gian xã hội của các quốc gia
trong khu vực đã có nhưng biến đổi tạo nên những nét đặc trưng riêng của khu vực,
mang trong mình những giá trị to lớn đóng góp vào sự phát triển chung của toàn khu
vực Đông Nam Á.
Chương II: Giới thiệu 3 quốc gia ở Đông Nam Á hải đảo :
1. Đất nước và văn hóa Singapore :
1.1. Thông tin tổng quan :

( Quốc kì ) ( Quốc huy )
- Tên nước : Cộng hòa Singapore (tiếng Anh: Republic of Singapore ; Hán
Việt: Tân Gia Ba Cộng hòa quốc)
- Tổng thống hiện hành : Tony Trần Khánh Viêm
- Thủ đô : Singapore
- Đơn vị tiền tệ : Dollar Sing ( Viết tắt là SGD )
- Ngôn ngữ chính thức : Tiếng Hoa, Mã Lai, Ấn Độ và Tiếng Anh
-
( Vị trí Singapore trên bản đồ thế giới )
1.2. Điều kiện tự nhiên :
a. Vị trí địa lý và diện tích lãnh thổ :
Singapore là quốc gia nhỏ nhất ở Đông Nam Á.
- Vĩ độ: từ 1o09' Bắc đến 1o29' Bắc
- Kinh độ: từ 104o36' Đông đến 104o24' Đông
Vị trí: nằm phía nam của bán đảo Mã Lai, tiếp giáp tiểu bang Johor của
Malaysia về phía bắc và đối diện đảo Riau của Indonesia về phía nam. Là nước nhiệt
đới, Singapore nằm phía bắc đường xích đạo, chỉ cách 137 km.
Diện tích: 692,7 km2, gồm 64 đảo, 1 đảo lớn và 63 đảo nhỏ.
( Vị trí của Singapore )

Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi
nhiều đảo nhỏ: Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn
nhất của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore
là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m.
Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung ở khu vực phía bắc Singapore bao quanh sông
Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi đó những vùng
còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập niên 1960, chính phủ
đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên một Singapore với nhà cửa
san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và những
nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở thập niên
1960 lên 697,25 km² ngày nay, và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030.
( Bản đồ đất nước Singapore )
b. Khí hậu :
Singapore có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm gió mùa nên quốc đảo này nóng và ẩm
quanh năm. Nhiệt độ trung bình khoảng 31 độ C, và ít khi xuống dưới 23 độ.
Nhiệt độ theo từng qúy trong năm thay đổi như sau:
Tháng Cao nhất Thấp nhất
1 – 3 31,1
o
C 22,8
0
C
4 – 6 32,2
o
C 23,9
0
C
7 – 9 31,1
o

C 22,8
0
C
10 – 12 31,1
o
C 22,8
0
C
Với những số liệu đó, người ta có thể kết luận rằng khí hậu ở đây rất ôn hòa.
Tháng 5 và tháng 6 là thời gian ấm nhất ở đây và lạnh nhất là tháng 12 và tháng
Giêng. Mùa lạnh ở đây lại có nhiều mưa.
Singapore không có bốn mùa như các nước xa đường Xích đạo. Thời tiết ở đây
quanh năm hầu như không thay đổi với lượng mưa khá nhiều. Hầu hết những cơn mưa
rơi vào thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, do ảnh hưởng của gió mùa Đông
Bắc. Trong đợt gió mùa Tây Nam kéo dài từ tháng 6 đến tháng 9 thường có những
cơn mưa nặng hạt nhưng rất ngắn. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây là 2.400
mm. Giông bão ở đây thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 10.
Độ ẩm trung bình vào ban ngày là 84% và ban đêm là trên 90%. Độ ẩm này ở
vào mức đủ làm cho người châu Âu kinh ngạc. Có những câu chuyện truyền miệng kể
rằng có những hãng sản xuất ô tô phải cử kỹ sư đến Singapore để đo đạc độ ẩm tại
đây, và những tiêu chuẩn kỹ thuật để sản xuất xe cho Singapore phải được điều chỉnh
hàng tuần hoặc hàng tháng để tránh tình trạng xe của họ nhanh chóng bị rỉ sét.
c. Địa hình và tài nguyên thiên nhiên :
Địa hình thấp, có những cao nguyên nhấp nhô cùng các khu bảo tồn thiên nhiên
hoang dã.
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương được nhiều đảo nhỏ
khác bao quanh. Hòn đảo chính của Singapore khá bằng phẳng, với vài vùng đất cao ở
khu vực trung tâm. Độ cao tối đa của Singapore là 166 mét, ở vùng đồi Bukit Timah.
Tất cả các khu rừng rậm và đầm lầy đã được khai thác đề lấy đất sử dụng 1 phần dành
cho khu dân cư, thương mại và công nghiệp, phần khác để làm công viên và các khu

bảo tồn.
Đặc biệt, Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ
bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất
canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả. Ở Singapore không có
nguồn nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ
những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Singapore
chỉ có vài con sông và 1 số dòng suối ngắn. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng
nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế - một loại
nước có được sau quá trình khử muối.
1.3. Lịch sử hình thành :
Singapore được biết đến bởi những người đi biển vào khoảng thế kỷ III,
Singapore lúc này có tên gọi là Temasek (nghĩa là Thành phố Biển) là một trong
những trạm giao dịch cho Malaysia, Thái Lan, Java, Trung Quốc, Ấn Độ và các
thương nhân Ả Rập.
Vào thế XIII, hòn đảo này được gọi là Singapura (hay Thành phố Sư Tử) sau sự
xuất hiện một hiện tượng lạ có hình dáng giống con sư tử trên đảo. Đến thế kỷ XIX,
Phó Thống đốc người Anh ông Thomas Stamford Raffles đã cho xây dựng một cảng
thương mại trên đảo và ông gọi là Singapore sau tên gọi ban đầu của nó. Tên gọi
Singapore được dùng cho đến ngày nay.

( Thomas Stamford Raffles ) ( Kế hoạch đô thị Singapore )
Các đảo quốc trên mũi phía nam của Malaysia đã chứng kiến sự cai trị của
nhiều triều đại trong lịch sử phát triển của nó. Theo ghi chép được tìm thấy trong các
văn tự của người Trung Quốc vào thế kỷ III, hòn đảo Temasek dưới quyền cai trị của
đế chế Sumatran Srivijaya. Vào thế kỷ XIV các cuộc phát kiến địa lý diễn ra mạnh
mẽ, các nhà thám hiểm châu Âu đã tìm đến khu vực Đông Nam Á.
Vào năm 1511 Bồ Đào Nha chiếm được cảng Melaka (Malacca) buộc các vua
trị vì phải chạy về phía Nam và thành lập một chế độ mới là Vương quốc Hồi giáo
Johor. Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, quốc đảo sư tử là một phần của Vương
quốc Johor, tuy nhiên lúc này Singapore đang trở thành bài toán thương mại của các

nước phương Tây nhất là đế quốc Anh. Đến năm 1867 Singapore trở thành thuộc địa
của Anh.
Trong nửa đầu thế kỷ XX dưới sự thống trị của thực dân Anh, Singapore phát
triển nhanh chóng với sự hình thành các tổ chức tài chính, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc và cơ sở hạ tầng được mở rộng nhanh chóng, trở thành trung tâm thương
mại quan trọng bậc nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.
Vào năm 1959, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành chế độ tự trị ở
quốc gia này và cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra. Đảng Nhân Dân Hành Động
(PAP) đã giành được 43 ghế và Ông Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng đầu tiên của
Singapore.
( Thủ tướng đầu tiên của Singapore )
Vào năm 1961, Singapore sát nhập vào Malaya và hợp nhất với Liên bang
Malaya, Sarawak và Bắc Borneo thành nước Malaysia vào năm 1963. Tuy nhiên,
cuộc hợp nhất không đạt được nhiều thành công và gần 2 năm sau đó. Cụ thể là vào
ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore đã tách khỏi Malaysia và trở thành một quốc gia
độc lập với nền dân chủ có chủ quyền lãnh thổ. Vào ngày 22 tháng 12 năm đó,
Singapore cuối cùng đã chính thức trở thành một nước Cộng hòa độc lập.
Đến thập niên 1990, đảo quốc trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng
nhất trên thế giới, với một nền kinh tế thị trường tự do phát triển cao độ, các liên kết
mậu dịch quốc tế hùng mạnh, và GDP bình quân đầu người cao hàng đầu tại châu Á.
1.4. Điều kiện kinh tế :
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài.
Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác
hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát
triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước.
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu
châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc
dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi.
Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công nghiệp
Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán

dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.
Đây cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
( Một cảng biển ở Singapore )
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu
nhập quốc dân):
- Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại
cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%.
- Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la
Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh
chỉ còn 1,3%.
- Từ 1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%,
và năm 2000 đạt hơn 9%.
- Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau
đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng
trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004,
tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7%
và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2% do tác động của
khủng hoảng kinh tế.
( Sự phát triển của một góc Singapore là minh họa rõ nét cho sự phát triển kinh
tế của đất nước này )
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế
tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành
một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế
toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh.
1.5. Văn hóa – xã hội :
Tổng số dân của nước này là 4.553.009 người (tính đến tháng 7 năm 2007)
( Dân số Singapore khá đông )
• Văn hóa của Singapore là một nền văn hóa đa sắc tộc:
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Singapore là cơ cấu dân số đa dạng
gồm nhiều chủng tộc nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những thành tựu thương mại

của đất nước. Được ngài Thomas Stamford Raffles thành lập như một đầu mối giao
thương buôn bán vào ngày 29 tháng 1 năm 1819, Singapore – một làng chài nhỏ bé
ngày nào đã nhanh chóng thu hút những người dân nhập cư và các thương nhân đến từ
Trung Quốc, tiểu lục địa Ấn Độ, Indonesia, bán đảo Mã Lai và vùng Trung Đông. Bị
lôi cuốn bởi viễn cảnh tương lai tươi đẹp, những người nhập cư đã mang theo những
nét riêng về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và các lễ hội của mình đến
Singapore. Các cuộc kết hôn chéo và sự chung sống hòa hợp giữa các dân tộc đã dệt
nên một bức tranh văn hóa đầy màu sắc, hình thành một xã hội Singapore đa dạng và
mang lại cho đảo quốc này một di sản văn hóa phong phú đầy sức sống. Cho đến cuối
thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng tộc – đa văn
hóa nhất của châu Á với các dân tộc chủ yếu là người Hoa, người Mã Lai, người Ấn,
người Peranakan và những người Á Âu. Ngày nay, người Hoa chiếm 74,2% dân số
Singapore, và người Mã Lai – những cư dân đầu tiên ở nước này, chiếm 13,4%.
Người Ấn chiếm 9,2%, còn lại là người Á Âu, Perankan và các dân tộc khác chiếm
3,3%. Singapore còn là nơi sinh sống và làm việc của một cộng đồng người nước
ngoài rộng lớn nhau như Bắc Mỹ, Úc, Châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.
Sự có mặt của nhiều dân tộc trên đảo quốc này trong một thời kỳ dài đã có
những căng thẳng. Nhưng cho đến nay Singapore đã thực sự là một đất nước biết hòa
hợp và phát triển nét đặc sắc của văn hóa nhiều dân tộc.
Quốc kỳ của Singapore gồm 2 phần:
- Nửa ở trên màu đỏ có thình trăng lưỡi liềm và 5 ngôi sao, nửa dưới màu
trắng. Màu đỏ trên lá cờ tượng trưng cho mối tình anh em giữa người với
người, giữa các dân tộc trên thế giới, và sự bình đẳng của con người. Còn
một cách hiểu khác đó là vì Singapore là một nước đa dân tộc (gồm Trung
Quốc, Malaysia, Ấn Độ,…) nên có thể hiểu màu đỏ này theo nhiều mặt: sự
can đảm và dũng cảm của những người Malaysia, sự may mắn của những
người Trung Quốc.
- Màu trắng là biểu tượng của sự trong sạch và tinh khôi vĩnh viễn, không
nhơ bẩn. Trăng lưỡi liềm có nghĩa biểu trưng cho 1 quốc gia trẻ còn đang
trên đường phát triển. Năm ngôi sao nhỏ gần mặt trăng tượng trưng cho

năm lý tưởng của quốc gia Singapore: dân chủ, sự bình đẳng, hòa bình,
phát triển và công bằng.
Đến cuối thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng
tộc – đa văn hóa nhất của châu Á với các dân tộc chủ yếu là người Hoa, người Mã
Lai, người Ấn, người Peranakan và những người lai Á Âu.
( Singapore một đất nước đa sắc tộc )
Singapore còn là nơi sinh sống và làm việc của một cộng đồng người nước ngoài
rộng lớn với khoảng 20% là lực lượng lao động phổ thông đến từ Philippin, Indonesia
và Bangladesh. Số người nước ngoài còn lại đều là những chuyên gia đến từ nhiều
quốc gia khác nhau như Bắc Mỹ, Úc, Châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.
• Sự hòa hợp dân tộc dẫn đến việc hình thành những nhóm tôn giáo khác nhau:
Về tôn giáo, Singapore là một quốc gia đa tôn giáo, theo thống kê khoảng 51%
dân số Singapore theo Phật giáo và Đạo giáo, 15% dân số (chủ yếu là người Hoa,
người gốc Âu, và người Ân Độ) là tín đồ Đạo Cơ đốc.Hồi giáo chiếm khoảng 14%
dân số, chủ yếu tồn tại trong các cộng đồng người Mã Lai, người Ấn Độ theo Hồi
giáo, và người Hồi (người Hoa theo Hồi giáo). Có khỏang 15% dân số Singapore
tuyên bố họ không có tôn giáo, cá tôn giáo khác không đáng kể.
Khoe mình trên nền trời Singapore là những tòa tháp đặc biệt của các giáo đường
Hồi giáo, những ngọn tháp hình chóp của các thánh đường với lối kiến trúc Gôtích,
những tượng thần phức tạp của các đền thờ Hindu và những mái nhà với lối kiến trúc
khác biệt của các ngôi chùa Trung Hoa. Các tôn giáo chính ở đây là Hồi Giáo, Lão
Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Giáo, Độc Thần Giáo, (còn gọi là đạo Sikh,
một tôn giáo phát triển từ Ấn độ giáo vào thế kỷ XVI và dựa trên tín ngưỡng chỉ một
Thần) và Do Thái Giáo (Theo Uniquely Singapore).
( Kiến trúc Gô Tích )
• Tính đa dạng về văn hóa của Singapore còn được phản ánh qua ngôn ngữ:
Xét về khía cạnh văn hóa , xã hội hầu như mọi người dân Singapore đều có thể
nói nhiều hơn một thứ tiếng, trong đó nhiều người có thể nói được tới ba hoặc bốn thứ
tiếng. Hầu hết trẻ em lớn lên trong môi trường song ngữ từ thuở nhỏ và có thể học các
ngôn ngữ khác khi lớn lên. Trong phần lớn dân số biết hai thứ tiếng, tiếng Anh và

tiếng Hoa phổ thông là hai ngôn ngữ được dùng phổ biến nhất trong cuộc sống hàng
ngày. Trong khi tiếng Anh là ngôn ngữ chính được dạy ở trường học thì trẻ em vẫn
học tiếng mẹ đẻ để duy trì truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Đối với phần lớn người Hoa thì tiếng Phổ Thông được chọn là ngôn ngữ chính
thay vì các biến thể khác như tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, tiếng Quảng Đông,
tiếng Khách Gia, tiếng Hải Nam và tiếng Phúc Châu. Tiếng phổ thông là ngôn ngữ
được sử dụng phổ biến thứ hai của người Singapore gốc Hoa, tiếng Phổ Thông đã
được dùng rộng rãi kể từ phong trào “Nói Tiếng Phổ Thông” – phong trào hướng đến
cộng đồng người Hoa trong suốt năm 1980. Trong những năm 90, những nỗ lực này
nhằm hướng đến những người Hoa được giáo dục trong môi trường tiếng Anh. Chính
vì vậy chọn du học Singapore với đa dạng văn hóa xã hội như vậy sẽ giúp bạn phát
triển và thích nghi dễ dàng hơn.
Singapore có ngôn ngữ đại diện cho từng dân tộc trong số bốn nhóm dân tộc
chính của mình. Bốn ngôn ngữ chính thức trong Hiến pháp của Singapore là tiếng
Anh, tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng Tamil. Tuy nhiên, để ghi nhớ dân tộc Mã Lai là
những cư dân bản địa đầu tiên của đất nước, ngôn ngữ quốc gia được chọn là tiếng
Bahasa Melayu, hay còn gọi là tiếng Mã Lai.
Sự có mặt của các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các biến thể của tiếng Mã Lai và
tiếng Hoa, đã có ảnh hưởng rõ rệt đến cách dùng tiếng Anh tại Singapore. Ảnh hưởng
này đặc biệt rõ nét trong cách sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp thông thường, một
dạng tiếng Anh lai tiếng địa phương thường được biết đến với tên gọi Singlish. Là
một dấu hiệu đặc trưng để nhận biết người Singapore, ngôn ngữ này tiêu biểu cho
hình thức biến tấu ngôn ngữ bằng cách lồng ghép các từ của tiếng Mã Lai, tiếng Hoa
và tiếng Ấn vào tiếng Anh.
• Văn hóa Mã lai được thể hiện trong tư tưởng tôn giáo, phong tục tập quán
của họ cũng có quan hệ với tôn giáo :
Luật của đạo Islam và chế độ Sultan đã duy trì quan hệ đoàn kết và thái độ an
phận trong cuộc sống của người dân Singapore. Người Mã lai khi lấy vợ, lấy chồng
thường mời gần như toàn bộ người trong thôn bản đến tham dự lễ cưới của họ, khách
đến dự đám cưới sau khi cơm no rượu say ra về trên tay còn cầm một quả trứng luộc

chín với hàm ý mong cho họ đông con, đông cháu.
Khi ăn cơm không được đặt đũa lên trên bát hoặc đặt lên đĩa thức ăn. Khi không
ăn nữa cũng không được đặt lung tung mà phải đặt trên giá, đĩa tương ớt hoặc đặt trên
đĩa đựng xương. Nếu là nhân viên hàng hải, người làm nghề cá hoặc những người
thích chèo thuyền, khi ăn cơm không được lật con cá, bởi vì việc đó đồng nghĩa với
việc lật con tàu lật thuyền, do đó phải tách con cá đó ra, ăn từ trên xuống dưới.
Đối với người Singapore, dùng ngón tay trỏ chỉ người khác, nắm chặt nắm tay
hoặc ngón tay giữa đều bị coi là những động tác cực kỳ vô lễ. Hai tay không được tùy
tiện chắp vào sườn bởi vì đó là biểu hiện của sự bực tức.
Người Singapore cho rằng con số “4”, “7”, “13”, “37”, và “69” là những con số
tiêu cưc và không may mắn, họ ghét và kỵ nhất con số “7”, bình thường họ cố hết sức
để tránh gặp phải con số này.
Người Singapore quan niệm màu đen là màu không may mắn, màu tím cũng là
màu họ không thích. Họ chỉ thích màu hồng màu đỏ, bởi vì theo họ màu này tượng
trưng cho sự trang nghiêm, nhiệt huyết mãnh liệt, vui vẻ, dũng cảm và tượng trưng
cho sự khoan dung, độ lượng. Họ cũng thích màu xanh da trời và màu xanh lá cây.
Trong những ngày đầu năm mới, người dân Singapore không bao giờ quét dọn
nhà cửa, không gội đầu, bởi vì họ cho rằng làm như vậy sẽ mất hết may mắn, không
được đánh vỡ đồ đạc trong phòng, nhất là không được làm vỡ gương, vì đó là biểu
hiện của chuyện xấu và không may mắn; không được mặc đồ trắng, không được dùng
kim hoặc kéo, bởi vì những vật dụng này có thể đem đến vận hạn cho họ.
Đạo Islam là đạo chính của Singapore, đạo này cấm uống rượu, cấm ăn thịt lợn
và những đồ ăn chế biến từ lợn.
Người dân Singapore không hưởng ứng hút thuốc lá. Ở một số nơi như cầu thang
máy, rạp chiếu phim, trên những phương tiện giao thông công cộng nhất là trong văn
phòng…, quy định là nghiêm cấm hút thuốc, những ai vi phạm quy định này sẽ bị
phạt 500$ Singapore. Tại các nơi khác, cứ muốn hút thuốc phải hỏi ý kiến và được sự
đồng ý của đối phương.
Khi nói chuyện và trong giao tiếp, người ta tuyệt đối cấm kỵ bàn luận sự được
mất và chính trị hoặc sự tranh giành xô xát chủng tộc, thị phi tôn giáo…. nhưng có thể

bàn những kinh nghiệm du lịch, cũng có thể về những nơi nổi tiếng, ở các nơi mà bản
thân đã đi qua. Chủ đề được người dân Singapore bàn tới nhiều nhất là về những món
ăn sơn hào hải vị và khách sạn, nhà hàng.
Người Singapore rất kỵ nói “chúc phát tài” bởi vì họ luôn hiểu từ “tài” là “tài bất
nghĩa” hoặc “phúc bất nhân”. Khi nói “chúc phát tài” sẽ bị coi là chế giếu mắng chửi
và sỉ vả người khác.
• Một số lễ hội tiêu biểu như :
- Lễ hội ánh sáng Deepanah :
Lễ hội ánh sáng Deepanah là lễ hội của người theo đạo Hindu để biểu thị sự
chiến thắng của cái thiện với cái ác, từ đó soi rọi ánh sáng nơi u tối. Lễ hội này chủ
yếu được diễn ra tại khu tiểu Ấn của Singapore, trong lễ hội này, người theo đạo
Hindu trang hoàng nhà cửa với hàng chục ngọn đèn người ta tổ chức hội hè, bạn bè
đến thăm để chúc mừng nhau.
Riêng con đường Campbell ở khu Tiều Ấn Độ biến thành một làng lễ hội, trong
đó có trưng bày những sản phẩm văn hóa Ấn Độ gồm hàng nữ trang, đồ thú rừng, mỹ
nghệ, đồ gia dụng, tặng phẩm và gia vị. Những ngọn đèn trong hội hè góp phần thể
hiện những tác phẩm văn hóa của những nghệ nhân tài hoa, đại diện cho một sự hòa
trộn hiếm hoi giữa văn hóa miền Bắc và miền Nam Ấn độ.
( Lễ hội ánh sáng Deepanah )
- Lễ hội đèn Giáng Sinh :
Giáng Sinh luôn là dịp mong chờ nhất của người dân trên toàn thế giới và người
Singapore cũng không ngoại lệ, họ còn tổ chức hẳn một lễ hội mang tên đèn giáng
sinh để kỷ niệm ngày lễ này.
(Lễ hội đèn Giáng Sinh )
Đây có thể coi là lễ hội kéo dài nhất ở Singapore (từ tháng 11 đến tháng 1 năm
sau). Trong dịp này, trên con đường Orchard là vô số ngọn đèn hoa lệ được dùng để
chiếu sáng cho những tiết mục biểu diễn đầy hấp dẫn. Ngoài ta, 2 bên đường cũng
được dựng những cổng chào bắt mắt, đẹp đẽ được trang trí bằng những đuôi nheo và
chuông xinh xắn. Đây cũng là dịp để các khách sạn, cửa hàng thi thố tài năng trang trí
để có thể đoạt danh hiệu “tòa nhà đẹp nhất”. Đôi khi du khách còn nghe thấy những

tiếng hát thiên thần vang lên trong những sinh hoạt đặc biệt trong lễ giáng sinh được
tổ chức ở một cửa hàng nào đó.
- Lễ hội Hari Raya Puasa :
Lễ hội Hari Raya Puasa là một lễ hội lớn đầy màu sắc thú vị và lôi cuốn trong
văn hóa đất nước Singapore. Các bạn sẽ thỏa sức tận hưởng một không khí lễ hội náo
nhiệt với những con phố được trang hoàng rực rỡ cùng những sạp hàng mở cửa tới tận
khuya, bày bán đủ các loại mặt hàng từ thực phẩm, vải vóc đến các loại mặt hàng mỹ
nghệ.

( Một số hình ảnh của Lễ hội Hari Raya Puasa )
Đối với người Hồi giáo, tháng Ramadan là dành cho việc thờ phụng, những việc
làm từ thiện và hành vi của lòng từ bi . Để làm sạch cơ thể và tâm hồn của một người,
họ gần như sẽ không ăn uống gì trong ngày này cho tới khi mặt trời lặn , gia đình và
bạn bè tụ tập để cầu nguyện sau đó họ mới ăn bữa tối.
Tham gia lễ hội, bạn sẽ thấy các đoạn đường của Geylang Serai và Kampong
Glam trở nên sống động với màn trình diễn ngoài chợ và đường phố. Bên cạnh không
gian lấp lánh ánh đèn đường và các đồ trang trí truyền thống, bạn sẽ tìm thấy được các
gian hàng đường phố mở cửa tới tận khuya và bày bán đủ các loại mặt hàng: thực
phẩm truyền thống của Singapore, thời trang , sản phẩm dệt may và thủ công mỹ
nghệ… Sẽ rất dễ cho bạn để có thể lựa chọn một món đồ lưu niệm cho gia đình và bạn
bè sau chuyến đi du lịch Singapore hè 2015 giá rẻ của mình tại lễ hội này.
Trong lễ hội , các gia đình Hồi giáo ở Sigapore thường ăn mặc cùng một màu sắc
để biểu thị sự đoàn kết gia đình của họ . Những người đàn ông mặc áo sơ mi rộng với
quần tây được gọi là ‘ baju Melayu và phụ nữ mặc những trang phục truyền thống
cùng màu gọi là ‘ baju kurung . Nếu bạn may mắn , bạn có thể sẽ nhận được một lời
mời đến một gia đình Hồi giáo trong lễ hội này để thưởng thức một loạt các món ăn
cay được truyền thống phục vụ trong ba ngày của lễ hội, trong đó có nhiều gia vị thịt
bò “rendang” , rau cà ri sayur lodeh và bánh gạo gọi là ketupat.
- Lễ Phật Đản :
Cũng giống như các quốc gia sùng báo đạo Phật khác, Singapore cũng tưng bừng

tổ chức lễ Phật Đản với ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Bởi tại đất nước này có phần đông
người dân đều theo đạo Phật. Lễ hội Phật Đản được diễn ra vào ngày 15/4 âm lịch
hàng năm nhằm tưởng nhớ sự ra đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

( Một số hình ảnh của lễ phật đản ở Singapore )
Người dân đất nước Singapore tin rằng làm việc thiện trong ngày lễ Phật đản sẽ
mang lại cho họ nhiều phúc lộc hơn những ngày bình thường khác. Vì vậy các hoạt
động từ thiện vào những ngày này khá sôi nổi. Thậm chí, có nhiều người còn tổ chức
những buổi hiến máu nhân đạo tại bệnh viện. Ngoài ra, những nghi thức khác cũng
không thể thiếu trong ngày lễ Phật đản của người Singapore là: phóng sinh động vật
nhỏ, ăn chay, tụng kinh, và “tắm” cho tượng Phật
2. Đất nước và văn hóa Indonesia :
2.1. Thông tin tổng quan :

( Quốc kì ) ( Quốc huy )
- Tên nước : Indonesia (phiên âm tiếng Việt: In-đô-nê-xi-a, Hán Việt: Nam
Dương ; tên chính thức: Cộng hòa Indonesia, tiếng Indonesia: Republik
Indonesia)
- Tổng thống hiện hành : Joko Widodo
- Thủ đô : Jakarta
- Đơn vị tiền tệ : Rupiah Indonesia (IDR)
- Ngôn ngữ chính thức : tiếng Indonesia (trong tiếng Indonesia là Bahasa
Indonesia)
( Vị trí của Indonesia )
2.2. Điều kiện tự nhiên:
a. Vị trí địa lý và diện tích lãnh thổ :
- Vị trí địa lý:
Indonesia là quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới, gồm trên 17.500 hòn đảo lớn
nhỏ nằm ở khu vực giữa Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình Dương; phía Bắc giáp
Malaysia, phía Đông giáp Timor Leste và Papua New Guinea, phía Đông Nam và

Nam trông sang Australia qua biển, phía Tây trông ra Ấn Độ Dương.
( Vị trí Indonesia )
Khoảng 6.000 trong số đó không có người ở.Các hòn đảo nằm rải rác ở cả hai
phía đường xích đạo. Năm hòn đảo lớn nhất là Java, Sumatra, Kalimantan (phần
Borneo thuộc Indonesia), New Guinea (cùng chung với Papua New Guinea), và
Sulawesi. Indonesia có biên giới trên bộ với Malaysia trên hòn đảo Borneo và
Sebatik, Papua New Guinea trên đảo New Guinea, và Đông Timor trên đảo Timor.
Indonesia cũng có chung biên giới với Singapore, Malaysia, và Philippines ở phía bắc
và Australia ở phía nam bằng một dải nước hẹp. Thủ đô, Jakarta, nằm trên đảo Java là
thành phố lớn nhất nước, sau đó là Surabaya, Bandung, Medan, và Semarang. Với đặc
điểm địa lý trên, Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo".
( Các đảo lớn ở Indonesia )
- Diện tích: 1.919.440km2
Indonesia là nước đứng thứ 16 trên thế giới về diện tích đất liền. Mật độ dân số
trung bình là 134 người trên kilômét vuông (347 trên dặm vuông), đứng thứ 79 trên
thế giới, dù Java, hòn đảo đông dân nhất thế giới, có mật độ dân số khoảng 940 người
trên kilômét vuông (2.435 trên dặm vuông). Nằm ở độ cao 4.884 mét (16.024 ft),
Puncak Jaya tại Papua là đỉnh cao nhất Indonesia, và hồ Toba tại Sumatra là hồ lớn
nhất, với diện tích 1.145 kilômét vuông (442 dặm vuông).
Các con sông lớn nhất nước này nằm ở Kalimantan, và gồm các sông Mahakam
và Barito; những con sông này là các đường giao thông quan trọng nối giữa các khu
định cư trên đảo.
b. Khí hậu :
Nằm dọc theo xích đạo, Indonesia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa
mưa và khô riêng biệt. Lượng mưa trung bình hàng năm tại các vùng đất thấp khoảng
từ 1.780–3.175 milimét (70–125 in), và lên tới 6.100 milimét (240 in) tại các vùng
núi. Các vùng đồi núi—đặc biệt ở bờ biển phía tây Sumatra, Tây Java, Kalimantan,
Sulawesi, và Papua—có lượng mưa lớn nhất. Độ ẩm nói chung cao, trung bình
khoảng 80%. Nhiệt độ ít thay đổi trong năm; khoảng nhiệt độ ngày trung bình tại
Jakarta là 26–30 °C (79–86 °F).

c. Địa hình và tài nguyên thiên nhiên :
Phần lớn là vùng đất thấp ven biển, đất đai màu mỡ; các đảo lớn có núi.
Indonesia nằm trên các rìa của các mảng kiến tạo Thái Bình Dương, Âu Á, và
Úc khiến nước này trở thành nơi có nhiều núi lửa và thường xảy ra các vụ động đất.
Indonesia có ít nhất 150 núi lửa đang hoạt động, gồm cả Krakatoa và Tambora,
cả hai núi lửa này đều đã có những vụ phun trào gây phá hủy lớn trong thế kỷ 19. Vụ
phun trào siêu núi lửa Toba khoảng 70.000 năm trước, là một trong những vụ phun
trào lớn nhất từng xảy ra, và là một thảm họa toàn cầu. Những thảm họa gần đây liên
quan tới hoạt động kiến tạo gồm vụ sóng thần năm 2004 đã giết hại tổng cộng gần
230.000 người và khoảng 167.736 người tính riêng phía bắc Sumatra, và trận động đất
Yogyakarta năm 2006. Tuy nhiên, tro núi lửa là một yếu tố đóng góp vào sự màu mỡ
của đất trong lịch sử từng giúp nuôi sống mật độ dân cư dày tại Java và Bali
Rừng nhiệt đới ẩm chiếm gần 2/3 diện tích lãnh thổ. Đất canh tác 8% (3% được
tưới), đồng cỏ 10%, rừng và cây bụi 67%, các đất khác 15%. Khoáng sản chính: dầu
khí, thiếc, niken, bauxit, đồng, than, vàng, bạc.
2.3. Lịch sử hình thành :
Lịch sử Indonesia là dải thời gian rất dài, bắt đầu từ thời Cổ đại khoảng 1.7 triệu
năm trước dựa trên phát hiện về Homo erectus Java. Các giai đoạn lịch sử của
Indonesia có thể chia thành 5 kỷ:
- Thời đại tiền thực dân:
Các học giả người Ấn Độ đã viết về quần đảo của người Indonesia và các vương
quốc Hindu của người Dwipa Java khoảng 200 năm TCN. Bằng chứng về sự hiện
diện của nó còn sót lại đề cập đến 2 vương quốc đạo Hindu vào thế kỷ thứ 5 là Liên
minh Tarumanagara kiểm soát phía Tây Java và vương quốc Kutai tại vùng ven sông
Mahakam, Borneo. Vào năm 425 đạo Phật đã được du nhập vào vùng này.
Khi châu Âu tiến tới thời kỳ phục hưng, quần đảo của người Indonesia đã trải
qua hàng ngàn năm văn minh với sự thống trị của 2 vương quốc lớn là Srivijaya tại
Sumatra, và Majapahit tại Java. Cả 2 vương quốc lớn này đều có rất nhiều các quốc
gia chư hầu nhỏ xung quanh, liên hệ với nhau qua buôn bán thương mại.
Sau đó là sự xuất hiện của các vương quốc theo đạo Hindu, đạo Phật, đạo Hồi tại

đảo Java và Sumatra. Các quốc gia này phát triển dựa trên thương mại, buôn bán hàng
hải.
- Thời đại thuộc địa:
• Giai đoạn thống trị của người Bồ Đào Nha:
Giai đoạn 1511-1526, trong 15 quân đảo trở thành càng biển quan trọng của Đế
chế Bồ Đào Nha, trở thành tuyến đường chính đến các đảo Sumatra, Java, Banda, và
Maluku.
Năm 1511, người Bồ Đào Nha đánh bại vương quốc Malacca.
Năm 1512, người Bồ Đào Nha thiết lập giao thương với vương quốc Sunda.
• Giai đoạn Hồi giáo ảnh hưởng :
Các thương gia hồi giáo được ghi nhận là đến quần đảo Indonesia từ thế kỷ 6,
nhưng việc Hồi giáo hoá Indonesia bắt đầu từ thế kỷ 13 với việc cải đạo của vua Acer
ở miền cực bắc Sumatra, song việc Hồi giáo hoá diễn ra rất chậm cùng với việc dân
cư ở đây đưa các tín lý hồi giáo vào các hệ thống triết lý và tôn giáo sẵn có khi họ là
cho Hồi giáo thích nghi với Indonesia.
Các vương quốc nội địa đều là các nhà nước nông nghiệp giàu có do thặng dư về
nông sản, họ là những nhà nước quân chủ hùng mạnh với hệ thống thuế đánh trên
nông sản và lao động của nông dân. Họ cũng phát triển một hệ thống pháp luật và cơ
cấu chính quyền, thặng dư về nông sản đã nuôi sống hoàng gia và những người thợ
giỏi để xây dựng những ngôi đền bằng đá vĩ đại. Các hoàng gia khuyến khích những
loại hình nghệ thuật cao cấp như âm nhạc, múa, văn chương. Các trường ca vĩ đại của
Ấn Độ như Mahabharata và Ramayana đã được cải biên bởi các nhạc sĩ, vũ công cung
đình, làm phương tiện để truyền bá những giá trị văn hóa và đạo đức của người Java
và Bali. Hệ thống chữ viết dựa trên tiếng Phạn với nhiều từ thâm nhập vào các ngôn
ngữ địa phương.
- Thời kì thuộc địa của Hà Lan :
Chịu sự kiểm soát của người châu Âu, đặc biệt là người Hà Lan với sự kiểm soát
của Công ty Đông Ấn Hà Lan, họ đã chiếm vùng đất này để kiểm soát con đường gia
vị, hương liệu. Khoảng 3,5 thế kỷ là thuộc địa, bắt đầu từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ
20.

Trong thời kỳ Hà Lan đô hộ, cuộc khởi nghĩa giành độc lập lớn nhất có lẽ là
cuộc Chiến tranh Java (1825-1830) giữa hoàng tử Diponegoro và tướng De Kock. Kết
quả khoảng 200.000 người chết, trong đó 8.000 là người Hà Lan. Mặc dù người Hà
Lan sau này thường nói tới sự hiện diện 3 thế kỷ của họ ở Đông Ấn, song đối với đa
số dân cư ở đây, sự sát nhập vào Đông Ấn chỉ diễn ra vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ
20. Niềm tự hào địa phương, văn hóa chính trị và hiểu biết về lịch sử địa phương vẫn
mạnh mẽ trong dân chúng cho đến khi người Nhật tiêu diệt đế chế Hà Lan ở đây vào
năm 1941.
- Thời đại mới dành độc lập:
Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản chiếm Indonesia trong tay Hà Lan năm 1942.
Sau khi bị quả bom Nagasaki 9 tháng 8 năm 1945, họ định đem ông Sukarno là lãnh
tụ các phe nhóm yêu nước của Indonesia đi an trí ở Sài Gòn để tránh cuộc tổng khởi
nghĩa. Một nhóm thanh niên trẻ bắt cóc được ông Sukarno khỏi tay người Nhật. Ngày
17 tháng 8 năm 1945, hai ông Sukarno và Hatta tuyên bố Indonesia độc lập
Trong cuộc chiến tiếp theo bản tuyên ngôn ngày 17 tháng 8, Indonesia phải
đương đầu với quân Nhật, rồi tiếp đến là quân Hà Lan có sự tiếp sức của quân Anh.
May nhờ ngoại giao khéo léo, người Indonesia đã không phải đổ quá nhiều xương
máu: chỉ khoảng 45.000 đến 100.000 chiến sĩ và 25.000 đến 100.000 thường dân
Indonesia bị thiệt mạng. Cuối năm 1949, Indonesia được Hà Lan công nhận là quốc
gia độc lập và bàn giao lại hệ thống hành chính. Indonesia là thành viên Liên hợp
quốc từ 25 tháng 10 năm 1950.
Cột mốc là Tuyên bố độc lập của người Indonesia (1945) đến sự sụp đổ của
chính quyền Sukarno (1966).
- Thời đại trật tự mới: 32 năm dưới sự thống trị của Suharto (1966-1988).
- Thời đại cải tổ: Sụp đổ của Suharto đến hiện tại.
-
2.4. Điều kiện kinh tế :
Indonesia là một trong những nước có nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á. Trong
gần 30 năm “trật tự mới” (1966-1997), Indonesia đã đạt được nhiều tiến bộ to lớn về
kinh tế, GDP trung bình hàng năm luôn ở mức trên 7,2%.

Năm 1998, Indonesia là nước phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực với mức tăng trưởng GDP âm 18%. Năm 1999,
kinh tế từng bước được phục hồi, tốc độ tăng trưởng đạt 0,48%.
Từ năm 2000-2008, kinh tế Indonesia tiếp tục hồi phục. Năm 2007, tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 6,4%; năm 2008 đạt 6,1%.
Cuối năm 2008, đầu năm 2009, kinh tế Indonesia gặp khó khăn do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới. Do đó, tốc độ tăng trưởng GDP năm
2009 chỉ đạt 4,5%, tỷ lệ thất nghiệp 7,7% và tỷ lệ lạm phát là 4,8%.
Sáu tháng đầu năm 2010, GDP của Indonesia tăng 5,9%, dự kiến cả năm 2010
đạt 6,2%. Dự trữ ngoại tệ đến hết tháng 8-2010 đạt mức cao kỷ lục 81,3 tỷ USD.
( Indonesia trên con đường trở thành cường quốc kinh tế )
- Về công nghiệp :
Tổng giá trị các sản phẩm công nghiệp chiếm 47% GDP.

×