Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nước tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.47 KB, 71 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƢƠNG MẠI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36: 2010 – 2014

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ BẢO HIỂM
HÀNG HÓA TRONG NƢỚC
TẠI VIỆT NAM





Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ĐOÀN NGUYỄN MINH THUẬN NGUYỄN MỘNG CẦM
MSSV: 5105938
LỚP: LUẬT THƢƠNG MẠI 1-K36




Cần Thơ, tháng 12 năm 2013
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƢƠNG MẠI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36: 2010 – 2014


QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ BẢO HIỂM
HÀNG HÓA TRONG NƢỚC
TẠI VIỆT NAM





Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ĐOÀN NGUYỄN MINH THUẬN NGUYỄN MỘNG CẦM
MSSV: 5105938
LỚP: LUẬT THƢƠNG MẠI 1-K36




Cần Thơ, tháng 12 năm 2013

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận SVTH: Nguyễn Mộng Cầm


LỜI CẢM ƠN
Bốn năm học đã trôi qua, cánh cửa đại học đang từ từ khép
lại lưu giữ bao kỷ niệm thời sinh viên, hành trang mỗi chúng ta
mang theo khi rời ghế giảng đường là những tri thức mà Thầy
Cô đã tận tình truyền đạt.
Lời cảm ơn sâu sắc nhất em xin gửi đến cha mẹ, người đã
sinh ra em, nuôi em khôn lớn và dìu dắt em trưởng thành để có
một tương lai tươi sáng như ngày hôm nay. Lời cảm ơn thứ hai

em xin được gửi đến quý Thầy Cô khoa Luật – Đại Học Cần
Thơ đã mang đến cho chúng em nguồn kiến thức quý báu và
những bài học làm người đáng trân trọng.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Cô
Đoàn Nguyễn Minh Thuận đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em
rất nhiều trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Bằng
tất cả tấm lòng của mình, em xin chúc quý Thầy Cô luôn có
nhiều sức khỏe và thành công trong công tác giảng dạy.




Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận SVTH: Nguyễn Mộng Cầm



NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

















































Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận SVTH: Nguyễn Mộng Cầm



NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
















































Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận SVTH: Nguyễn Mộng Cầm

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài 1
2. Phạm vi nghiên cứu 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài 2
5. Kết cấu của luận văn 2
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA TRONG
NƢỚC 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hàng hóa 4
1.1.1. Khái niệm hàng hóa 4
1.1.2. Đặc điểm của hàng hóa 5
1.2. Lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc 6
1.2.1. Bảo hiểm thương mại 6
1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm thương mại 7
1.2.1.2. Đặc điểm bảo hiểm thương mại 8
1.2.2. Khái quát chung về bảo hiểm hàng hóa trong nước 11
1.2.2.1. Khái niệm bảo hiểm hàng hóa trong nước 11
1.2.2.2. Đặc điểm bảo hiểm hàng hóa trong nước 12
1.2.2.3. Mục đích bảo hiểm hàng hóa trong nước 14
1.3. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc 16
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước 16
1.3.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước 16
1.3.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước 17
1.3.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước 21
1.3.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước 22
1.4. Pháp luật điều chỉnh về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc 23

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận SVTH: Nguyễn Mộng Cầm

CHƢƠNG 2: QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA TRONG
NƢỚC 25
2.1. Đối tƣợng và phạm vi đƣợc bảo hiểm 25
2.1.1. Đối tượng bảo hiểm 25
2.1.2. Phạm vi bảo hiểm 26
2.1.2.1. Bảo hiểm cho rủi ro cháy, nổ 27
2.1.2.2. Bảo hiểm cho rủi ro trộm cắp 28
2.1.2.3. Bảo hiểm cho rủi ro thiên tai 28
2.2. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 29
2.2.1. Số tiền bảo hiểm 29
2.2.2. Phí bảo hiểm 31
2.3. Giám định tổn thất và bồi thƣờng tổn thất 32
2.3.1. Giám định tổn thất 32
2.3.2. Bồi thường tổn thất 34
2.4. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng bảo hiểm hàng
hóa trong nƣớc 37
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của bên mua bảo hiểm hàng hóa 37
2.4.1.1. Quyền của bên mua bảo hiểm 37
2.4.1.2. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm 40
2.4.2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm 43
2.4.2.1. Quyền của doanh nghiệp bảo hiểm 43
2.4.2.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm 46
CHƢƠNG 3: TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA BẢO HIỂM HÀNG HÓA
TRONG NƢỚC 49
3.1. Vấn đề về nghĩa vụ cung cấp thông tin 49
3.1.1. Tồn tại 49
3.1.2. Giải pháp 51

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
3.2. Vấn đề về chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn 51
3.2.1. Tồn tại 51
3.2.2. Giải pháp 52
3.3. Vấn đề về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm 53
3.3.1. Tồn tại 53
3.3.2. Giải pháp 54
3.4. Vấn đề về nghĩa vụ đóng phí của bên mua bảo hiểm 55
3.4.1. Tồn tại 55
3.4.2. Giải pháp 55
3.5. Vấn đề về chuyển nhƣợng hợp đồng bảo hiểm 56
3.5.1. Tồn tại 56
3.5.2. Giải pháp 57
KẾT LUẬN 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 1 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
LỜI NÓI ĐẦU
  
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong thời kì hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đang có một bước phát triển
khá cao và ổn định so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để có được
thành quả đó là nhờ có sự đóng góp của tất cả các ngành và tất cả các thành phần
kinh tế, trong đó phải kể đến sự đóng góp của hoạt động thương mại, đặc biệt là
ngành sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều sâu và chiều
rộng. Chính vì vậy, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa ở thị trường trong nước
ngày càng nhộn nhịp, bắt kịp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đã mang
đến cho nền kinh tế nước ta rất nhiều ưu đãi. Thế nhưng kèm theo đó cũng là không

ít khó khăn do thiên nhiên mang lại. Mặt khác, những nhân tố tác động từ con người
cũng mang đến cho nền sản xuất, trao đổi hàng hóa nhiều rủi ro cũng như tác động
tiêu cực. Do đó nhu cầu quản lí, chuyển giao rủi ro từ nhà sản xuất, kinh doanh sang
một chủ thể khác dần được hình thành trong xã hội. Chính vì thế ngành bảo hiểm
hàng hóa trong nước ra đời. Nó không chỉ góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất
mà còn là một công cụ nhằm đảm bảo về mặt tài chính cho những đối tượng tham
gia bảo hiểm khi xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm, giúp họ khôi phục đời sống,
sản xuất kinh doanh Đó chính là những bằng chứng cụ thể nhất cho vai trò to lớn
cũng như một tương lai phát triển của bảo hiểm hàng hóa trong thực tế.
Sự cần thiết khách quan phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ
bảo hiểm hàng hóa bắt nguồn từ nhu cầu quản lý xã hội, nhu cầu phát triển kinh tế
của Nhà nước. Từ nhu cầu này, mảng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh
bảo hiểm hàng hóa trong nước cần được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với định
hướng chung trong lĩnh vực bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm
hàng hóa nói riêng là lĩnh vực đặc thù, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này khá đa
dạng và phức tạp, nếu không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện để điều chỉnh thì
không những làm cho quyền lợi của các chủ thể tham gia hoạt động bảo hiểm không
được đảm bảo mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với kiến thức đã học,
người viết chọn đề tài: “Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nước tại
Việt Nam” để nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 2 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, người viết tập trung nghiên cứu về các quy định
của pháp luật điều chỉnh vấn đề bảo hiểm cho hàng hóa trong nước giữa các thương
nhân Việt Nam với nhau. Cụ thể là nghiên cứu những quy định của pháp luật về đối
tượng, phạm vi bảo hiểm, vấn đề giám định và bồi thường tổn thất cũng như quyền,

nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Từ đó liên hệ đến thực
tiễn và đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật để giúp cho hoạt
động bảo hiểm hàng hóa trong nước ngày càng phát triển hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, nghiên cứu này nhằm làm rõ các quy định của pháp luật điều
chỉnh về các vấn đề của bảo hiểm hàng hóa trong nước, thông qua đó bảo vệ quyền
lợi của các bên khi tham gia bảo hiểm, xem xét tính chính xác, đúng đắn và hiệu
quả của các quy định đó trên cơ sở khoa học và thực tế. Từ đó, người viết ghi nhận
những điểm chưa phù hợp, những thiếu sót và cuối cùng đưa ra những giải pháp
kiến nghị đối với những vấn đề đang tồn tại. Mục đích cuối cùng và lớn nhất của
việc nghiên cứu này là đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện
khung pháp lý hiệu quả và khả thi hơn để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm đối với hoạt động bảo hiểm hàng hóa trong nước
một cách tốt nhất.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết sử dụng các phương pháp sau
đây: phương pháp phân tích luật viết, phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh,
tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin cùng với việc tìm hiểu thêm
nhiều tài liệu để thực hiện việc nghiên cứu đề tài.
Cụ thể, người viết tiến hành phân tích làm rõ các kiến thức chuyên môn, từ
đó xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề mình đang nghiên cứu. Tiến hành trình bày
các quy định của pháp luật, giải thích và chỉ rõ các mặt tích cực và những điểm tồn
tại trong các quy định này. Bên cạnh đó, người viết thu thập những sự kiện và thống
kê các số liệu thực tế để chứng minh cho các vấn đề đã nêu. Cuối cùng người viết
tổng hợp các vấn đề trong một mối liên hệ thống nhất, giúp người đọc có cái nhìn
tổng quát và nhìn nhận đúng bản chất của vấn đề.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:


Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 3 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
Chƣơng 1: Khái quát chung về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc. Ở chương
này, người viết đề cập đến khái niệm và đặc điểm của hàng hóa, khái quát chung về
bảo hiểm hàng hóa trong nước, và từ đó người viết đã nêu lên được mục đích, vai
trò của bảo hiểm trên thực tế. Những vấn đề chung về bảo hiểm là nền tảng cho sự
phát triển nhiều loại bảo hiểm khác nhau, trong đó, bảo hiểm hàng hóa trong nước
đang dần được hình thành và hoàn thiện thông qua các quy định của pháp luật về
hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước. Trong chương này, người viết cũng đã
trình bày khái quát vấn đề pháp luật điều chỉnh về bảo hiểm hàng hóa trong nước,
nhằm giúp người viết và người đọc nắm được quá trình hình thành những quy định
của pháp luật điều chỉnh vấn đề này và dễ dàng tiếp cận chương 2 của luận văn.
Chƣơng 2: Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc. Chương
này, người viết đi sâu vào phân tích những quy định của pháp luật về đối tượng,
phạm vi được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm, kể cả các quy định về
giám định tổn thất và giải quyết bồi thường. Đặc biệt, người viết còn đề cập đến
những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và
bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước. Từ việc phân tích
các nội dung trên sẽ giúp cho người viết đưa ra được những mặt tồn tại của pháp
luật về bảo hiểm hàng hóa trong nước. Và đây cũng chính là cơ sở để người viết đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật tại chương 3.
Chƣơng 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả của bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc. Trong chương này,
người viết đã dựa trên cơ sở lý luận chung của chương 1, kết hợp với việc phân tích
pháp luật ở chương 2 và đối chiếu những vấn đề tồn tại, vướng mắc của pháp luật so
với điều kiện thực tế khi áp dụng, người viết đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hơn quy định của pháp luật về bảo hiểm hàng hóa trong nước đang được quan
tâm đặc biệt ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, với sự nỗ lực của bản thân nhưng do hạn
chế về thời gian, tài liệu cũng như lần đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài

khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Người viết rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô và các bạn để cho bài viết được hoàn thiện
hơn.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 4 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM
HÀNG HÓA TRONG NƢỚC
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hàng hóa
Theo nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, hàng hóa là sản phẩm
của lao động, thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua
bán. Khái niệm hàng hóa được ghi nhận trong luật pháp các quốc gia trên thế giới
hiện nay, mặc dù có những nét khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở rộng
các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông thương mại.
Cùng với sự phát triển của xã hội, hàng hóa ngày càng phong phú và đa
dạng. Theo pháp Luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc
tế (như Hiệp định GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung Châu Âu,
Công ước viên năm 1980 về mua bán hàng hóa…), hàng hóa là đối tượng của mua
bán thương mại được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản là:
có thể đưa vào lưu thông và có tính chất thương mại. Theo pháp luật Hoa Kỳ, hàng
hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển được quyền sở hữu vào thời gian xác định
theo hợp đồng mua bán hàng hóa. Hàng hóa có thể là hàng hóa đã có ở hiện tại hoặc
hàng hóa sẽ có trong tương lai.
1

Theo pháp luật Việt Nam, Luật thương mại năm 1997 quy định, hàng hóa
bao gồm: “máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các
động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình
thức cho thuê, mua, bán”.


2
Khái niệm hàng hóa theo cách hiểu này hẹp hơn so với
quan niệm phổ biến trên thế giới. Khắc phục sự bất cập của Luật thương mại 1997
về khái niệm hàng hóa, Luật thương mại 2005 quy định: “ Hàng hóa bao gồm: Tất
cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền
với đất đai”.
3
Thế thì động sản là gì thì điều 174 Bộ luật dân sự 2005 đã có quy
định: Động sản là những tài sản không phải là bất động sản. Bất động sản bao gồm
đất đai, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, các tài sản gắn liền với nhà


1
Dương Kim Thế Nguyên, Giáo trình Luật thương mại 1A, trường Đại học Cần Thơ, 2006, trang
21.
2
Khoản 3 Điều 5 Luật thương mại 1997.
3
Khoản 2 Điều 3 Luật thương mại 2005.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 5 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
ở hay công trình xây dựng đó, các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản
khác do pháp luật quy định.
Động sản hình thành trong tương lai tức là động sản chưa hình thành hay
chưa tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng. Còn những vật gắn liền với đất đai thì
bao gồm cây cối, mùa màng hay khoáng sản…Với cách hiểu như vậy, hàng hóa ở
đây có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng
hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.

Tuy nhiên không phải tất cả những gì được gọi là hàng hóa đều là đối tượng
của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa. Bởi lẽ trong thực tế, không một hợp đồng bảo
hiểm tài sản nào nói chung hay hợp đồng bảo hiểm hàng hóa nói riêng được xác lập
khi đối tượng của hợp đồng là vật chưa hình thành vào thời điểm giao kết. Hay nói
cách khác đối tượng của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước phải là hàng hóa
có thực và điều này đã được rút ra từ quy định về đối tượng hợp bảo hiểm tài sản tại
điều 40 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010. Hàng hóa
trong nước được đề cập trong đề tài này là động sản có thực, không bao gồm động
sản hình thành trong tương lai mà trong quá trình sản xuất, lưu kho hay vận chuyển
thì những loại hàng hóa này có thể gặp những rủi ro nhất định như cháy, nổ, thiên
tai, trộm cắp… Do đó, chủ sở hữu hàng hóa hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền
có thể mua bảo hiểm cho hàng hóa để chuyển giao rủi ro cho doanh nghiệp bảo
hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra trong thực tế.
1.1.2. Đặc điểm của hàng hóa
Hàng hóa nói chung có hai đặc điểm chính là giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi.

4

 Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn một
nhu cầu nào đó cho việc sản xuất hoặc tiêu dùng cá nhân.
Mỗi hàng hóa đều có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn
một nhu cầu nào đó của con người hoặc nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân như: lương
thực, thực phẩm…, hoặc là nhu cầu cho sản xuất như: máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu… Chính công dụng của vật phẩm làm cho nó trở thành một giá trị sử dụng hay
nhiều giá trị sử dụng.


4

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2009, trang 58-63.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 6 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
Giá trị sử dụng của hàng hóa là đặc điểm của hàng hóa gắn liền với vật thể
hàng hóa, nhưng không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng
hóa mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội. Giá trị sử dụng đến tay người
khác, người tiêu dùng phải thông qua việc mua – bán. Trong nền sản xuất hàng hóa,
vật mang giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá trị trao đổi.
 Giá trị trao đổi
Giá trị trao đổi là tương quan về số lượng, là tỉ lệ giữa hàng hóa này với hàng
hóa khác trong trao đổi.
Khi đưa ra ngoài thị trường để mua bán thì giá trị của hàng hóa thể hiện qua
giá trị trao đổi hay giá cả của hàng hóa. Nếu hai vật thể khác nhau mà có thể trao
đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không
thể là công dụng của chúng vì không ai trao đổi những hàng hóa giống hệt nhau về
giá trị sử dụng. Các hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng
có thể so sánh với nhau trong khi trao đổi, đó là các hàng hóa đều là sản phẩm của
lao động. Cơ sở cho hai hàng hóa trao đổi với nhau là lao động xã hội hao phí vào
việc sản xuất ra những hàng hóa đó. Lao động hao phí để tạo ra hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi, được gọi là giá trị hàng hóa. Qua trao
đổi, giá trị được thể hiện bằng tiền (giá cả).
Như vậy, hàng hóa nói chung có hai đặc điểm chính là giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và mang tính thống nhất. Tính
thống nhất thể hiện ở chỗ chúng cùng tồn tại trong một vật phẩm và một vật đã là
hàng hóa thì bắt buộc phải có hai đặc điểm kể trên. Trong phạm vi nghiên cứu này
thì đối tượng của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước phải có thêm một đặc
điểm nữa đó là hàng hóa phải là động sản có thực vào thời điểm giao kết hợp đồng
bảo hiểm, nghĩa là không đề cập đến các động sản hình thành trong tương lai. Khái

niệm động sản cũng như động sản hình thành trong tương lai đã được người viết
trình bày rất cụ thể ở tiểu mục 1.1.1. về khái niệm hàng hóa.
1.2. Lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc
1.2.1. Bảo hiểm thương mại
Xã hội ngày càng phát triển và bảo hiểm ngày càng khẳng định sự có mặt
không thể thiếu được từ mọi hoạt động của con người bởi rủi ro nhiều hơn, các nhu
cầu về an toàn cũng lớn hơn. Ngày nay, các sản phẩm bảo hiểm rất đa dạng, bảo
hiểm hàng hóa trong nước là một sản phẩm của loại hình bảo hiểm tài sản. Bảo
hiểm tài sản là một trong ba loại hình bảo hiểm thương mại được phân chia dựa trên

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 7 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
đối tượng được bảo hiểm. Do đó, khi nghiên cứu về bảo hiểm hàng hóa trong nước
thì việc tìm hiểu khái niệm cũng như đặc điểm của bảo hiểm thương mại là điều rất
cần thiết.
1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại còn được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh
với việc quản lý các rủi ro. Mặc dù có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời
nhưng do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về bảo hiểm thương mại, mà người ta chỉ đưa ra các quan niệm về
bảo hiểm thương mại theo các góc độ tiếp cận khác nhau:
5

Bảo hiểm là một nghiệp vụ mà người được bảo hiểm cam đoan trả một
khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho
người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn
thất được trả bởi bên bán bảo hiểm. Bên bán bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với
toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. Đây là
cách hiểu về bảo hiểm của Monique Gaullier. Với Dennis Kessler thì bảo hiểm
thương mại được hiểu một cách khá ngắn gọn: “Bảo hiểm là sự đóng góp của số

đông vào sự bất hạnh của số ít”.
6

Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cũng có cùng cách nhìn như thế về bảo hiểm:
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay một số ít người cho cả cộng
đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại, bằng cách mỗi người trong
cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp
thiệt hại cho những thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do những rủi
ro gây ra.
7

Các học giả của trường Đại học Kinh tế quốc dân nói về bản chất của bảo
hiểm như sau: Thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản
phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát
sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
8



5
Nguyễn Văn Định, Giáo trình bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 131-132.
6
Trường Đại học Tài chính Kế toán, Giáo trình bảo hiểm, Nxb Tài Chính, Hà Nội, 1999, trang 51.
7
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ, Nxb Tài chính,
Hà Nội, 2004, trang 3.
8
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 14.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 8 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
Trong Luật Kinh doanh bảo hiểm không sử dụng thuật ngữ “bảo hiểm
thương mại” mà sử dụng thuật ngữ “kinh doanh bảo hiểm”, theo đó kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
9
Tuy
nhiên, về mặt lý luận, khái niệm bảo hiểm thương mại và kinh doanh bảo hiểm là
giống nhau.

Sự khác nhau trong các quan niệm xuất phát từ việc nhìn nhận bảo hiểm ở
nhiều góc độ. Bảo hiểm là một kỹ thuật nghiệp vụ đặc trưng nên rất khó tìm ra được
một định nghĩa hoàn hảo thể hiện được tất cả những khía cạnh của nó. Trên phương
diện lý thuyết cơ bản, bảo hiểm là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện
thông qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm.
10

Những cách tiếp cận nêu trên đều đã nêu được một số đặc trưng cơ bản nhất
của bảo hiểm. Trong đó, theo người viết thì cách nhìn nhận của Hiệp hội bảo hiểm
Việt Nam bao hàm được những đặc trưng cơ bản của quan hệ bảo hiểm. Mặc dù có
nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm, nhưng nói đến bảo hiểm tức là nói đến
chia sẻ rủi ro, là dịch vụ được thực hiện trên cơ sở lấy sự đóng góp của số đông để
bù đắp cho những bất hạnh của số ít. Đây là hai đặc trưng quan trọng không thể
thiếu được đối với bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào. Từ sự phân tích này cho thấy,
bảo hiểm có thể được hiểu một cách tổng quát là sự đóng góp của số đông vào sự
bất hạnh của số ít thông qua hoạt động chuyển giao rủi ro từ chủ thể mua bảo hiểm

sang chủ thể nhận bảo hiểm.
1.2.1.2. Đặc điểm bảo hiểm thương mại
 Là một trung gian tài chính
Đặc điểm của bảo hiểm nói chung là thời điểm thu phí bảo hiểm và thời điểm
bồi thường bảo hiểm thường cách nhau một khoảng thời gian nhất định. Phí bảo
hiểm được thu trước và doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bồi thường khi sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Như vậy, từ thời điểm thu phí đến thời điểm bồi thường thông thường là một


9
Khoản 1, Điều 3, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
10
Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, 2005, trang 16.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 9 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
khoảng thời gian khá dài, hơn nữa rất hiếm khi rủi ro xảy ra đồng loạt, do đó doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ có một lượng vốn nhàn rỗi nhất định. Nguồn vốn này sẽ được
các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân để
sinh lợi. Việc đầu tư các nguồn vốn nhàn rỗi có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm với rất nhiều sản phẩm bảo hiểm hầu như đã đáp
ứng được những nhu cầu bảo hiểm phong phú từ khách hàng. Hiện các doanh
nghiệp bảo hiểm đang quản lý một lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các doanh
nghiệp bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài hạn vào các dự án.
11
Các doanh nghiệp bảo
hiểm tham gia tích cực vào đầu tư, tài trợ dự án, giải ngân vốn cho các tổ chức tín
dụng, các tổ chức kinh tế. Đây là một nguồn cung cấp vốn dồi dào cho các doanh
nghiệp, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Dù rằng các doanh nghiệp bảo

hiểm được sinh ra không phải nhằm mục đích kinh doanh tiền tệ, nhưng trong nền
kinh tế thị trường doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể kinh doanh rủi ro trên cơ sở
thực hiện song song công việc đầu tư tài chính, từ đó góp phần tăng nguồn vốn cho
nền kinh tế. Là một trung gian tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm thu hút, cung ứng
vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự luân chuyển, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
 Là một ngành dịch vụ đặc biệt
Doanh nghiệp bảo hiểm không cung cấp một sản phẩm hữu hình như nhà cửa
hay phương tiện đi lại mà sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm là những sản
phẩm “vô hình”.
12
Điều đó có nghĩa là, tại thời điểm bán bảo hiểm doanh nghiệp
bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không thể biết được rủi ro có xảy ra hay không. Sản
phẩm mà doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp cho bên mua bảo hiểm là sản phẩm có
thể hình thành trong tương lai và cũng có thể không hình thành trong tương lai. Khi
đó, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm.
Bản chất của sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam
kết mà doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để đổi
lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai thông qua hợp đồng bảo
hiểm. Cam kết trong hợp đồng là cam kết thanh toán bằng tiền hoặc bằng hàng hóa


11

12
Dr. David Bland, Bảo hiểm – nguyên tắc và thực hành, Nxb Tài chính, Hà Nội, 1998, trang 16.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 10 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm

với giá trị tương đương tổn thất trong bảo hiểm phi nhân thọ hoặc một số tiền cụ thể
nào đó trong bảo hiểm nhân thọ.
13

Bên cạnh đó, tâm lý người mua bảo hiểm thường không muốn tiêu dùng dịch
vụ này. Bởi lẽ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra cũng đồng nghĩa với việc họ phải chịu
những tổn thất nhất định, đó là những hư hỏng về tài sản, hàng hóa hay những tổn
thương về tinh thần và sức khỏe. Chính vì vậy, dù có được bồi thường tổn thất thì
tâm lý chung khách hàng vẫn không muốn tiêu dùng dịch vụ này.
Mặt khác, bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược, tức là doanh nghiệp bảo
hiểm không phải bỏ vốn ra trước, mà đầu tiên họ sẽ nhận phí bảo hiểm của người
tham gia bảo hiểm đóng góp và sau đó phía doanh nghiệp bảo hiểm mới thực hiện
nghĩa vụ với bên được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
 Là hoạt động vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro
Khi tham gia bảo hiểm, người mua sẽ đóng góp một số tiền gọi là phí bảo
hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tính tiết kiệm của
hợp đồng bảo hiểm thể hiện ở chỗ: việc tham gia bảo hiểm cũng giống như việc gửi
tiết kiệm, bên mua bảo hiểm dùng từng khoản tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm, khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra người thụ hưởng sẽ nhận được khoản tiền chi trả bảo hiểm từ
doanh nghiệp bảo hiểm lớn hơn số phí bảo hiểm họ đã bỏ ra.
14
Việc nộp phí bảo
hiểm là bắt buộc theo thỏa thuận, đồng thời không thể tùy tiện lấy lại các khoản phí
đã nộp (khác với việc gửi tiền tại Ngân hàng) nên tiết kiệm cho bên mua bảo hiểm
những khoản chi tiêu không thực sự cần thiết.
Bên cạnh đó, hoạt động bảo hiểm thương mại cũng mang tính rủi ro, không
chỉ cho doanh nghiệp bảo hiểm mà còn cho người tham gia bảo hiểm. Vì bảo hiểm
có chu trình kinh doanh ngược nên nếu phải trả tiền bảo hiểm hay phát sinh vấn đề
bồi thường cho nhiều hợp đồng bảo hiểm cùng một lúc thì doanh nghiệp bảo hiểm



13
Đỗ Hữu Vinh, Bảo hiểm và giám định hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển,
Nxb Tài chính, Hà Nội, 2003, trang 15.
14
Mục đích của bên mua bảo hiểm là hạn chế tổn thất xảy ra đối với mình khi đối tượng bảo hiểm
gặp rủi ro, tuy nhiên rủi ro có thể xảy ra hoặc không xảy ra nên bên mua bảo hiểm chỉ mua bảo
hiểm khi doanh nghiệp bảo hiểm cam kết chi trả số tiền lớn hơn phí bảo hiểm mà họ bỏ ra. Bởi vì
chẳng ai đi mua bảo hiểm cho một sự kiện chưa chắc chắn là sẽ xảy ra mà chỉ được hưởng số tiền
bảo hiểm bằng với phí bảo hiểm mình bỏ ra nếu có rủi ro, còn không có rủi ro họ sẽ mất phí bảo
hiểm, như vậy bên mua bảo hiểm sẽ không được lợi gì từ việc mua bảo hiểm.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 11 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
sẽ rất khó khăn trong việc chi trả hay bồi thường. Về phía người mua bảo hiểm,
trong trường hợp xảy ra rủi ro mà không nằm trong phạm vi được bảo hiểm thì họ
sẽ không được bồi thường hay nhận tiền bảo hiểm mặc dù đã đóng phí bảo hiểm
trước đó.
 Là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm
Rủi ro là yếu tố mà con người không thể lường trước được, đây là một khái
niệm quan trọng, một thuật ngữ cơ bản trong bảo hiểm. Suy cho cùng, nguyên lý
của bảo hiểm là “không có rủi ro thì không có bảo hiểm”.
15
Đặc điểm của bảo hiểm
là sự phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia
bảo hiểm cùng chịu. Nói cách khác, bảo hiểm dựa trên quy luật “số đông bù số
ít”.
16
Doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường về tài chính cho những tổn thất xảy

ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Số tiền bồi thường bằng tổn thất thực tế, nhưng cao nhất
bằng số tiền bảo hiểm. Do đó, số tiền bồi thường cho một người tham gia trong một
rủi ro nào đó thông thường lớn hơn số phí họ nộp. Trong trường hợp đó, doanh
nghiệp bảo hiểm phải lấy số phí của nhiều người tham gia vào dịch vụ bảo hiểm ấy
để chi trả cho một người (hoặc một số ít người) không may gặp phải rủi ro gây tổn
thất. Quy luật này mang tính tương trợ, cùng san sẻ rủi ro trong cộng đồng những
người tham gia. Như vậy mối quan hệ trong bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ
giữa nhà bảo hiểm và người được bảo hiểm mà là tổng thể các mối quan hệ giữa
người được bảo hiểm trong cùng một cộng đồng bảo hiểm.
17

1.2.2. Khái quát chung về bảo hiểm hàng hóa trong nước
1.2.2.1. Khái niệm bảo hiểm hàng hóa trong nước
Nguồn gốc phát sinh của hoạt động bảo hiểm chính là sự tồn tại của các rủi
ro trong thực tế. Nhu cầu của con người ngày càng cao, do đó họ không chỉ muốn
đảm bảo cho bản thân và gia đình mà còn muốn đảm bảo rủi ro cho công việc kinh
doanh nên bảo hiểm hàng hóa ra đời. Vì một trong những hình thức khắc phục rủi
ro tốt nhất là chuyển giao rủi ro cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra
với một thành viên thì hậu quả của nó sẽ được phân tán, sẽ được số đông còn lại của


15
Nguyễn Tiến, Lý thuyết cơ bản về bảo hiểm, cập nhật trên trang web baominh.com.vn, trang 7.
16
Nguyễn Văn Định, Giáo trình Quản trị Kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 2003,
trang 35-37.
17
Nguyễn Thị Thủy, Pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2012,
trang 14 – 15.


Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 12 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
cộng đồng cùng gánh chịu. Đó chính là cách xử lý và khắc phục rủi ro tốt nhất, hay
nói cách khác, hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ đơn thuần là lợi nhuận mà
còn mang tính xã hội sâu sắc.
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 không đưa
ra định nghĩa thế nào là bảo hiểm hàng hóa trong nước song có thể xác định bản
chất pháp lý của vấn đề này thông qua hoạt động mua bán hàng hóa trong nước.
Mua bán hàng hóa trong nước là hoạt động mua bán hàng hóa giữa thương nhân
Việt Nam với nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
18
Do đó, bảo hiểm hàng hóa trong nước
trong phạm vi nghiên cứu này được hiểu là một loại hình bảo hiểm mà theo đó
doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận các rủi ro về hàng hóa của bên mua bảo hiểm,
trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, được thực hiện giữa
các thương nhân Việt Nam với nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2.2. Đặc điểm bảo hiểm hàng hóa trong nước
 Áp dụng nguyên tắc bồi thường
Nguyên tắc bồi thường được áp dụng khi thanh toán, chi trả bảo hiểm. Số
tiền bồi thường mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không
vượt quá thiệt hại thực tế xảy ra. Nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể chi trả
số tiền bồi thường tương ứng với thiệt hại thực tế xảy ra đối với người được bảo
hiểm trong phạm vi số tiền bảo hiểm mà hai bên tự thỏa thuận. Chẳng hạn như một
doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo mua bảo hiểm cho toàn bộ xưởng kẹo của mình là
20 triệu đồng. Sau một vụ cháy, số kẹo bị thất thoát và hư hỏng có giá trị 8 triệu
đồng, nên số tiền bồi thường mà doanh nghiệp này nhận được từ phía doanh nghiệp
bảo hiểm trong trường hợp này là 8 triệu đồng.
 Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp”
Nguyên tắc này được áp dụng khi xuất hiện người thứ ba có lỗi gây thiệt hại

cho người được bảo hiểm. Theo đó, sau khi doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi
thường cho người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu
cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận cho doanh nghiệp bảo
hiểm.
19
Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người được


18
Dương Kim Thế Nguyên, Giáo trình Luật thương mại cơ bản,Trường Đại học Cần Thơ, 2006,
trang 23 – 26.
19
Khoản 1 Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 13 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Mặt khác,
quy định này còn ngăn chặn trường hợp người mua bảo hiểm vừa đòi người thứ ba
bồi thường thiệt hại, vừa nhận tiền bồi thường từ phía doanh nghiệp bảo hiểm. Như
vậy, người mua bảo hiểm sẽ nhận được một khoản giá trị gấp đôi số tổn thất, điều
này trái với nguyên tắc bồi thường nói chung.
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp.
Đó là khi người thứ ba gây thiệt hại là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột
của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm không được yêu cầu họ bồi
hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người được bảo hiểm, trừ
trường hợp những người này cố ý gây ra tổn thất.
20
Vấn đề này đã được quy định rất
cụ thể tại khoản 3, điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung
năm 2010.

 Bảo hiểm trùng
Trong bảo hiểm hàng hóa trong nước, nếu bên mua bảo hiểm giao kết hợp
đồng bảo hiểm với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm để bảo hiểm cho cùng một đối
tượng, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm thì được gọi là bảo hiểm trùng.
21

Xuất phát từ tâm lý của bên mua bảo hiểm mà bảo hiểm trùng xuất hiện. Bên
mua bảo hiểm nghĩ rằng khi giao kết hợp đồng bảo hiểm với nhiều doanh nghiệp thì
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm họ sẽ nhận được nhiều tiền bồi thường hơn, thậm chí số
tiền bồi thường lớn hơn giá trị hàng hóa mua bảo hiểm. Tuy nhiên, Luật Kinh doanh
bảo hiểm đã điều chỉnh vấn đề này, khoản 2 điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 có quy định: khi xảy ra sự kiện bảo hiểm đối với
hợp đồng bảo hiểm trùng, thì mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi
thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của
tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của
các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản nói
chung và của hàng hóa nói riêng. Để giải thích cho quy định này, ta có thể xem xét
ở ví dụ sau:
Ông A mua bảo hiểm rủi ro thiên tai cho lô hàng thức ăn gia súc trong quá trình
vận chuyển từ Cần Thơ đến Long An ở doanh nghiệp bảo hiểm B vào ngày
19/10/2013 với số tiền bảo hiểm là 1,2 tỉ đồng. Ngày 19/11/2013 ông A lại mua bảo


20
Nguyễn Văn Định, Giáo trình bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005, trang 65.
21
Quy định trên được rút ra dựa trên định nghĩa Hợp đồng bảo hiểm trùng tại khoản 1, điều 44 Luật
Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 14 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
hiểm rủi ro thiên tai cho lô hàng này tại doanh nghiệp bảo hiểm C với số tiền bảo
hiểm là 800 triệu đồng. Không may trong quá trình vận chuyển, lô hàng đã bị hư
hỏng nặng do gặp phải bão số 10. Giá trị lô hàng thức ăn gia súc bị hư hỏng được
định giá vào thời điểm tổn thất là 800 triệu đồng. Trong trường hợp này, trách
nhiệm của hai doanh nghiệp theo quy định của pháp luật được xác định như sau:
* Doanh nghiệp bảo hiểm B chịu trách nhiệm bồi thường là: 1,2 tỉ là số tiền đã thỏa
thuận trong hợp đồng với ông A chia cho 2 tỉ (tổng số tiền bảo hiểm của hai hợp
đồng bảo hiểm mà ông A giao kết với B và C) được tỉ lệ là 60% nhân với giá trị
thiệt hại thực tế là 800 triệu. Vậy số tiền mà doanh nghiệp B phải bồi thường cho
ông A là 480 triệu.
* Doanh nghiệp bảo hiểm C phải chịu trách nhiệm bồi thường là: 800 triệu chia cho
2 tỉ được tỉ lệ là 40% nhân với giá trị thiệt hại thực tế là 800 triệu sẽ ra số tiền là
320 triệu.
Như vậy, ông A chỉ nhận được tổng số tiền bồi thường từ hai doanh nghiệp tối đa
bằng giá trị lô hàng bị thiệt hại là 800 triệu.
Quy định trên phần nào giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm giảm được số
tiền bồi thường cho một hợp đồng bảo hiểm trùng vì rủi ro đã được san sẻ cho nhiều
doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2.2.3. Mục đích bảo hiểm hàng hóa trong nước
Bảo hiểm hàng hóa trong nước không chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi
cho bên mua bảo hiểm đối với hàng hóa của mình, trước những rủi ro có thể xảy ra
bất cứ lúc nào thông qua việc chuyển rủi ro cho phía doanh nghiệp bảo hiểm, mà
còn góp phần giúp các doanh nghiệp bảo hiểm thu được lợi nhuận từ việc thu phí
bảo hiểm của bên mua bảo hiểm.
 Bảo hiểm hàng hóa trong nước nhằm bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất
Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm hàng
hóa trong nước. Nói đến bảo hiểm là nói tới khả năng bồi thường khi có tổn thất xảy
ra và vai trò của các doanh nghiệp bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt
nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, khắc phục

hậu quả, ổn định đời sống và quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc mua bảo hiểm giúp các cá nhân, tổ chức chuyển rủi ro sang các doanh
nghiệp bảo hiểm. Các cá nhân khắc phục được khó khăn về tài chính, dễ dàng ổn
định đời sống hơn, các tổ chức kinh doanh bảo toàn vốn, tài sản, giữ cho chu kỳ sản
xuất kinh doanh không bị gián đoạn.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 15 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
 Bảo hiểm hàng hóa trong nước nhằm tăng cường công tác đề phòng và
hạn chế tổn thất
Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm hàng hóa
trong nước còn góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất. Nhờ đó
những thiệt hại về hàng hóa được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế - xã hội
cũng được chủ động phòng tránh. Dựa trên cơ sở các rủi ro xảy ra hằng năm, các tổ
chức kinh doanh bảo hiểm tiến hành nghiên cứu các rủi ro, thống kê các tai nạn, tổn
thất, từ đó xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại.
Những nguyên nhân này giúp các doanh nghiệp bảo hiểm có thể đề ra được các biện
pháp kiểm soát ngăn ngừa rủi ro hiệu quả nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất tổn
thất có thể xảy ra.
Việc các doanh nghiệp bảo hiểm tích cực thực hiện các biện pháp phòng
tránh rủi ro không chỉ để giảm bớt chi phí bồi thường nhằm nâng cao lợi nhuận cho
mình, mà quan trọng hơn là góp phần giảm bớt những hậu quả đáng tiếc về vật chất
lẫn tinh thần khi xảy ra tổn thất. Khi xây dựng các điều khoản, quy tắc, biểu phí
cũng như trong quá trình triển khai nghiệp vụ các doanh nghiệp bảo hiểm luôn chú
ý đến việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn đôn đốc các cá nhân, tổ chức tham gia
mua bảo hiểm cho hàng hóa để bảo vệ tài sản của chính mình. Do bảo hiểm không
có nghĩa là đỗ hết trách nhiệm cho bên bán bảo hiểm nên thông qua phân tích
nguyên nhân của những rủi ro, tai nạn bất ngờ, doanh nghiệp bảo hiểm rút ra được
những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm đề phòng tổn thất

xảy ra. Chẳng hạn trong bảo hiểm cháy, doanh nghiệp bảo hiểm cùng người tham
gia thực hiện các biện pháp để hạn chế chập điện, nổ… như trang bị các thiết bị an
toàn về điện, thiết bị chống sét… hoặc mua sắm thêm phương tiện chữa cháy.
22

 Bảo hiểm hàng hóa trong nước nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm thương mại nói chung và bảo hiểm hàng
hóa trong nước nói riêng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước như mọi
doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế. Hằng năm, thông qua việc nộp
thuế, bảo hiểm hàng hóa trong nước đã đóng góp không nhỏ vào ngân sách Nhà


22
Nguyễn Văn Định, Giáo trình Quản trị Kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003,
trang 34.

Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 16 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm
nước. Bên cạnh đó, bảo hiểm cũng góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua việc
thực hiện tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giảm đến mức thấp nhất những
thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra.
23

 Bảo hiểm hàng hóa trong nước góp phần tạo việc làm cho xã hội
Cũng là một khía cạnh đáng kể trong vai trò của bảo hiểm, ngành bảo hiểm
hàng hóa trong nước đã thu hút một lượng lớn lao động làm việc cho các doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, mạng lưới đại lý bảo hiểm và
các nghề nghiệp liên quan như giám định tổn thất, định giá hàng hóa bị tổn thất…
Trong điều kiện thất nghiệp đang ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu thì sự

phát triển của ngành bảo hiểm hàng hóa vẫn được coi là nhiều tiềm năng ở các quốc
gia sẽ góp phần giải quyết việc làm trong xã hội.
1.3. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước
1.3.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước
Pháp luật về hợp đồng từ lâu đã chiếm một vị trí rất quan trọng trong pháp
luật Việt Nam, bởi hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh
hay đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp đồng. Hợp
đồng là phương tiện pháp lý quan trọng nhằm thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong xã hội. Chính vì lẽ đó mà các chế định về hợp đồng và các vấn đề
liên quan đến hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005 đã có hơn 300 điều luật quy định
về vấn đề này. Mục đích của pháp luật hợp đồng là nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí
của các bên.
Quan hệ bảo hiểm hàng hóa trong nước được xác lập và thực hiện thông qua
hình thức pháp lý là hợp đồng bảo hiểm hàng hóa. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa
trong nước có bản chất chung của hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ bảo hiểm hàng hóa. Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 không đưa ra định nghĩa về
hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước song có thể xác định bản chất pháp lý của
hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước trên cơ sở quy định của Luật Kinh doanh
bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 về hợp đồng bảo hiểm. Theo đó,
hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và


23
Giáo trình Nguyên lý bảo hiểm, Trường Đại học công nghiệp TP HCM, trang 15.


Quy chế pháp lý về bảo hiểm hàng hóa trong nƣớc tại Việt Nam
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận 17 SVTH: Nguyễn Mộng Cầm

doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
24

1.3.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong nước
 Về hình thức hợp đồng
Tùy thuộc vào mức độ quan trọng và cần thiết của hợp đồng mà mỗi loại hợp
đồng sẽ có những hình thức khác nhau. Chẳng hạn các hợp đồng mua bán nhỏ,
thông thường thì hình thức có thể bằng miệng nhưng các hợp đồng mua bán các tài
sản có giá trị lớn như mua bán nhà thì hình thức hợp đồng bắt buộc phải lập thành
văn bản có công chứng, chứng thực. Tùy thuộc vào từng loại hợp đồng mà pháp
luật sẽ có quy định về hình thức. Theo Điều 401 Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng
được thể hiện bằng các hình thức như: bằng lời nói, văn bản hay bằng hành vi cụ
thể.
Theo quy định của pháp luật, hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo
hiểm hàng hóa trong nước nói riêng phải được lập thành văn bản.
25
Văn bản là một
căn cứ vững chắc cho việc giao kết hợp đồng, đồng thời là nơi chứa đựng quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mà bất kỳ sự làm trái nào so với hợp đồng đều
là bằng chứng rõ ràng cho việc vi phạm hợp đồng. Mặt khác, bằng việc giao kết hợp
đồng bằng văn bản, ta có thể xác định được tính nghiêm túc của các bên trong hợp
đồng.
Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn
bảo hiểm, điện báo, telex, fax.
26
Hình thức hợp đồng phải thỏa mãn hai điều kiện,
điều kiện cần là hợp đồng phải được lập thành văn bản và điều kiện đủ là văn bản
này phải được thể hiện thông qua một trong các hình thức: giấy chứng nhận bảo
hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax.

27
Quan hệ bảo hiểm hàng hóa trong nước
không bao giờ phát sinh nếu giữa các bên không có hợp đồng bảo hiểm hàng hóa có
hiệu lực.


24
Dựa trên định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm tại Khoản 1, Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
25
Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
26
Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
27
Võ Thị Pha, Giáo trình Lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, 2005, trang 18.

×