1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU ĐÔNG BẮC Á
______________________________
TS. Trần Quang Minh
(Chủ biên)
TẬP BÀI GIẢNG
TÌM HIỂU ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI
HÀN QUỐC
Hà Nội, tháng 72013
2
Tập thể tác giả:
1. TS. Lý Xuân Chung
2. Th.S. Lê thị Thu Giang
3. PGS. TS. Phạm Hồng Thái
4. TS. Nguyễn Thị Thắm
5. TS. Trần Thị Nhung
6. TS. Phạm Quý Long
7. TS. Trần Quang Minh
3
MỤC LỤC
Trang
Chuyên đề 1: Đại cương lịch sử bán đảo Hàn, TS. Lý Xuân Chung,
Giám đốc TTNC Hàn Quốc – Viện NC Đông Bắc
Tr1 – Tr35
Chuyên đề 2: Văn hóa Hàn Quốc, Th.s. Lê Thị Thu Giang, Giảng viên
Khoa Đông Phương, Đại học Quốc gia Hà Nội…………………………
Tr36 – Tr70
Chuyên đề 3: Nghệ thuật và Tôn giáo Hàn Quốc, PGS.TS. Phạm Hồng
Thái, Tổng Biên tập Tạp chí – Viện NC Đông Bắc Á…………………
Tr71 – Tr105
Chuyên đề 4: Hệ thống chính trị Hàn Quốc, TS. Nguyễn Thị Thắm,
Trung tâm NC Hàn Quốc – Viện NC Đông Bắc Á……………………
Tr106 – Tr141
Chuyên đề 5: Gia đình và xã hội Hàn Quốc, TS. Trần Thị Nhung,
Trưởng phòng Chính trị xã hội – Viện NC Đông Bắc Á………………
Tr142 – Tr177
Chuyên đề 6: Kinh tế Hàn Quốc, TS. Phạm Quý Long, Phó Tổng Biên
tập Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á……………………………………
Tr178 – Tr221
Chuyên đề 7: Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, TS. Trần Quang Minh,
Viện Trưởng Viện NC Đông Bắc Á……………………………………
Tr222 – Tr 246
4
ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ BÁN ĐẢO HÀN
Lý Xuân Chung
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á
Hàn Quốc là một đất nước có lịch sử lâu đời, lịch sử chống ngoại xâm hào hùng,
xây dựng một quốc gia độc lập, thống nhất bền vững và xây dựng một bản sắc văn hoá
thuần nhất- văn hoá đồng nhất của một dân tộc thuần nhất trên bán đảo.
Thông thường, các nhà sử học phân chia các thời đại của lịch sử Hàn Quộc như
sau:
1. Thời tiền sử
2. Thời cổ đại
3. Thời trung đại
4. Thời cận hiện đại
Tuy nhiên, vấn đề phân kỳ lịch sử thường mang tính tương đối. Cho nên, cũng có
một số nhà sử học chia nhỏ thêm nữa, chủ yếu tập trung vào thời cận đại và hiện đại.
I. THỜI TIỀN SỬ
Tư liệu lịch sử Hàn Quốc cho biết, con người xuất hiện trên bán đảo này cách
ngày nay khoảng 70 vạn năm. Con người xuất hiện ở đây và sinh sống chủ yếu bằng săn
bắt và hái lượm. Các di chỉ là những hòn đá nguyên hình dạng để làm công cụ lao động
được khai quật đã cho thấy sự trồng trọt còn rất sơ khai. Con người thời đó còn sống du
cư theo từng mùa ở trong những hang động thiên nhiên. Giới sử học Hàn Quốc coi đây
thuộc thời kỳ đá cũ và thời kỳ đá mới bắt đầu từ khoảng 8000 TCN. Những di chỉ của
thời kỳ đá mới được tìm thấy rải rác ở hầu khắp bán đảo, song, chủ yếu được phát hiện
tập trung ở các lưu vực sông và vùng ven biển. Nơi có các niên đại lâu nhất là Go – San
– ri (Cao Sơn Lý) ở đảo jeju.
5
Các di vật được khai quật là công cụ lao động bằng đá đã được chế tác, tiêu biểu
là lưỡi câu và kim khâu bằng xương thú. Đồ dùng đặc trưng nhất là đồ gốm có hoa văn
hình răng lược đã được tìm thấy ở nhiều nơi. Điều đó cho biết, con người ở thời kỳ đá
mới thường sống bên bờ sông và ven biển, đã biết trồng trọt và bắt cá, đã biết chế tác ra
đồ gốm để phục vụ cho đời sống…
Như vậy, có thể nói, khác với thời kỳ đá cũ, con người đã bắt đầu biết sống định
cư, tạo thành các bộ tộc. Người đứng đầu bộ tộc là người có sức khoẻ, có nhiều kinh
nghiệm để chỉ huy mọi hoạt động của bộ tộc.
1. Thời kỳ đồ đồng và sự hình thành quốc gia
Thời kỳ đồ đồng được bắt đầu vào khoảng thế kỷ 10 TCN. Con người bắt đầu sử
dụng đồ đồng để tạo ra vật dụng phục vụ đời sống. Song, các di vật bằng đồng khai quật
được chủ yếu là kiếm đồng (kiếm đồng hình đàn tỳ bà và kiếm đồng hình thon) và đồ
trang sức, cho thấy, đồng thau là nguyên liệu quý hiếm và chỉ được sử dụng để chế tác
ra những công cụ và vũ khí đặc biệt. Còn công cụ dùng trong đời sống chủ yếu vẫn là
công cụ làm bằng gỗ và đá. Về đồ gốm, người Hàn thời kỳ này chủ yếu sử dụng đồ gốm
không có hoa văn.
Con người thời kỳ đồ đồng đã mở rộng địa bàn cư trú. Họ đã biết khai hoang
những thung lũng gần sông để trồng trọt, biết sử dụng những nông cụ bằng gỗ cứng,
biết thu hoạch lương thực bằng dao đá hình bán nguyệt, gia công lúa mì bằng cối xay
đá.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, dân số cũng tăng lên, kinh tế phát triển
và xã hội cũng hình thành các giai tầng. Số người trong một bộ tộc tăng nhiều so với
thời đá mới và quyền hạn của một tộc trưởng cũng lớn hơn. Tộc trưởng thống lĩnh bộ
tộc, thu lợi tức từ sản xuất nông nghiệp và cũng là người phụ trách nghi lễ tôn giáo. Tộc
trưởng nào có sức mạnh và uy quyền thường sử dụng vũ khí bằng đồng để chinh phục
các bộ tộc khác nhằm mở rộng diện cai quản, khuếch trương thế lực. Những ngôi mộ cổ
được làm bằng những tảng đá lớn để mai táng người chết với kiếm đồng, gương đồng
6
được chôn theo vào thời kỳ này đã được khai quật. Đó là những ngôi mộ của tộc trưởng
hoặc người có thế lực trong bộ tộc. Có tới 40.000 ngôi mộ như thế được tìm thấy ở bán
đảo và phân bố rộng khắp đất nước. Giới sử học Hàn Quốc coi đó là di sản tiêu biểu của
thời kỳ đồ đồng.
Số lượng các ngôi mộ cổ nêu trên cũng cho thấy, trải qua thời gian dài, rất nhiều
các bộ tộc đã hình thành, đặc biệt là ở vùng Yodong (Liêu Đông) và Tây Bắc bán đảo.
Theo truyền thuyết dân gian thì người thống nhất các bộ tộc này là DanGun (Đàn Quân)
và chính DanGun là người lập nên nhà nước Gojoseon (Cổ Triều Tiên). Đến nay, người
ta vẫn chưa xác định rõ niên đại dựng nước của Gojoseon.
Nhưng, theo câu chuyện thần thoại dựng nước của DanGun thì nhà nước
Gojoseon được lập nên vào ngày 3 tháng 10 năm 2333 TCN, tức cách đây gần 5 nghìn
năm.
2. Sự biến đổi của xã hội thời kỳ đồ sắt
Từ thế kỷ IV TCN, thời kỳ đồ sắt được bắt đầu và việc sử dụng đồ sắt làm công
cụ lao động và vũ khí đã khiến cho xã hội Gojoseon có những biến đổi mạnh mẽ. Do sử
dụng các công cụ bằng sắt nên kỹ thuật canh tác trồng trọt phát triển, sản phẩm nông
nghiệp tăng nhanh, xã hội biến chuyển và dân số cũng phát triển. Mặt khác, do cùng
muốn chiếm hữu nhiều lương thực và bành trướng thế lực nên giữa các bộ tộc có xu
hướng xảy ra chiến tranh thường xuyên hơn. Các bộ tộc sử dụng thành thạo vũ khí đồ
sắt thì có khả năng bành trướng thế lực, phát triển thành quốc gia.
II. THỜI CỔ ĐẠI
Gojoseon là quốc gia đầu tiên trong lịch sử dân tộc Hàn.
Theo ghi chép của các sử gia thời phong kiến thì Gojoseon là do Cơ Tử, một
hoàng thân nhà Ân Thương (Trung Quốc) đã không chịu hàng phục nhà Chu nên đã dẫn
tuỳ tùng chạy ra bán đảo Hàn, lập nhà nước mới và xưng vương. Câu chuyện này tồn tại
suốt mấy nghìn năm thời phong kiến với ý nghĩa sánh ngang hàng với phong kiến
Trung Hoa.
7
Giới sử học ngày nay cho rằng khó có thể có thật trong lịch sử nên đa số đều theo
thuyết DanGun dựng nước.
Khoảng thế kỷ II TCN, WiMan (Vệ Mãn) mở rộng thế lực ở phía Tây, lật đổ thế
lực cũ và lập ra triều đại mới là WiManJoseon. Sau khi WiMan dựng triều đại mới thì
hàng loạt các tiểu vương quốc thuộc vùng Manju và phía Nam bán đảo được dựng nên
như Buyeo, Goguryeo, Okjeo, Dongye, SamHan.
Các thế lực này hoặc trực tiếp thanh toán lẫn nhau hoặc liên kết lại để mở rộng
thế lực chinh phục các nước nhỏ. Sau cùng, các tiểu vương quốc dần được tập trung lại
và mở ra thời kỳ Ba vương quốc (Tam quốc) theo thế chân vạc là Goguryeo (Cao Câu
Ly), Baekje (Bách Tế) và Shilla (Tân La).
1. Sự phát triển của Goguryeo
Theo Tam quốc sử ký thì Goguryeo được thành lập từ năm 37 TCN, là một quốc
gia mạnh ở vùng phía Bắc bán đảo.
Trong xã hội Goguryeo, những quí tộc của 5 bộ tộc lớn (bao gồm cả vương tộc)
là tầng lớp cai trị cao nhất, trong đó, họ Go (Cao) là vương tộc và được kế thừa vương
vị.
Bộ máy chính quyền trung ương được sắp đặt khá qui củ, đứng đầu là Daedaero
(Đại Đối Lộ), chức quan tổng quản triều chính, tiếp sau là 10 cấp quan lại. Khu vực
hành chính gồm có kinh đô và 5 bộ ở khắp cả nước. Quan lại địa phương do trung ương
cử xuống, nắm giữ quyền lực cả về hành chính và quân sự. Các địa phương đều xây
thành để chống lại các thế lực bên ngoài.
Thời kỳ toàn thịnh của Goguryeo là vào thế kỷ thứ V, thời Gwanggaeto Dae
wang (Quang khai thổ đại vương) và Jangsuwang (Trường thọ vương) trị vì.
Gwanggaeto Daewang có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi lên phía Bắc,
chiếm cứ một vùng rộng lớn thuộc Manju. Sự nghiệp của ông được ghi lại trên
Gwanggaeto Daewang Neungbi (Quang khai thổ đại vương lăng bia) còn truyền lại ở
jib An (Tập An).
8
Jang Su wang (Trường thọ vương) là người kế nghiệp Gwanggae to Dae wang
còn tạo ra một chuyển biến mới trong quá trình phát triển của Goguryeo. Ông điều
chỉnh thể chế chính trị trong nước, dời đô từ Gungnaeseong (Quốc nội thành) về Pyung
Yang (Bình Nhưỡng) và tích cực xúc tiến việc mở mang bờ cõi xuống phía Nam, gây
áp lực cho Shilla và Baekje.
Trong quá trình phát triển đất nước, ba vương quốc khi thì liên minh khi thì
chống đối lẫn nhau. Ngoài ra, ba vương quốc đã mở rộng quan hệ với các nước lân cận
như Trung Quốc, các dân tộc ở phía Bắc và nước Wae (Nhật Bản xưa).
Vào giữa thế kỷ VI, Shilla đã phát triển, nhưng lại lâm vào cảnh bị bao vây bởi
sự liên minh giữa Koguryeo và Backje. Vì thế, Shilla sang cầu viện nhà Tuỳ. Tuỳ Văn
Đế ra lệnh đưa quân cứu viện nhưng bị Goguryeo đẩy lùi. Tuỳ Dạng Đế lên ngôi Hoàng
Đế và mở cuộc tấn công với quy mô lớn, trực tiếp chỉ huy 113 vạn quân tấn công
Goguryeo. Cuộc chiến lớn này xảy ra vào năm 612. Mũi tấn công chính là 30 vạn quân
tinh nhuệ đánh vào thành Pyeong yang (Bình Nhưỡng). Dưới sự chỉ huy tài tình của
tướng quan Euljimundeok (Ất Chi Văn Đức), 30 vạn quân Tuỳ đã bị rơi vào ổ phục
kích của quân Goguryeo ở SalSu và bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đây được coi là chiến thắng hào hùng nhất trong lịch sử cổ đại Hàn Quốc. Nhà
Tuỳ sau thất bại này đã suy yếu nhanh chóng, lại thêm nội loạn nên nhanh chóng bị diệt
vong, nhà Đường lên thay thế cai trị Trung Quốc.
Khi nhà Đường mới thay nhà Tuỳ, quan hệ đôi bên khá êm thấm. Goguryeo đã
trao trả nhà Đường khoảng một vạn tù binh trong cuộc chiến với nhà Tuỳ. Nhưng, sau
khi Đường Thái Tông lên ngôi, năm 645, với lý do buộc Goguryeo phải thuần phục, nhà
Đường đem quân xâm chiếm Goguryeo. Quân dân Goguryeo kiên cường chống trả và
cuộc chiến ở thành AnSi ( An Thị) là trận đánh quyết định. Thành AnSi là một thành
nhỏ trên núi nhưng lại là vị trí quan trọng ở biên cương phía Tây. Cuộc chiến đấu của
binh sĩ Goguryeo quyết giữ thành đã diễn ra cả tháng trời và rốt cuộc họ đã đẩy lùi được
9
quân nhà Đường. Đây là niềm tự hào của người dân Goguryeo đã từng đánh bại một đế
quốc hùng mạnh nhất khu vực thời bấy giờ.
2. Sự phát triển của Baekje
Theo Tam quốc sử ký, Baekie được lập vào năm 18 TCN, do những người di cư
từ phương Bắc xuống, trong đó, phần đông là người Goguryeo. Do lưu vực sông Hàn là
nơi đất đai màu mỡ nên ngay từ sớm, ở đây đã phát triển văn hoá đồ sắt và văn hoá
nông nghiệp. Hơn nữa, do có địa thế ở phía Tây Nam bán đảo, cách Trung Quốc không
xa qua đường biển nên Baekje có thể tiếp nhận những yếu tố văn hoá tiên tiến của
Trung Quốc một cách nhanh chóng hơn so với các nước kia.
Baekje phát triển toàn thịnh vào nửa sau thế kỷ IV, đời vua Geunchoco (Cận tiểu
Cổ vương). Lúc này, triều đình đã hình thành chế độ kế thừa ngai vàng theo cách cha
truyền con nối. Vương tộc họ Buyeo liên kết với 8 họ quý tộc khác lãnh đạo chính trị,
bầu ra Tể tướng và thiết lập bộ máy cai trị với 16 cấp quan đảm trách công việc nhà
nước.
Vào nửa sau thế kỷ thứ V, năm 475, vua Goguryeo là Jangsuwang (Trường thọ
vương) tấn công Baekje, chiếm được kinh đô là Hanseong (Hán thành) và vùng lưu vực
sông Hàn, vua Baekje là Gaerowang bị bắt sống và bị giết. Baekje buộc phải dời đô về
Ungjinseong (thành Ung Tân, Gongju ngày nay).
Vào nửa đầu thế kỷ VI, Baekje dưới thời Muryeongwang (Vũ Ninh Vương) trị vì
đã có những biến đổi sâu sắc, thiết lập quan hệ thân thiện với nhà Lương (Trung Quốc),
dần dần khôi phục đất nước và phát triển nông nghiệp. Từ giữa thế kỷ VI trở đi, Baekje
chấn hưng và nhà vua Seongwang (Thánh vương) đã quyết định dời đô từ Ungjinseong
chật hẹp về vùng đồng bằng rộng lớn Sabiseong (Thành Từ Bi, Buyeo ngày nay), đổi
tên nước thành Nam – Buyeo (Nam Phù Dư). Để củng cố vương quyền và điều hành
công việc đất nước một cách có hiệu quả, nhà vua lập ra 22 ty phủ ở trung ương, 5 bộ ở
kinh đô và 5 động ở địa phương. Từ đó, tình hình trong nước yên ổn, nông nghiệp phát
triển và đặc biệt là quan hệ giao thương với các nước xung quanh rất tốt đẹp.
10
3. Sự phát triển của Shilla
So với hai vương quốc kia thì Shilla hình thành nhà nước muộn hơn. Vào nửa
cuối thể kỷ IV, Shilla là vương quốc được hình thành từ việc liên minh nhiều thế lực ở
vùng đồng bằng Gyeongju. Quá trình hình thành Shilla từ nửa cuối thế kỷ IV đến đầu
thế kỷ VI gắn liền với sự lớn mạnh và thâu tóm quyền lực của ba dòng họ lớn là Gim,
Bak, Seok. Sau cùng, dòng họ Gim hoàn toàn độc chiếm vương vị. Người có ngôi vị
cao nhất gọi là Maripgan (Ma Lập Can), có nghĩa là Daegunjang ( Đại quân trưởng ).
Đầu thế kỷ VI, vào thời JiJeungwang (Trí Chứng vương), diện mạo vương quốc
ngày càng đổi mới, tên nước chính thức được đặt là Shilla và người có ngôi vị cao nhất
được gọi là wang (Vương) theo như Trung Hoa thay cho Ma Lập Can trước đây. Từ
đây, Shilla đặt ra châu quận và cử quan lại đến cai trị, luật lệ được ban hành, cấp bậc
quan lại được định ra… tạo nên hình thái của một quốc gia trung ương tập quyền.
Tuy ra đời muộn hơn hai vương quốc kia nhưng có thể nói Shilla phát triển rất
nhanh nhờ có sự tiếp nhận thành tựu văn hoá, chính trị của triều đại nhà Đường và tạo
dựng được sự thống nhất tinh thần trong toàn dân.
4. Shilla thống nhất ba vương quốc và chiến tranh Shilla - Đường
Trong thời gian Goguryeo liên tiếp tiến hành những cuộc chiến tranh chống quân
xâm lược nhà Tuỳ, nhà Đường thì Backje lại thường xuyên công kích Shilla. Từ sau khi
Ưijawang (Nghĩa Từ vương) của Baekje lên ngôi (641 – 660) thì cuộc chiến càng ác liệt
hơn. Baekje lộ rõ dã tâm thôn tính Shilla.
Trước mối nguy hiểm đó, Shilla đã tìm cách liên minh với Goguryeo nhưng bất
thành. Bởi thế, Shilla tìm đường sang liên minh với nhà Đường và mối liên minh này
nhanh chóng được thiết lập với giao ước là sau khi diệt xong Baekje và Gogureo, Shilla
sẽ cắt cho nhà Đường phần đất phía Bắc sông Daedong ( Đại Đồng ).
Đội quân Shilla - Đường hình thành thế gọng kìm đã nhanh chóng hạ gục Baekje
vào năm 660. Sau khi diệt xong Baekje, đội quân liên minh này tiếp tục tấn công
Goguryeo. Lực lượng của Goguryeo thời kỳ này đã suy yếu sau những cuộc chiến với
11
nhà Tuỳ, nhà Đường nên không thể chống cự được cho dù cũng đã tổ chức phòng ngự
chặt chẽ và kiên cường chống trả. Thành Pyeong yang (Bình Nhưỡng), kinh đô của
Goguryeo đã thất thủ vào năm 668.
Việc thống nhất ba vương quốc năm 668 của Shilla có ý nghĩa vô cùng to lớn
trong lịch sử bán đảo Hàn, trở thành một động cơ quan trọng thúc đẩy việc xây dựng
một nền văn hoá dân tộc mới – một dân tộc thuần nhất.
Sau khi Goguryeo và Baekje bị diệt vong, nhà Đường bộc lộ dã tâm muốn cai trị
toàn bộ bán đảo, không thực hiện đúng như giao ước. Nhà Đường cho quân đồn trú ở
vùng đất cũ của Goguryeo và Baekje, đồng thời, còn coi Shilla là một chư hầu phiên
thuộc, gọi là Kê Lâm đô hộ phủ.
Shilla không chấp thuận việc thần phục và đã kiên quyết chống lại sự xâm lược
trắng trợn của nhà Đường.
Từ năm 671, Shilla không chỉ một mình chống lại nhà Đường mà đã kêu gọi tàn
quân của Goguryeo cùng toàn dân trên bán đảo đứng lên đánh giặc ngoại xâm. Trận
đánh mang tính chất quyết định diễn ra ở thành Maeso (Mại Tiêu), Shilla đánh tan 20
vạn quân nhà Đường, đoạt được 3 vạn ngựa chiến và rất nhiều binh khí, hoàn toàn giải
phóng đất nước vào năm 676.
5.Tongil Shilla ( Shilla thống nhất) và Balhae (Bột Hải)
(1). Shilla thống nhất (668 – 891)
Sau khi đánh bại Goguryeo và Baekje, Shilla đổi quốc hiệu là Shilla thống nhất,
đồng thời, đã có những thay đổi quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, đối
ngoại…
Shilla thống nhất đã xây dựng lại chế độ chính trị tương xứng với một quốc gia
thống nhất. Người đứng đầu nhà nước vẫn là Vương ( wang ), dưới vua (vương) là một
cơ quan điều hành trực thuộc, gọi là Chấp sự bộ (Jipsabu). Người đứng đầu cơ quan này
gọi là Thị trung (Sijung), có quyền hạn rất lớn, trực tiếp nhận sắc lệnh của nhà vua, xử
lý công việc hành chính và chịu trách nhiệm trước nhà vua. Do chức năng và quyền hạn
12
của Chấp sự bộ được nâng lên đã thu hẹp quyền hạn của tầng lớp quý tộc Shilla cũ, tạo
ra một chính quyền mới mang dáng dấp trung ương tập quyền.
Do lãnh thổ mở rộng nên tổ chức chính quyền địa phương cũng được sắp xếp lại.
Shilla thống nhất được chia làm 9 châu, dưới mỗi châu lại chia thành quận huyện và nhà
vua cử quan lại đến cai trị. Riêng đơn vị hành chính nhỏ nhất là thôn (chon) thì giao cho
Trưởng thôn, người của địa phương đảm trách. Ở các địa phương trọng yếu, Shilla cho
đặt 5 tiểu kinh với tư cách là khu vực hành chính đặc biệt và chuyển một số quý tộc của
Goguryeo và Baekje cũ đến sống ở đó.
Để tăng nguồn thu nhập cho nhà nước và giảm thiểu thu nhập kinh tế của giới
quý tộc, Shilla thống nhất đã hoạch định lại chế độ ruộng đất, cấp quan điền cho bá
quan văn võ và xoá bỏ lộc ấp trước đó đã ban cho quý tộc. Nông dân thì được chia đinh
điền để canh tác và nộp sưu thuế cho nhà nước. Nhưng về giai đoạn cuối, giới quý tộc
nổi lên và phục hồi được chế độ lộc ấp, hưởng một cuộc sống xa hoa.
Về quân sự, Shilla thống nhất đã thiết lập lại chế độ quân sự, lập ra 9 Seodang
(Thệ tràng) và 10 Jeong (đình). 9 Seodang là đội quân chính quy có cả người Goguryeo,
Baekje, Malgal (Mạt Hạt) tham gia, trong đó, người Shilla là nòng cốt. Ở mỗi châu đều
bố trí 1 Jeong, tương đương với 1 quân đoàn. Đặc biệt, ở vùng Hanju, vùng đất có ý
nghĩa quốc phòng trọng yếu thì đặt tới 2 Jeong.
Về giao thương và đối ngoại, có thể nói Shilla thống nhất đã mở rộng cửa trên cơ
sở giữ vững độc lập chủ quyền nhằm mục đích tăng thu nhập kinh tế và tăng sức mạnh
cho dân tộc.
Sau khi thống nhất lãnh thổ, ý thức xây dựng một dân tộc thuần nhất đã bắt đầu
nảy sinh và người Shilla còn mong muốn tăng cường sức mạnh của một dân tộc duy
nhất trên bán đảo. Điều này không những thể hiện ở chế độ chính trị, quân sự… mà còn
thể hiện ở chế độ đối ngoại cởi mở, biết tiếp thu văn hoá văn minh của các nước lân
cận. Quan hệ giao hảo với nhà Đường đã được thiết lập trở lại và phát triển. Giao lưu
văn hoá và việc qua lại của các đoàn sứ giả, lưu học sinh, tăng lữ, thương nhân giữa hai
13
nước ngày càng được tăng cường. Thông qua việc giao lưu văn hoá với nhà Đường,
Shilla đã du nhập cả văn hoá Tây vực và một số nước ở phía Bắc. Shilla thống nhất
được nhà Đường ca ngợi là “đất nước của người quân tử”. Giao thương buôn bán giữa
Shilla và nhà Đường cũng phát triển. Tệ sùng bái hàng ngoại nhập xa xỉ từ nhà Đường
trong giới quý tộc Shilla càng khiến cho giao thương với nhà Đường phát triển mạnh.
Do người Shilla qua lại nhiều nên ở bán đảo Sơn Đông và một phần lưu vực sông Hoài
Hà đã xuất hiện Shillabang (Tân La phường), tức làng của người Shilla, Shillaso (Tân
La Sở) nơi điều hành công việc buôn bán của người Shilla và còn dựng chùa mang tên
Shilla…
Nhiều học sinh Shilla đã sang nhà Đường du học. Phật giáo và Nho giáo ở Trung
Quốc được các thiền sư và nho sĩ Shilla tiếp nhận và phát triển ở Shilla. Các đại sư của
Phật giáo ở Hàn Quốc chủ yếu xuất hiện trong thời kỳ này như Đại sư UiSang (Nghĩa
Tương), Won Cheuk (Viên Trắc), Hyeocho (Tuệ Siêu)… Các nho sĩ Shilla sang học ở
Quốc Tử Giám nhà Đường cũng có nhiều người đỗ đạt qua các kỳ khoa cử như Gim Un
Gyeong (Kim Vân Khanh), Choe Chi Won (Thôi Chí Viễn)…
(2). Bal Hae (698 – 926) và sự xuất hiện Nam – Bắc triều
Sau khi Goguryeo bị diệt vong, tàn quân Goguryeo phân tán thành nhiều nhánh
tản mạn ở vùng phía Bắc bán đảo và vùng Manju (Mãn Châu). Lợi dụng việc kêu gọi
của Shilla thống nhất chống lại nhà Đường xâm lược. Một số đội quân của Goguryeo cũ
đã được tập hợp và dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh DaeJoYeong, đội quân này đã tiến vào
Dongmosan ( Đông Mâu sơn ) thuộc tỉnh Cát Lâm để định đô và lập nên nhà nước
Balhae (698).
Dân Balhae chủ yếu là người Goguryeo và người Malgal.
1
Tầng lớp cai trị là
người Goguryeo, còn tầng lớp bị trị chủ yếu là người Malgal. Trong các thư từ ngoại
giao với Nhật Bản, BalHae tự xưng là Goryeo (Cao Ly) và tuyên bố rằng họ đã thu
1
Người Malgal là tộc người từ Mông Cổ di cư sang vùng đất này.
14
phục được vùng đất của Goguryeo cũ. Điều này cho thấy ý thức kế thừa Goguryeo của
BalHae rất rõ ràng.
Với việc nhà nước BalHae được thành lập đã tạo ra tình thế Nam – Bắc triều
trong lịch sử Hàn Quốc, tức phía Bắc là BalHae, phía Nam là Shilla.
Thời kỳ đầu dựng nước, BalHae phải đối địch với cả Shilla và nhà Đường. Bởi
thế, Bal Hae phải tìm kiếm đồng minh là các tộc người ở phía Bắc và vượt biển sang
liên kết với Nhật Bản. Sự liên minh với các bộ tộc ở phía Bắc đã khiến cho lực lượng
quân đội của BalHae vững mạnh lên nhiều. Đến đời vua Mu wang (Vũ Vương: 719 –
737), BalHae còn tấn công vào phía Bắc của Bắc Kinh và vùng Sơn Đông của nhà
Đường. Nhà Đường tìm kế hoà hoãn và giao hảo với BalHae. Từ đó, quan hệ đối ngoại
giữa hai bên trở nên bình thường hoá và BalHae đã tiếp thu văn hoá văn minh của
Trung Hoa để hoàn bị các chế độ trong nước.
Về chính quyền trung ương, ngôi vị tối cao là vua, được gọi là Thiên tôn hay
Hoàng đế; dưới vua là 3 seong (Tỉnh), tức 3 cơ quan điều hành chính sự cao nhất; dưới
Seong lại có 6 Bu (bộ), điều hành các công việc đối nội đối ngoại.
Khu vực hành chính địa phương được tổ chức thành 5 kinh, 15 phủ, 62 châu, lấy
Sanggyeong (Thượng kinh) làm kinh đô. Các đơn vị hành chính cấp dưới như làng xã
đều do các thế lực địa phương cai quản.
Thời kỳ hưng thịnh nhất của BalHae là vào giữa thế kỷ thứ IX, dưới thời vua
Seonwang (Tuyên vương). Đội quân thiện chiến của BalHae đã mở rộng lãnh thổ sang
phía Tây đến tận vùng đất Liêu Đông, phía Bắc tới vùng Hắc Long Giang, phía Đông ra
tới Yeon Haeju (Diên hải châu), phía Nam đến sát sông Daedong (Đại Đồng). Đương
thời, Trung Quốc gọi BalHae là Hải Đông thịnh quốc, với ý nghĩa là đất nước hưng
thịnh ở phía Đông.
Tuy thế, sang đầu thế kỷ X, xã hội BalHae đã phân hoá mạnh, mâu thuẫn giữa
tầng lớp cai trị thuộc tộc người của Goguryo với tầng lớp dưới thuộc tộc người Malgal
ngày càng sâu sắc. Sự chia rẽ về chủng tộc cũng như lợi ích không cân đối giữa các giai
15
tầng, lại cộng thêm sự chống đối của thế lực địa phương phản đối việc quân dịch liên
miên đã khiến cho xã hội BalHae mất ổn định và rơi vào suy thoái. Đây là lý do chính
khiến cho BalHae thất bại nhanh chóng trước cuộc tấn công của người Khiết Đan từ
phía Bắc xuống vào năm 926.
Khi BalHae sụp đổ, nền văn hoá của nó cũng không được truyền lại cho đời sau.
Tầng lớp tạo dựng và phát triển văn hoá BalHae thuộc chủng tộc Goguryeo chạy tỵ nạn
về vùng đất cũ thuộc Goryeo sau này, bỏ lại đằng sau cho người Malgal – những người
bất lực trong việc duy trì nền văn hoá BalHae.
6. Shilla sụp đổ và hình thành Hậu Tam quốc
Sau khi thống nhất, Shilla vẫn tiếp tục duy trì được sự phát triển. Nhưng từ cuối
thế kỷ VIII trở đi, việc ăn chơi xa xỉ, sự tranh giành quyền lực trong cung đình và
những cuộc phản loạn của các thế lực địa phương, đặc biệt là vào cuối thế kỷ IX, nông
dân nổi dậy trên toàn quốc đã làm cho xã hội Shilla rung chuyển.
Trong sự hỗn loạn ấy, có một số nhân vật đã biết lợi dụng tình hình để tập hợp
lực lượng mưu đồ nghiệp lớn. Nổi lên trong số đó là Gyeon Hwon và Gung Ye.
Gyeon Hwon xuất thân từ vùng Sangju (Thượng Châu), vốn là quân nhân canh
giữ vùng bờ biển Tây Nam. Ngay khi nông dân nổi dậy, ông đã biết tập hợp lực lượng,
đồng thời, ông còn tập hợp thế lực thương nhân trên biển ở vùng biển Hwang He
(Hoàng hải) và những toán cướp lại thành đội quân chủ lực rồi đứng ra lãnh đạo. Sau
khi vượt qua Naju (La Châu), ông kéo quân chiếm lĩnh MuJinJu (Vũ Trân Châu,
Gwangju ngày nay) rồi tiến lên phía Bắc; định đô ở Wansanju (Hoàn sơn châu), lập ra
nước Hu – Baekje (Hậu Bách Tế).
GungYe xuất thân từ vương tộc Shilla nhưng vì bị hại trong cuộc tranh giành
quyền lực ở triều đình nên căm thù thế lực đối địch ở Shilla. Đầu tiên, ông là thuộc hạ
của Yanggil nhưng sau khi từng bước xây dựng được lực lượng, ông đã tách riêng và
phát triển thành một thế lực hùng mạnh ở tỉnh Gangwon và một phần tỉnh GyeongGi
ngày nay. Tiếp đó, được sự ủng hộ của một số hào tộc ở vùng trung bộ, trong đó có cả
16
cha con WangGeon (Vương Kiến) ở vùng Songak nên ông đã lấy Songak (Thông Nhạc)
làm căn cứ và dựng nên nhà nước Hu-Goguryeo (Hậu Cao Câu Ly) và lên ngôi vua vào
năm 901. Từ đó, Shilla bị phân liệt và thời kỳ Hậu Tam quốc bắt đầu.
III. THỜI TRUNG ĐẠI
WangGeon (Vương Kiến) vốn xuất thân từ vùng Songak, ông ủng hộ GungYe và
trở thành võ tướng dưới quyền của GungYe. Trong quá trình dựng nên Hu-Goguryeo,
Wang Geon lập nhiều công lớn và được thăng tới chức Sijung (Thị trung). Sau khi lên
ngôi, GungYe mắc sai lầm nghiêm trọng tự xưng là Phật Di Lặc và nghi kỵ tàn sát các
công thần, đánh mất lòng dân. Do đó, triều thần đã phế truất GungYe và đưa Wang
Geon lên ngôi vị quốc vương. WangGeon đổi tên nước là Goryeo (Cao Ly), với ý nghĩa
kế thừa Goguryeo xưa, lấy niên hiệu là Cheonsu (Thiên Thụ) (năm 918) và năm sau
(919) thì dời đô từ Cheorwon về Songak. Để thống nhất Hậu Tam quốc, Goryeo đã liên
kết với Shilla tấn công Hậu Baekje. Trong quá trình liên minh, vua Shilla tự thấy Shilla
quá suy yếu nên đã xin nhập vào Goryeo, trao lại Shilla cho WangGeon (năm 935). Một
năm sau, tức năm 936, WangGeon đánh bại Baekje, thống nhất đất nước.
Nếu ta coi việc thống nhất tam quốc của Shilla trước đây là điểm xuất phát cho
sự thống nhất dân tộc thì việc thống nhất đất nước lần này của Goryeo mang tính bền
vững, mở đầu cho thời kỳ phát triển mới của các triều đại phong kiến kế tiếp, kéo dài
hơn một nghìn năm.
1. Nhà nước Goryeo (918 – 1392)
Nhà nước Goryeo kéo dài 475 năm, trải 33 đời vua, mở đầu là WangGoen Taejo
(Thái tổ Vương Kiến: 918 – 943), kết thúc là Changwang ( Xương Vương: 1388 –
1392).
(1) Thiết lập trật tự xã hội và thống nhất dân tộc
WangGoen Taejo (Thái tổ Vương Kiến) đã thắt chặt mối quan hệ với các hào tộc
địa phương, tạm thời chấp nhận và cho họ quyền cai quản một số điền trang thái ấp ở
Goryeo. Ông đã cưới 20 tiểu thư của các gia đình hào tộc, tạo nên mối quan hệ thân
17
thiết, đồng thời, còn ban quốc tính cho một số dòng họ có thế lực khác. Tuy vẫn còn coi
trọng Phật giáo, kế thừa di sản của Phật giáo Shilla, Baekje, cho xây dựng nhiều chùa
lớn nhưng ông vẫn có ý định mở rộng chính sách, cho phép Nho giáo, Đạo giáo cùng
tồn tại, tích cực tiếp thu văn hoá văn minh Trung Hoa trên tinh thần cải biến sao cho
cho phù hợp với phong tục tập quán của Goryeo. Hơn nữa, Taejo còn soạn thảo Những
phòng ngừa về chính trị; Mười điều huấn thị; Các quy tắc quan chức để răn dạy con
cháu và các quan nhằm đảm bảo cho tương lai của Goryeo.
Những chính sách của Taejo đã tạo ra một sự hoà hợp dân tộc, được lòng dân và
xã hội Goryeo dần ổn định và phát triển. Tuy vậy, về lâu dài, chính sách của Taejo để
lại một hậu quả là thế lực địa phương, đặc biệt là ngoại thích ngày càng lớn hơn và thay
nhau nắm giữ quyền lực trong triều, đe doạ đến vương quyền. Chẳng hạn như dòng họ
An San Kim sau này độc quyền trong triều khoảng 50 năm (từ 1009 đến 1060), dòng họ
Inju Yi năm giữ khoảng 80 năm (từ 1046 đến 1127).
Đến đời vua Jeongjong ( Định Tông: 945 – 949 ), kế tiếp là Gwangjong (Quang
Tông: 949 – 975), một số chính sách mới đã được triển khai để ổn định và củng cố
vương quyền. Gwangjong ban bố chính sách giải phóng nô tỳ mà các hào tộc đang
chiếm giữ; thi hành chế độ khoa cử để tuyển dụng nhân tài, bổ sung vào cơ quan hành
chính, đồng thời, dùng biện pháp vũ lực đánh dẹp những thế lực địa phương chống đối
chính sách mới.
Đến đời vua Seongjong (Thành Tông: 981 – 997), Goryeo lấy tư tưởng chính trị
Nho giáo làm căn bản và xây dựng chế độ chính trị trên cơ sở đó. Về cơ cấu tổ chức
trung ương, Goryeo mặc dù tiếp nhận mô hình tam tỉnh lục bộ của Đường, Tống nhưng
chỉ lập ra nhị tỉnh lục bộ, tức chỉ có Trung thư môn hạ tỉnh (hợp nhất Trung thư tỉnh và
Môn hạ tỉnh) và Thượng thư tỉnh. Thượng thư tỉnh trực tiếp điều hành lục bộ. Ngoài ra,
Goryeo còn đặt ra các cơ quan như Samsa (Tam ty), Eosadae (Ngự sử đài), Jungchuwon
(Trung xu viện) và Dobyeongmasa ( Đồ binh mã sứ ). Đồ binh mã sứ tương đương như
18
Cơ mật viện sau này, các quan đầu triều họp bàn những chính sách quan trọng của nhà
nước.
Từ đời vua Seongjong (Thành Tông), cả nước được chia thành 12 Mok (mục),
dưới mục là châu, huyện và triều đình cử quan lại xuống cai trị; Thủ đô được đặt ở
Gaeseong (khai thành) và vùng xung quanh được gọi là khu vực Gyeonggi (kinh kỳ).
Pyeongyang (Bình Nhưỡng) được gọi là Tây kinh, Gyengju (Khánh Châu) được gọi là
Đông Kinh, hợp với kinh đô gọi là tam kinh.
Quân đội được hình thành từ nhị quân, lục vệ của trung ương và quân các châu,
huyện. Nhị quân được giao nhiệm vụ canh giữ cung cấm, lục vệ bảo vệ kinh đô và biên
giới quốc gia. Quân châu huyện bảo vệ trị an và đảm nhiệm các công việc quân dịch.
(2) Nội loạn và sự thành lập chính quyền võ thần
Loạn Yija Gyeom (Lý Tư Khiêm) và Myo Cheong (Diệu Thanh)
Dòng họ YijaGyeom có quan hệ hôn nhân nhiều đời với vương thất và trở thành
một dòng họ ngoại thích có thế lực nhất đương thời. Đặc biệt, Yija Gyeom đã gả hai
con gái cho Yejong (Duệ Tông) và Injong (Nhân Tông) làm vương phi nên càng lộng
hành và lấn át quyền vua. Điều này khiến vua Injong lo ngại và muốn loại bỏ Yija
Gyeom. Việc bị bại lộ và Yija Gyeom kéo quân chiếm kinh thành, đốt cung điện (năm
1126). Vua Injong thoát nạn và sau đó đã dẹp được loạn, giết chết Yija Gyeom.
Sau loạn Yija Gyeom, Myocheong (Diệu Thanh), một tăng lữ xuất thân ở
Seogyoeng (Tây Kinh) cùng với quan đại thần Jeong Ji Sang (Trịnh Tri Thường) lợi
dụng lúc lòng dân bất ổn đã nêu thỉnh cầu vua Iujong xưng đế hiệu và chinh phạt nước
Kim. Để thực hiện điều này, họ khẩn thiết đề nghị nhà vua dời đô về Seogyeong (Tây
Kinh). Nhà vua nghiêng về kiến nghị trên, cho xây cung điện ở Seogyeong và thường
xuyên lui về đó.
Nhưng, thế lực chính trị ở kinh đô phản đối việc dời đô. Do đó, Myeocheong đã
cầm đầu những người Seogyeong nổi loạn, đặt tên nước là Daewiguk (Đại vĩ quốc), lấy
19
niên hiệu là Thiên khai. Lập tức, quân triều đình do GimBusik (Kim Phú Thức) làm tư
lệnh đã tấn công Seogyeong và khoảng một năm sau, cuộc phản loạn bị dập tắt.
Nội loạn đã để lại hậu quả nặng nề, các kinh thành và làng mạc bị đốt phá, tài
chính quốc gia suy kiệt, cuộc sống của người dân đói kém, lòng dân bất ổn.
Sự thành lập chính quyền võ thần
Năm thứ 9 đời vua Gwangjong, tức năm 958, nhà vua ra sắc lệnh lập Văn Miếu,
Quốc tử giám và mở khoa thi Nho học, lựa chọn nhân tài để bổ nhiệm vào cơ quan hành
chính nhà nước. Tới đầu thế kỷ XII thì hàng ngũ quan lại qua khoa cử ở Goryeo đã ổn
định theo các cấp bậc từ trung ương đến địa phương. Nho giáo Goryeo không những đã
vượt lên trên Phật giáo mà còn được coi trọng quá mức. Trong triều đình, văn ban được
đề cao hơn võ ban, phẩm hàm của quan văn được xếp cao hơn quan võ. Ngoài xã hội, vị
trí xã hội và kinh tế của binh lính bị hạ thấp, không được phân chia đất đai như trước
đây , chỉ hưởng lương theo cấp bậc mà còn phải thường xuyên bị huy động đi lao dịch
trong thời bình.
Nội loạn xảy ra, công lao của võ tướng và binh lính trong việc dẹp loạn không
phải là nhỏ, nhưng nhà vua và giới quý tộc vẫn xem thường võ tướng. Vua Ưijong kế
nghiệp Injong lại chỉ thích vui chơi, hội hè đình đám và nghe theo đám quan văn nịnh
thần, bởi thế, đám quan văn càng khinh rẻ đám võ quan. Do cách đối xử như vậy, sự nổi
dậy của các võ quan là điều không thể tránh khỏi. Nhân thời cơ vua Ưijong đi vui chơi
ở Phổ hiền viện ở ngoại ô, các võ tướng do Jeong Jung Bu (Trịnh Trọng Phu) cầm đầu
đã làm cuộc chính biến (năm 1170). Đám quan võ tàn sát các quan văn, đày vua Ưijong
đi biệt xứ, dựng người em sinh đôi với Ưijong lên ngôi và chiếm lấy chính quyền. Thời
gian các võ quan nắm quyền kéo dài khoảng 100 năm, trong đó, 60 năm cuối, dòng họ
Choe (Thôi) độc chiếm quyền lực.
Thời gian đầu, chính quyền võ quan do Jeong Jung Bu đứng đầu còn phải chống
trả vất vả với các cuộc nổi dậy của đám văn quan muốn phục hồi vương vị cho vua
20
Ưijong, sau đó, xã hội mới dần ổn định theo thiết chế quân sự. Kế tiếp Jeong Jung Bu là
Gyeong Dae Seung (Khánh Đại Thăng) và Yi Ưi Min (Lý Nghĩa Mẫn).
Theo nghiên cứu và công bố mới đây, Lý Nghĩa Mẫn là hậu duệ đời thứ 6 của
dòng họ Lý ở Tinh Thiện (Seong Sun), tức dòng họ Lý Dương Côn (Việt Nam) chạy
sang Goryeo từ cuối đời vua Càn Đức, tức Lý Thần Tông (1128 – 1138) Lý Nghĩa Mẫn
từng có nhiều công lao trong thời kỳ võ quan nắm quyền ở Goryeo, quyền hành gần như
Tể tướng, đứng đầu chính quyền Goryeo trong sáu năm (1190 – 1196).
Sau Lý Nghĩa Mẫn, quyền lực trong triều Goryeo rơi vào tay dòng Choe và dòng
họ này duy trì được 4 đời, khoảng 60 năm. Xã hội Goryeo thời kỳ này khá ổn định so
với thời kỳ đầu và dòng họ Choe (Thôi) đã để lại những dấu ấn lịch sử nhất định, nhất
là những cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược.
(3) Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông
Từ năm 1231 đến năm 1259, Goryeo đã phải 6 lần chống trả các cuộc xâm lăng
của quân Nguyên Mông.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất diễn ra vào năm 1231, quân dân Goryeo đã đồng
tâm hiệp sức chống lại quân Mông Cổ. Đặc biệt, tại thành Gwiju (Quy Châu), dưới sự
chỉ huy của Bakseo (Phác Tề), quân dân trong thành đã giữ vững thành trì, bẻ gãy cuộc
xâm lược này.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai xảy ra vào năm 1232 với sự đóng góp to lớn của Lý
Long Tường, một Hoàng thân nhà Lý Việt Nam sang Goryeo tỵ nạn vào năm 1226.
Những di tích như Thụ hàng môn, Bia kỷ tích còn lại đến ngày nay đã ghi rõ công trạng
đó và đã được giới sử học hai nước xác nhận.
Trong thời gian chống quân Nguyên Mông, lợi dụng tâm lý sự biển của quân
Mông Cổ, triều đình Goryeo đã rút ra đảo Ganghwa, một hòn đảo ở vùng biển phía Tây
Nam bán đảo. Để thu phục lòng dân và hy vọng nhờ sức mạnh của Đức Phật đẩy lùi
được quân Mông Cổ, triều đình Goryeo đã cho khắc lại bộ kinh Tam Tạng. Công việc
này được hoàn thành sau 16 năm và có lẽ chỉ mang tính chất cổ xuý về tinh thần chống
21
giặc ngoại xâm. Dẫu sao, hàng ngàn bản khắc gỗ kinh Phật hiện còn lưu giữ ở chùa
Haein gần Daegu là một trong những di sản văn hoá rất đáng tự hào của dân tộc Hàn.
Bản kinh Phật này hiện nay đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Ở trong đất liền, chính quyền họ Choe (Thôi) đã biết tập hợp lực lượng, vận động
toàn dân lợi dụng địa hình núi non và hải đảo để kháng chiến. Trong một trận chiến,
Gim Yun Hu (Kim Doãn Hầu) chỉ huy quân đội và dân địa phương đã giết chết Sallita (
Sát Lễ Tháp ), viên tướng chỉ huy quân Mông Cổ, đánh bại một cuộc tấn công nữa của
quân giặc.
Sau mấy cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, chính quyền họ Choe (Thôi) đã
không quan tâm đến dân chúng bị lầm than trong chiến tranh mà ngược lại còn thực
hiện các chính sách sưu cao thuế nặng để duy trì chính quyền và sống xa hoa ở đảo
GangHwa dẫn đến làm mất lòng dân. Bởi thế, người nắm quyền tối cao là Choe Ưi bị
sát hại và chính quyền họ Choe sụp đổ.
Sau thời kỳ võ quan nắm quyền, triều đại Goryeo đã có sự trở lại của các văn
quan và việc giảng hoà với quân Mông Cổ đã được đặt ra. Thái tử của Goryeo được cử
đi thương lượng và hai bên đã ký một hiệp ước giảng hoà một cách thuận lợi.
Theo hiệp ước này, tuy nhà Nguyên thừa nhận chế độ và phong tục của Goryeo
nhưng Goryeo phải chịu một số ràng buộc nhất định thông qua một cơ quan hành chính
của nhà Nguyên đặt tại Goryeo gọi là Chinh Đông hành tỉnh và Thái tử Goryeo phải kết
hôn với công chúa của nhà Nguyên, vương tử phải được giáo dục ở kinh đô nhà
Nguyên.
Sự ràng buộc của nhà Nguyên đối với Goryeo kéo dài gần 80 năm. Đến khoảng
giữa thế kỷ XIV, khi nhà Nguyên suy thoái, Goryeo mạnh lên thì sự lệ thuộc mới chấm
dứt.
(4) Kinh tế và văn hoá Goryeo
Về kinh tế, nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế Goryeo. Bởi thế, việc phân
chia đất đai và lực lượng nông dân có tầm quan trọng đặc biệt.
22
Hệ thống ruộng đất có đặc điểm cơ bản là: đất công thuộc sở hữu nhà nước và đất
tư thuộc sở hữu tư nhân. Đất công bao gồm đất trả lương cho các quan lại, (binh lính
Goryeo thời kỳ đầu cũng được hưởng đất theo chế độ lương bổng, thời kỳ sau chỉ được
nhận tiền lương), đất phân cho các cơ quan nhà nước, tu viện, đền chùa… Người nông
dân tự do có thể nhận đất công, canh tác và phải nộp 1/4 số thu hoạch. Đất tư là đất của
các dòng họ, gia đình quý tộc, đất được nhà vua ban thưởng và gia đình quý tộc có thể
thu tới 1/2 số thu hoạch, bởi người canh tác trên ruộng đất của họ thường là nô tỳ và gia
nhân. Tuy vậy, người nông dân ngoài việc nộp tô còn phải đi lao dịch tuỳ theo từng thời
kỳ, thời gian từ 3 đến 6 tháng một năm và phải tự lo khẩu phần ăn uống hàng ngày.
Thương mại tuy chưa phải là phần quan trọng trong nền kinh tế Goryeo nhưng
việc buôn bán với Trung Quốc đã phát đạt. Ngoài ra, Goryeo cũng đã có quan hệ
thương mại với các dân tộc ở vùng Mãn Châu và Sibêrya, Nhật Bản, Ả Rập… Thương
hiệu Korea (chuyển từ tên Goryeo) đã được nhiều nước trong khu vực biết đến. Người
Việt Nam biết đến Goryeo qua phiên âm chữ Hán là Cao Ly.
Về văn hoá, so với thời Shilla thống nhất thì Goryeo thống nhất đã có sự phát
triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực về văn hoá như văn học, sử học, nghệ thuật, y học, tôn
giáo…
Phật giáo thời kỳ đầu Goryeo phát triển rất mạnh. Vua Taejo tin rằng Đức Phật
phù hộ cho ông thành công trong việc dựng nước nên đã ra lệnh xây nhiều chùa lớn và
đưa Phật giáo lên vị trí chính yếu. Các đời vua sau kế tiếp sự nghiệp của cha ông càng
tôn sùng Phật giáo và các nghi lễ của Phật giáo không chỉ giới hạn trong nhà chùa mà
còn mở rộng ra dân gian. Di sản Phật giáo thời kỳ này còn lưu lại là vô số những ngôi
chùa lớn được xây dựng công phu. Thời kỳ sau, tuy Phật giáo phải nhường chỗ cho Nho
giáo nhưng bộ kinh Tam Tạng được khắc trong thời kỳ chống giặc Mông Cổ cũng là
một di sản quý báu.
Năm 958 (Năm thứ 9 đời vua Gwangjong), Văn Miếu – Quốc Tử Giám được lập
nên đã chính thức khẳng định chỗ đứng của Nho giáo trên đất Goryeo. Trải hơn hai thế
23
kỷ hình thành, phát triển, Nho giáo Goryeo đi theo hướng cực đoan và đã phải trả giá
đắt cho sự trỗi dậy của lực lượng võ quan. Trong suốt 100 năm võ quan cầm quyền,
Nho giáo hầu như vắng bóng trên chính trường, các văn quan và nho sinh bị tàn sát và
khoa cử Nho giáo bị đình trệ.
Cuối thời kỳ Goryeo, Tân Khổng giáo được du nhập và phát triển nhanh chóng.
Tân Khổng giáo từng bước đẩy lùi tầm ảnh hưởng của Phật giáo và đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến xã hội Goryeo, khoa cử Nho giáo được khôi phục và dần đi vào nề nếp.
Thời Goryeo, những bộ sử lớn đã được biên soạn, tiêu biểu là Tam quốc sử ký do
Gim Bu Sik (Kim Phú Thức) soạn, Tam quốc di sự do nhà sư IrYon (Nhất Nhiên) soạn.
Tam quốc sử ký là bộ chính sử, ghi chép lịch sử đất nước một cách chính thống, còn
Tam quốc di sự là bộ dã sử, không chính thống. Bộ Tam quốc sử ký mang đậm tư tưởng
Nho giáo, còn Tam quốc di sự lại mang tư tưởng Phật giáo. Ngoài ra, còn có Đông
Minh vương thiên và Đế vương vận ký. Đông Minh vương thiên do YiGoeBo (Lý Khuê
Báo) soạn, là bộ sử viết bằng thơ chữ Hán trường thiên, nội dung viết về thần thoại Chu
Mông, thần thoại dựng nước Goguryeo. Đế vương vận ký cũng là bộ sử được viết bằng
thơ chữ Hán trường thiên do Lý Thừa Hưu viết.
Tuy là những bộ sử nhưng trong đó, các giá trị văn học cũng được thừa nhận.
Tính văn học được đề cao đã khiến cho giới văn học Hàn Quốc chú ý và khai thác
nhiều, từ đó, khẳng định giá trị văn chương của các bộ sử nói riêng, văn chương thời
Goryeo nói chung. Văn học chữ Hán thời kỳ này đã nở rộ, chủ yếu học theo lối văn Tần
Hán, thơ Thịnh Đường. Tuy vậy, truyền thống sáng tác hyangca (bài ca dân gian) từ
thời Shilla vẫn tồn tại. Đặc biệt, phê bình văn học đã hình thành và phát triển, thúc đẩy
văn học Goryeo ngày một hoàn thiện hơn. Nổi bật là những tác phẩm như Phá nhàn tập
của YiInRo (Lý Nhân Lão), Bạch Vân tiểu thuyết của YiGoeBo (Lý Khuê Báo), Bổ
nhàn tập của Choesa (Thôi Tư)… Về mỹ thuật, nổi bật là gốm men màu ngọc bích,
được đánh giá rất cao, được xem như đỉnh cao nhất của thành quả nghệ thuật Goryeo…
24
(5) Loạn giặc Wa (Nhật Bản), giặc khăn đỏ và sự xuất hiện thế lực mới lật đổ
vương triều Goryeo
Vào thời vua Gong Min (1351 – 1374), giặc Wa và giặc khăn đỏ thường xuyên
quấy rối Goryeo.
Giặc Wa là hải tặc có căn cứ ở đảo Tsushima của Nhật. Từ đầu thế kỷ XIV,
chúng xâm nhập vùng duyên hải và cướp bóc, thậm chí, có đợt, chúng cướp phá ở đảo
GangHwa và uy hiếp cả kinh đô.
Giặc khăn đỏ là quân nông dân của tộc người Hán lợi dụng lúc nhà Nguyên suy
yếu để tạo phản. Chúng liên tục tấn công Goryeo và có đợt đã tiến vào GaeSeong, vua
Gong Min phải đi lánh nạn ở tận vùng Andong, vùng đất thuộc miền Đông Nam bộ.
Lúc đó, các tướng lĩnh Choe Yeong (Thôi Doanh), YiSeongGye (Lý Thành Quế)
Choe Mu Seon (Thôi Mậu Tuyên) đã đứng ra lãnh đạo binh sĩ đánh trả giặc Wa và lập
nhiều công lớn. Trong quá trình hợp lực đánh đuổi giặc Wa và giặc khăn đỏ, thế lực võ
thần do Choe Yeong và Yi Seong Gye cầm đầu đã trưởng thành và lớn mạnh.
Thời kỳ này, ở Trung Quốc, nhà Minh đã thay nhà Nguyên. Ban đầu, quan hệ
giữa Goryeo và nhà Minh vẫn giữ quan hệ hữu hảo. Nhưng nhà Minh yêu cầu Goryeo
giao lại vùng đất của Goryeo ở phía Bắc mà nhà Minh cho rằng thuộc Trung Quốc xưa.
Quan hệ hai nước xấu đi, Goryeo từ chối yêu cầu của nhà Minh, hơn nữa, còn cử Yi
seong Gye đem quân tiến đánh muốn giành lại vùng đất Liêu Đông mà nhà Minh đã
chiếm giữ. Yi Seong Gye dẫn 5 vạn quân hướng về phía Liêu Đông nhưng đến
WiHwado liền quay trở lại chiếm Gae Seong, phế truất vua Uwang (1374 – 1388), loại
bỏ Choe Yeong, người nêu kế sách gây ra cuộc chiến đòi lại đất Liêu Đông. Lịch sử
Hàn Quốc gọi đây là sự kiện hồi quân ở WiHwado.
Phái của Yi Seong Gye kết hợp với thế lực tân tiến sĩ đại phu – phái có tư tưởng
cấp tiến và tiến hành một cuộc cải cách đất nước. Họ xác định mục tiêu chính của cuộc
cải cách này là cải cách ruộng đất, tiến tới kiểm soát chế độ ruộng đất đang bị rối loạn,
25
nguyên nhân chính tạo ra mâu thuẫn xã hội lúc bấy giờ. Họ đã đưa ra quy định mới về
chế độ ruộng đất, tịch thu ruộng đất của quý tộc cũ rồi phân chia cho quan lại cấp tiến.
Thế lực võ thần kết hợp với phái cấp tiến đã trở thành thế lực mới và cuối cùng,
họ đã lật đổ vương triều Goryeo.
2. Nhà nước Joseon (1392 – 1910)
Với sự kiện hồi quân ở WiHwado, YiSeonggye đã phế bỏ vua Uwang và Choe
Yeong, giành lấy thực quyền rồi cùng phái Tân tiến sĩ thực thi chương trình cải cách.
Tiếp đó, họ loại bỏ những phần tử thuộc phái bảo thủ và sau cùng, phế truất ngôi vua
của Changwang (1388 – 1392), dựng nên vương triều mới vào năm 1392, đặt tên nước
là Joseon (Triều Tiên), với ý nghĩa kế thừa nhà nước Gojoseon, chọn HanYang làm
kinh đô. Năm 1394, YiSeongGye chính thức dời đô từ GaeSeong về HanYang ( sau đổi
là Hanseong: Hán thành, tức Seoul ngày nay ).
(1) Bộ máy chính quyền trung ương và cơ cấu hành chính địa phương
So với thời Goryeo, thể chế trung ương tập quyền của vương triều Joseon được
thiết lập chặt chẽ hơn và vững vàng hơn.
Ở trung ương, cơ quan quyền lực cao nhất là Ưijeong bu (Nghị chính phủ), dưới
là Yukjo (Lục tào hay còn gọi là lục bộ) và nhiều cơ quan khác. Nghị chính phủ quyết
định những chính sách quan trọng của đất nước trên cơ sở có sự đồng ý của ba vị quan
đầu triều. Còn Lục tào thì đảm đương các công việc hành chính quốc gia. Bên cạnh đó,
các cơ quan như Saganwon (Ty gián viện) có nhiệm vụ can gián, cảnh tỉnh nhà vua,
giúp nhà vua thực hiện chính sự một cách đúng đắn. Saheonbu (Ty hiến phủ) giám sát
hành vi tiêu cực trong quản lý nhà nước; Hongmungwan (Hoằng văn quán) chuyên tư
vấn việc nước và soạn thảo giấy tờ theo lệnh nhà vua; Ba cơ quan này được gọi tên
chung là Samsa (Tam ty). Ngoài ra, còn có Seungjeongwon (Thừa chính viện) làm thư
ký riêng cho nhà vua; Ưigeumbu (Nghĩa cấm phủ) xét xử và trừng trị tội phạm;
Chunchugwan ( Xuân thu quán ) chuyên ghi chép về lịch sử và Seonggyunwan (Thành
Quân quán), trường học cao cấp nhất (đổi tên từ Quốc tử giám).