Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Ngân hàng thế giới world bank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.81 KB, 15 trang )

NGÂN HÀNG THẾ GIỚI
(WORLD BANK)
1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng thế giới:
1.1.Lịch sử hình thành:
Năm 1944 Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD)sau này là Ngân hàng thế
giới và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) được thành lập tại Bretton Woods với sự tham dự
của nhiều đại diện trên thế giới.
Năm 1946 Eugene Meyer được bổ nhiệm giữ chức chủ tịch Ngân hàng; Ngân hàng
bắt đầu đi vào hoạt động.
Năm 1947 John McCloy từ chức chủ tịch Ngân hàng, Eugene R.Black là người được
bổ nhiệm thay thế, ông cũng là vị chủ tịch có nhiệm kì dài nhất tại Ngân hàng thế
giới.
Năm 1952 Nhật Bản và CHLB Đức gia nhập NHTG.
Năm 1956 Thành lập Công ty tài chính Quốc tế (IFC).
Năm 1960 Thành lập Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA).
Năm 1962 Khoản vay đầu tiên dành cho giáo dục được cấp cho Tunisie để xây dựng
các trường học.
Năm 1966 Thành lập Trung tâm Quốc tế giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID).
Năm 1980 Khoản tín dụng đầu tiên để điều chỉnh cơ cấu đã được cấp cho Thổ Nhĩ Kì.
CHDC Nhân Dân trung Hoa trở thành thành viên của Ngân hàng tái thiết và phát triển
quốc tế và Hiệp hội phát triển quốc tế.
Năm 1982 Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng giúp dỡ Mexico do quốc gia này rơi vào
khủng hoảng.
Năm 1988 Thành lập tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA)
1
Năm 1991 Trung Quốc là con nợ lớn nhất của Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA).
Năm 1992 Liên Bang Nga và 12 nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ trở thành thành
viên của IBRD VÀ IDA.
Năm 1996 IBRD VÀ IMF và các nhà tài trợ đã khởi xướng sáng kiến giúp đỡ các
nước nghèo nợ nần chồng chất (HIPC).
Năm 1997 IBRD phối hợp với IMF thực hiện cứu trợ các quốc gia Châu Á sau cuộc


khủng hoảng tài chính.
Năm 1999 IBRD và IMF đưa ra các chiến lược chống đói nghèo, sáng kiến HIPC
được đẩy mạnh để thúc đẩy việc giảm nợ cho các nước nghèo.
Năm 2000 Sau gần 20 năm tỷ lệ thành công của các dự án của Ngân hàng đạt 75%.
Năm 2000 cho đến những năm gần đây, Ngân hàng thế giới tiếp tục những hoạt động
có ích hướng đến cộng động thế giới. New York, ngày 20/9/2010―Trong diễn văn
khai mạc đọc trước lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới tại phiên họp toàn thể Đại
hội Đồng Liên Hợp Quốc về Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Chủ tịch
Nhóm Ngân hàng Thế giới, Robert B. Zoellick, tuyên bố Ngân hàng Thế giới đã cứu
giúp cuộc sống của 13 triệu người từ nguồn vốn của Hiệp hội phát triển quốc tế IDA
hỗ trợ trực tiếp cho các mục tiêu MDG cho những nước nghèo nhất kể từ năm 2000
và sẽ tăng gấp đôi nỗ lực để huy động các nguồn vốn đầu tư mới trong nông nghiệp,
giáo dục và y tế nhằm san bằng những cách biệt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
trong vòng 5 năm tới.
Được ký kết vào năm 2000, những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ này cam kết các
nước đang phát triển, các nhà tài trợ và các đối tác khác xóa bỏ đói nghèo cùng cực và
cải thiện phúc lợi kinh tế và con người cho người nghèo trên toàn thế giới vào năm
2015. “Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ là trọng tâm trong sứ mạng của Nhóm Ngân
hàng Thế giới và công việc hàng ngày của chúng tôi. Từ năm 2000, nguồn vốn IDA
2
đã giúp cứu sống 13 triệu người" ông Zoellick tuyên bố trong một bài phát biểu
chuẩn bị trong phiên khai mạc Hội nghị Cấp cao về MDG tại Liên hiệp quốc.
1.2. Quá trình phát triển:
Sau khi được thành lập vào năm 1944, Ngân hàng thế giới chính thức hoạt động với
đơn xin vay vốn đầu tiên của Chilê, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Pháp, Luxemburg và Ba
Lan vào năm 1946. Tuy mới thành lập nhưng hoạt động của Ngân hàng đã góp phần
giải quyết khó khăn cho các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, để được vay vốn của
IBRD quốc gia đó phải là thành viên của Ngân hàng vì vậy năm 1956 Công ty tài
chính quốc tế (IFC) chính thức thành lập để hổ trợ về vấn đề nợ vay đối với các quốc
gia khác.

Năm 1958, IMF và Hội đồng quản tri của IBRD đưa ra đề nghị thành lập Hiệp Hội
Phát triển Quốc Tế (IDA) với mục đích là tổ chức này sẽ cho vay tín dụng với các
quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp. Tháng 9 năm 1960 IDA được thành lập và
đến cuối tháng 3 năm 2000 IDA có 161 thành viên. Khi đề cập đến NHTG người ta
thường nhắc đến hai định chế: IBRD và IDA, trong đó IBRD cung cấp vốn vay và hỗ
trợ cho các nước đang phát triển, các nước có thu nhập trung bình, các nước nghèo có
khả năng trả nợ; IDA chủ yếu hỗ trợ cho hơn 80 nước nghèo nhất thế giới.
Trong quá trình phát triển WB giữ vai trò rất quan trọng trên trường quốc tế, cùng với
các nước thành viên và các tổ chức khác WB đang thực hiện mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ mới cho đến năm 2015 gồm các vấn đề về giáo dục, sức khỏe và vệ sinh.
2. Cơ cấu tổ chức:
2.1.Cơ cấu của Ngân hàng thế giới:
• Hội đồng thống đốc:
Hội đồng thống đốc là cơ quan đại diện cao nhất, mỗi nước thành viên cử đại diện
làm thành viên của Hội đồng thống đốc. Năm 1974 Ủy Ban Phát triển thành lập và có
3
trách nhiệm tư vấn cho Hội đồng thống đốc của IMF và WB về các vấn đề về cấp vốn
cho các nước đang phát triển.
Các chức năng quyền hạn do Hội đồng thống đốc thực hiện chủ yếu là: phê chuẩn
việc kết nạp nước thành viên mới, tăng hoặc giảm cổ phần ngân hàng, đình chỉ tư
cách nước thành viên, giải quyết tranh chấp nảy sinh do các giám đốc điều hành giải
thích khác nhau về hiệp định của ngân hàng, phê chuẩn hiệp định chính thức ký kết
với các tổ chức quốc tế khác, quyết định việc phân phối thu nhập ròng của ngân hàng,
phê chuẩn việc tu chỉnh hiệp định ngân hàng.
Hội đồng thống đốc mỗi năm họp một lần, thường họp chung với Hội đồng thống đốc
của tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế vào tháng 9 hoặc tháng 10 hàng năm. Ngoài hội nghị
hằng năm ra, Hội đồng thống đốc hoặc Ban giám đốc điều hành thấy cần thiết thì có
thể mở hội nghị đặc biệt.
• Ban Giám Đốc điều hành:
Năm Giám Đốc điều hành được bổ nhiệm từ các nước hội viên có số cổ phần lớn như:

Mỹ, Nhật, Đức,Pháp và Anh; những Giám Đốc điều hành còn lại sẽ được bầu
chọn.Nhiệm kỳ của Giám Đốc điều hành là hai năm.
Ban giám đốc điều hành là cơ quan phụ trách tổ chức nghiệp vụ hàng ngày của ngân
hàng, thực hiện chức năng, quyền hạn do Hội đồng thống đốc giao phó. Ban giám đốc
điều hành phụ trách xử lý nghiệp vụ ngân hàng, cho nên nó phải thực hiện mọi quyền
hạn mà Hội đồng quản trị ngân hàng giao cho. Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc
tế quy định Hội đồng giám đốc điều hành có 12 người, uỷ viên Hội đồng giám đốc
điều hành không kiêm nhiệm uỷ viên Hội đồng quản trị.
Các giám đốc điều hành và phó giám đốc điều hành thường trú tại trụ sở ngân hàng.
Ngoài hội nghị thường kỳ hoặc hội nghị chính thức ra, khi cần thiết còn có thể triệu
tập hội nghị bất thường Hội đồng giám đốc điều hành tổ chức hội nghị thảo luận
chuyên đề, thảo luận một cách tự do, đề mục thảo luận liên quan tới các vấn đề dịch
4
vụ tư vấn, viện trợ kỹ thuật và “Báo cáo phát triển thế giới” hằng năm, mỗi năm một
lần.
• Các tổng giám đốc
Các tổng giám đốc của WB đều do đương kim tổng thống Hoa Kỳ chỉ định, và sau đó
thường được Đại hội đồng bầu chọn và không có sự phản đối. Điều này ngược với các
giám đốc của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) luôn là người châu Âu.
• Eugene Meyer (tháng 6 đến tháng 12 năm 1946)
• John J. McCloy (4, 1947–6, 1949)
• Eugene R. Black (1949–1963)
• George D. Woods (1, 1963–3, 1968)
• Robert S. McNamara (4, 1968–6 1981)
• Alden W. Clausen (7,1981–6, 1986)
• Barber B. Conable (7, 1986–8, 1991)
• Lewis T. Preston (9, 1991–5,1995)
• James Wolfensohn (5, 1995–6 2005)
• Paul Wolfowitz (6, 2005-6, 2007)
• Robert Zoellick (6, 2007-6, 2012)

• Jim Yong Kim [7,2012 -)
• Phó tổng giám đốc:
Nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (tên gọi đầy đủ của chức vụ này là "Phó
tổng giám đốc phụ trách phát triển và kinh tế học, nhà kinh tế trưởng") là cấp bậc
quản lý cao nhất về chuyên môn trong Ngân hàng Thế giới. Người mang chức vụ này
là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất tới kinh tế thế giới, và thường là
5
những học giả kinh tế xuất chúng mới được mời giữ chức vụ này. Chức vụ này bắt
đầu có từ năm 1982.
• Anne Krueger - giai đoạn 1982-1986
• Stanley Fischer - 1988-1990
• Lawrence Summers - 1991-1993
• Joseph E. Stiglitz - 1997–2000
• Nicholas Stern - 2000–2003
• François Bourguignon - 2003–nay
• Chủ tịch:
Chủ tịch do BGĐĐH lựa chọm với nhệm kỳ 5 năm; Chủ tịch tham gia các cuộc họp
với Hội đồng thống đốc và Ủy Ban Phát triển; phụ trách về nhân sự của IBRD và
IDA, chủ trì các cuộc họp của BGĐĐH; duy trì mối liên hệ với các nước thành viên,
các GĐĐH, các cơ quan thông tin và các tổ chức khác; hỗ trợ cho Chủ tịch là các
Tổng giám đốc.Chủ tịch Ngân hàng thế giới từ ngày thành lập, năm 1946, tới nay đều
là người Mỹ.
Chức năng chủ yếu của Ngân hàng thế giới là huy động vốn của một số nước phương
Tây để trợ giúp cho các quy hoạch và hạng mục ưu tiên trọng điểm của các nước
nghèo đang phát triển. Vì vậy, ngân hàng còn có hai phó chủ tịch cao cấp, một người
quản công tác tài vụ của ngân hàng, một người chủ quản công tác nghiệp vụ của ngân
hàng.
• Cán bộ của nhóm WB:
6
Khoảng hơn 10.000 nhân viên từ các quốc gia khác nhau làm việc tại trụ sở chính tại

Washington D.C và hàng ngàn nhân viên làm việc tại các văn phòng đại diện ở các
nước thành viên. WB có hơn 40 văn phòng đặt tại các nước. WB có quan hệ chặt chẽ
với IMF.
Nhiệm vụ chủ yếu của các văn phòng đại diện này là phối trợ các nước khu vực sở tại
lựa chọn và chuẩn bị các dự án cần ngân hàng cho vay vốn. Ngoài ra, Ngân hàng thế
giới còn cử đoàn đại diện không thường trú tại năm nước Bănglađét, ấn Độ,
Inđônêxia, Pakixtan, Arập Xêút; đại diện thường trú tại thủ đô 20 nước: Cabun
(Apganixtan), Lapaxơ (Bôlivia), Bugiumbara (Burunđi), Yaunđê (Camơrun), Bôgôta
(Côlômbia), Ađiabêba (Êtiôpia), Acra (Gana), Bamacô (Mali), Cátmandư (Nêpan),
Lagốt (Nigiêria), Lima (Pêru), Kigari (Ruanđa), Đaca (Xênêgan), Môgađixiô
(Xômali), Côlômbô (Xrilanca), Khắc tum (Xuđăng), Đaét Xalam (Tandania),
Uygađugu (Thượng Vonta), Kinxaxa (Daia) và Luxaca (Dămbia). Nhiệm vụ chung
của các đoàn đại diện và của các đại diện thường trú này là xúc tiến những công việc
giúp đỡ đặc biệt có liên quan tới các dự án của các chính phủ vay vốn của Ngân hàng
thế giới.
Ngoài việc tiếp xúc với các chính phủ hữu quan thông qua các văn phòng đại diện,
các phái đoàn hoặc đại diện thường trú, Ngân hàng thế giới còn giữ mối liên hệ
thường xuyên với các chính phủ các nước hữu quan thông qua các giám đốc điều
hành thường trú của Ngân hàng.
2.2. Tổ chức của WB:
Nhóm Ngân hàng Thế giới bao gồm năm tổ chức tài chính thành viên, đó là Ngân
hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, Hội Phát triển Quốc tế, Công ty Tài chính Quốc
tế, Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư, và Cơ quan Đảm bảo Đa
phương.
• Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD): được chính thức thành lập ngày
27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài chính cho các nước Tây Âu để họ tái thiết
7
kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho phát triển kinh tế ở các nước
nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế, IBRD cấp tài chính cho các
nước đang phát triển không nghèo.

• Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): được thành lập năm 1960 chuyên cấp tài chính
cho các nước nghèo.
• Tổng công ty Tài chính Quốc tế (IFC): thành lập năm 1956 chuyên thúc đẩy đầu
tư tư nhân ở các nước nghèo.
• Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID): thành lập năm 1966
như một diễn đàn phân xử hoặc trung gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà đầu tư
nước ngoài với nước nhận đầu tư.
• Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA): thành lập năm 1988 nhằm thúc đẩy
FDI vào các nước đang phát triển.
3. Chức năng, vai trò của WB:
3.1.Chức năng của WB:
Chức năng của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện.
IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại (hiện
WB có 188 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng được vay WB.
Cá nhân và công ty không được WB cho vay. Chính phủ của những nước đang phát
triển nhưng có thu nhập quốc dân trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của
IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn lãi suất mà WB đã đi vay một chút.
Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305
USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của IDA. Các khoản vay sẽ
không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm.
8
Trong hai thập kỳ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá trị
các khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao thông vận
tải.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan trọng
nhất, song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục, y tế, dinh
dưỡng,kế hoạch hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ. Các hoạt động của IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến giúp đỡ người
nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài chính lẫn kỹ thuật.
Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRD và IDA bắt

đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các nước đang phát
triển.
Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu hiện này của IBRD và
IDA.
IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là
vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với
các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án.
MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để
các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
3.2. Vai trò của WB:
WB huy động vốn từ các quốc gia thành viên phát triển để hỗ trợ cho các nước nghèo,
đang phát triển vay lại , giúp các nước này xóa đói, giảm nghèo, ổn định kinh tế, giáo
dục, y tế, môi trường.Phát triển hệ thống an sinh xã hội trên thế giới thông qua hoạt
động:
Thiết kế và tài trợ cho các dự án phát triển;
Hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn về chính sách và các báo cáo phân tích;
Điều phối viện trợ.
9
Các hỗ trợ dưới các hình thức cho vay ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của IDA cho
các quốc gia đang phát triển chiếm vai trò chủ đạo giữa các nước này với nhóm WB.
Bên cạnh hỗ trợ về tài chính, vai trò tư vấn về chính sách để thực hiện thành công
Chương trình tín dụng điều chỉnh cơ cấu và các chương tín dụng hỗ trợ giảm nghèo
của WB được đánh giá rất cao. Với vị trí quan trọng trên trường quốc tế, WB đã làm
tốt vai trò điều phối và kêu gọi tài trợ để các nước đang phát triển đẩy mạnh sự tăng
trưởng kinh tế qua đó tăng uy tín của các nước này trong cộng đồng tài chính quôc tế,
thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhóm ngân hàng thế giới mang một sứ mệnh lớn là đấu tranh chống đói nghèo trên
toàn thế giới thông qua hình thức là cung cấp vốn và kiến thức chuyên môn cho chính
phủ các nước đang phát triển
4. Hoạt động của WB:

4.1.Hoạt động của WB trên thế giới:
Trong quá trình hoạt động, WB đã tài trợ cho trên 6.000 dự án phát triển ở khoảng
140 nước trên thế giới với hơn 300 tỷ đôla, chủ yếu là các dự án đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế và giảm đói nghèo ở các nước Đông Á, tăng sản lượng lương thực ở
Nam Á, điều trị y tế và cải thiện cơ bản giáo dục ở Châu Phi, giúp giải quyết khủng
hoảng nợ những năm 1980 ở Mỹ La Tinh, và nhiều dự án khác trên thế giới.
Nỗ lực của WB là đấu tranh chống đói nghèo và thúc đẩy phát triển và ổn định về
kinh tế, giáo dục và các mặt an sinh xã hội. Trong những năm qua, WB đã giúp tăng
tỷ lệ biết chữ ở Ấn Độ, bảo vệ rừng nhiệt đới ở Brazil, chống HIV/AIDS ở các nước
Châu Phi, phục hồi hệ sinh thái ở Croatia và tăng quyền tự chủ cho người dân nông
thôn ờ Indonexia nhằm xây dựng và thực thi các dự án phát truển cộng đồng.
Trường hợp điển hình về hoạt động của WB trong thời gian qua:
Brazil: Bảo vệ rừng nhiệt đới Amazon
10
Kiềm chế sự suy thoái rừng trong một khu vực nhất định thuộc rừng nhiệt đới
Amazon, nỗ lực này hiện phát triển thành kế hoạch bảo vệ toàn bộ vùng Amazon.
Bang thuần nông Mato Grosso với diện tích gần 91 triệu hecta và hơn 2 triệu dân sinh
sống, là nơi rừng bị tàn phá nhiều trong thời gian qua chủ yếu là do các hoạt động phá
rừng, sử dụng đất bất hợp lý, nạn cháy rừng.
Để giải quyết tình trạng này, dự án chính sách bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đã hỗ trợ
hệ thống kiểm soát môi trường qua vệ tinh, giúp nâng cao hiệu quả theo dõi, kiểm
soát mức độ phá rừng. Dự án này là một phần chương trình bảo vệ rừng nhiệt đới
Brazil, với sự hợp tác của chính phủ Brazil, các tô chức xã hội, nhà tài trợ quốc tế và
WB.
Nhờ sự thành công tại Mato Grosso, Brazil quyết định mở rộng chương trình ra toàn
bộ "Vòng cung phá rừng"- khu vực ưu tiên trong số ba khu vực vùng Amazon.
Năm 2002, NHTG kết hợp với Tổ chức động vật hoang dã thế giới và chính phủ
Brazil đưa ra chương trình bảo vệ khu vực Amazon, đây là một sáng kiến 10 năm
nhằm tăng gấp ba lần diện tích rừng nhiệt đới Amazon được bảo vệ.
4.2.Hoạt động của WB tại Việt Nam:

Năm 1978, WB cho Việt Nam vay 60 triệu USD thực hiện dự án Thủy Lợi Dầu
Tiếng. Tháng 1 năm 1985, IMF và WB đình chỉ quyền vay vốn do nợ quá hạn. Sau
thời gian gián đoạn, năm 1993 với sự nỗ lực và thực hiện cải cách cùng sự ủng hộ của
các nhà tài trợ quốc tế, quan hệ tín dụng của Việt Nam và WB được nối lại.
Năm 1994, WB chính thức mở văn phòng đại diện tại Hà Nội. Nhờ những thành tựu
phát triển và cải cách, Việt Nam đang từng bước trở thành nước nhận vốn vay/viện trợ
lớn nhất của WB. Nguồn vốn IDA cho Việt Nam kể từ 1993 tới nay liên tục tăng,
trong 2 năm tới IDA cho Việt Nam dự kiến sẽ tăng mạnh, năm 2007 khoảng 849,4
triệu USD, 2008 có thể đạt 1.068 triệu USD tuỳ thuộc vào tình hình tiếp nhận và thực
hiện nguồn vốn IDA của phía Việt Nam. Chủ tịch WB đã chính thức tuyên bố Việt
11
Nam đủ điều kiện tiếp nhận nguồn IBRD, điều này khẳng định sự hợp tác ngày càng
tăng cường giữa WB và Việt Nam.
Có 36 dự án vốn vay IDA với tổng trị giá 3.850,6 triệu $ đang được thực hiện. Các
dự án của WB chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: năng lượng (25%), nông nghiệp
(23%), nâng cấp đô thị (15%), giao thông (14%), quản lý kinh tế (8%), giáo dục (7%),
y tế (6%), Công nghệ thông tin (2%)
Về tiến độ giải ngân, mặc dù một số dự án đã có những cải thiện nhưng nhìn chung tỷ
lệ giải ngân còn thấp so với với khu vực. Tính trong tổng số hơn 6 tỷ USD tổng cam
kết tài trợ của WB từ trước tới nay, Việt Nam hiện mới chỉ giải ngân được hơn 3 tỷ
USD.
Về hiệu quả thực hiện, theo đánh giá của WB, các dự án thực hiện nhìn chung có hiệu
quả. Năm 2004 Việt Nam được đánh giá là 1/3 nước đứng đầu về hiệu quả thực hiện
dự án, đặc biệt khi xét tới những tác động đem lại của dự án tới giảm nghèo, cải cách
chính sách và thể chế. Sự hỗ trợ của WB cho Việt Nam đã mang lại những hiệu quả
rất tích cực, một số dự án sử dụng vốn vay IDA sau khi hoàn thành đã bắt đầu phát
huy hiệu quả như dự án Phục hồi và phát triển ngành điện, dự án phục hồi Quốc lộ 1
đoạn Hà Nội – Vinh và TP. HCM- Cần Thơ, Hiện đại hoá hệ thống thanh toán Ngân
hàng, Chương trình tín dụng giảm nghèo (PRSC),
Về hoạt động hỗ trợ của WB trong giai đoạn 2007 – 2010, Chiến lược hỗ trợ quốc gia

(CAS) đã được chuyển thành Chiến lược đối tác quốc gia giai đoạn 2007-2011 (CPS
2007-2011) thể hiện sự hướng tới một tầm cao mới trong quan hệ hợp tác giữa WB và
Việt Nam. Nội dung của Chiến lược nhìn chung gắn kết chặt chẽ với Kế hoạch phát
triển Kinh tế – xã hội 2006-2010 với mục tiêu hỗ trợ Chính phủ thực hiện thành công
các mục tiêu phát triển của mình, đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập
trung bình vào năm 2010.
Dự án và chương trình của Việt Nam, trường hợp điển hình về dự án của WB tại Việt
Nam:
12
Dự án tài chính nông thôn là điển hình sử dụng vốn ODA hiệu quả
Dưới sự chủ trì của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu mối thực hiện
Dự án Tài chính Nông thôn III (TCNT III) đã tổ chức hội nghị đánh giá kết thúc Dự
án TCNT vào ngày 21/7 tại Hà Nội nhằm tổng kết các thành công và rút kinh nghiệm
thực tiễn triển khai dự án này, đồng thời nhìn nhận lại cả quá trình triển khai thực hiện
Dự án chuỗi TCNT do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ cho Việt Nam từ năm 1996.
Dự án TCNT III nằm trong chuỗi 3 dự án TCNT có tổng trị giá 548 triệu USD, trong
đó riêng Dự án TCNT III là 200 triệu USD do WB tài trợ, và dự án này được thực
hiện trong 5 năm từ năm 2009. Tính đến ngày 31/1/2013, toàn bộ khoản tín dụng 200
triệu USD của WB đã được giải ngân hoàn toàn, góp phần tăng cung ứng nguồn vốn
trung, dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tạo công
ăn việc làm, gia tăng thu nhập cho người nông dân và doanh nghiệp nông thon, góp
phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam,
hỗ trợ đắc lực chương trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ Việt Nam.
Hơn 135.000 người dân và doanh nghiệp khu vực nông thôn, trong đó có hơn 70.000
hộ gia đình nghèo đã tiếp cận được nguồn vốn của dự án. Dự án TCNT III đã tạo ra
140.000 việc làm mới ơ khu vực nông thôn. Bình quân khoảng 65 triệu đồng đầu tư
tạo ra 1 việc làm mới cho thấy nguồn vốn dự án được đầu tư vào phân khúc thị trường
có hệ số tạo việc lam cao.
Trong khuôn khổ Dự án TCNT III, trên 500 khóa đào tạo với gần 17.700 lượt cán bộ

định chế tài chính, 9 gói thầu tư vấn quốc tế lớn góp phần quan trọng giúp các bên
tham gia tăng cường năng lực, hoạt động hiệu quả.
Theo đánh giá, nguồn vốn từ dự án TCNT III nói riêng và chuỗi dự án TCNT nói
chung sẽ tiếp tục được cho vay đến năm 2033 sẽ tạo ra tổng mức đầu tư xã hội ước dự
kiến lên gần 5 tỷ USD từ các qũy quay vòng.
13
WB đã hỗ trợ vốn cho tổng số 129 dự án tại Việt Nam với tốn số vốn gần 16 tỷ USD.
Gần đây, lãnh đạo WB đã cam kết sẽ tiếp tục tài trợ thêm vốn ODA với trị giá 4 tỷ
USD đến năm 2017.
Tính đến thời điểm tháng 2/2015 Ngân hàng Thế giới đã cấp gần 19,6 tỉ USD gồm
viện trợ không hoàn lại, cho vay và vốn ưu đãi cho Việt Nam. Danh mục dự án Việt
Nam hiện nay gồm 45 dự án IDA/IBRD và 5 dự án quỹ tín thác riêng rẽ với tổng cam
kết thuần là 8.258 tỉ USD. Các khoản tín dụng này tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, bao gồm giao thông và phát triển đô thị, phát triển nông thôn, năng lượng, quản
lý tài nguyên nước, cải cách hành chính công, tài chính, giáo dục, y tế và dịch vụ xã
hội, và môi trường.
5. Kết luận:
Ngân hàng Thế giới (World Bank) là một tổ chức tài chính quốc tế nơi cung cấp
những khoản vay nhằm thúc đẩy kinh tế
[
cho các nước đang phát triển thông qua các
chương trình vay vốn. Ngân hàng Thế giới tuyên bố mục tiêu chính của mình là giảm
thiểu đói nghèo.
Với uy tín và những đóng góp của WB đối với sự phát triển về mặt kinh tê - xã hội,
nhiều nước đang phát triển đã có những bước thay đổi đáng kể, cuộc sống của người
dân được nâng cao và cải thiện đáng kể. Trong đó Việt Nam là một trong những nước
nhận được sự hỗ trợ quan trọng từ WB, hoạt động hỗ trợ của WB cho Việt Nam trong
những năm gần đây đang ngày càng tiến tới sự hài hoà và đơn giản hoá thủ tục với
Việt Nam. Như đã đề cập ở trên, Chiến lược của WB phản ánh sự phù hợp và gắn kết
với Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội 5 năm 2006-2010 của Việt Nam (SEDP 2006-

2010).
14
WB đã cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập Nhóm quan hệ đối tác về hài hoà quy trình,
thủ tục ODA và nâng cao hiệu quả viện trợ (PGAE). Thông qua các cuộc họp định kỳ
hàng tháng và hàng loạt hoạt động triển khai, PGAE đã đề xuất những cách tiếp cận
mới trong hài hoà thủ tục, tạo ra sự đồng thuận trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ,
hoàn thiện khung khổ pháp lý về ODA. WB cùng các nhà tài trợ cũng đã hỗ trợ Chính
phủ hoàn thiện các văn bản pháp quy về ODA như Luật đấu thầu, Nghị định mới về
đền bù, di dân, tái định cư và giải phóng mặt bằng; Nghị định Nghi dinh
131/2006/ND-CP ngày 09/11/06; Quy chế về tổ chức và hoạt động của các Ban quản
lý Chương trình, dự án ODA.
15

×