BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRỊNH THỊ TÚ
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TRỨNG CỦA GÀ ISA BROWN
VÀ AI CẬP NUÔI TẠI XÃ YÊN TRƯỜNG, HUYỆN YÊN ĐỊNH,
TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI , NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRỊNH THỊ TÚ
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TRỨNG CỦA GÀ ISA BROWN
VÀ AI CẬP NUÔI TẠI XÃ YÊN TRƯỜNG, HUYỆN YÊN ĐỊNH,
TỈNH THANH HÓA
CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. ĐẶNG VŨ BÌNH
TS. ĐỖ ĐỨC LỰC
HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn
toàn trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Trịnh Thị Tú
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân tôi luôn
nhận được sự giúp đỡ tận tình chu đáo của thầy hướng dẫn GS.TS Đặng Vũ
Bình, TS. Đỗ Đức Lực trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy GS.TS Đặng Vũ Bình,
TS. Đỗ Đức Lực và các thầy cô giáo ở Bộ môn Di truyền – Giống vật nuôi -
Khoa Chăn nuôi, TS. Đặng Thúy Nhung – Bộ môn Dinh Dưỡng – Thức ăn –
Khoa Chăn nuôi – Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
UBND huyện, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Yên Định đã tạo điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình học và hoàn thành luận văn.
Sự quan tâm của các nhà khoa học, các bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ và
góp ý cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Bà Nguyễn Thị Vân và cán bộ kỹ thuật trang trại xã Yên Trường huyện
Yên Định tỉnh Thanh Hóa đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập.
Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành các thầy cô giáo đã giúp
chúng tôi nâng cao trình độ trong quá trình học tập.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè,
đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn
Trịnh Thị Tú
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
MỤC LỤC
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục hình viii
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích của đề tài 2
3. Ý nghĩa của đề tài 3
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của các vấn đề nghiên cứu 4
1.1.1. Tính trạng số lượng 4
1.1.2. Khả năng sinh sản của gia cầm mái 5
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia cầm 15
1.2. Một số hiểu biết về gà ISA Brown và gà Ai Cập 17
1.2.1. Nguồn gốc, đặc điểm, tính năng sản xuất của gà ISA Brown 17
1.2.2. Nguồn gốc, đặc điểm, tính năng sản xuất của gà Ai Cập 18
1.3. Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội huyện Yên Định
tỉnh Thanh Hóa 19
1.3.1. Điều kiện tự nhiên 19
1.3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 19
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 20
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 20
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 22
CHƯƠNG 2 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Vật liệu, địa điểm, thời gian nghiên cứu 26
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu 26
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
2.1.3. Thời gian nghiên cứu 26
2.2. Nội dung nghiên cứu 26
2.2.1. Các giai đoạn nuôi 26
2.2.2. Các điều kiện nghiên cứu 27
2.3. Phương pháp nghiên cứu 31
2.3.1. Đối với gà giai đoạn từ 1 đến 20 tuần tuổi 32
2.3.2. Đối với gà mái giai đoạn sinh sản 32
2.3.3. Hiệu quả sử dụng thức ăn 34
2.3.4. Tính toán giá thành chăn nuôi gà hậu bị, hiệu quả chăn nuôi gà mái đẻ 35
2.4. Phương pháp xử lý số liệu 36
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 37
3.1. Tỷ lệ nuôi sống, khối lượng, giá thành nuôi gà hậu bị ISA Brown và gà
Ai Cập 37
3.1.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà hậu bị giai đoạn từ 1- 20 tuần tuổi 37
3.1.2. Kết quả khảo sát khối lượng 38
3.1.3. Tính toán giá thành nuôi gà mái hậu bị ISA Brown và Ai Cập 41
3.2. Khả năng sinh sản của gà ISA Brown, Ai Cập 42
3.2.1. Tuổi thành thục sinh dục của gà ISA Brown, Ai Cập 42
3.2.2. Khối lượng cơ thể gà ISA Brown, Ai Cập ứng với từng tỷ lệ đẻ 44
3.2.3. Tỷ lệ giảm đàn của gà mái đẻ 46
3.2.4. Tỷ lệ đẻ, năng suất và sản lượng trứng 48
3.2.5. Tỷ lệ trứng dập vỡ, dị hình 51
3.2.6. Hiệu quả sử dụng thức ăn của gà ISA Brown, Ai Cập 54
3.2.7. Chất lượng trứng 59
3.2.8. Hiệu quả chăn nuôi gà đẻ trứng 62
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 67
1. Kết luận 67
2. Kiến nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
Phụ lục: 74
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CS : Cộng sự
HQSDTĂ : Hiệu quả sử dụng thức ăn
Hu : Đơn vị Haugh
g : gam
KL : Khối lượng
NTM : Nông thôn mới
TA : Thức ăn
TB : Trung bình
TTTĂ : Tiêu tốn thức ăn
XDNTM : Xây dựng nông thôn mới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Tên bảng Trang
3.1 Tỷ lệ nuôi sống của gà mái hậu bị từ 1-20 tuần tuổi(%) 37
3.2 Khối lượng gà mái hậu bị 39
3.3 Tính giá thành nuôi gà mái hậu bị (đồng) 42
3.4 Tuổi thành thục sinh dục 43
3.5 Khối lượng gà mái tại các thời điểm đẻ trứng (g) 45
3.6 Tỷ lệ lệ giảm đàn của gà mái đẻ(%) 47
3.7 Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng tích lũy 48
3.8 Tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình (%) 52
3.9 Tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 quả trứng 55
3.10 Chi phí thức ăn cho sản xuất trứng và giá bán trứng 58
3.11 Các chỉ tiêu chất lượng trứng gà ISA Brown, Ai Cập 59
3.12 Hạch toán thu chi gà mái đẻ ISA Brown 63
3.13 Hạch toán thu chi gà mái đẻ Ai Cập 65
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
DANH MỤC HÌNH
STT Tên hình Trang
3.1 Tỷ lệ nuôi sống của gà mái hậu bị 38
3.2 Khối lượng gà hậu bị ISA Brown và Ai Cập 40
3.3 Khối lượng gà mái ở các thời điểm đẻ trứng 46
3.4 Tỷ lệ đẻ của gà ISA Brown và Ai Cập 50
3.5 Năng suất trứng qua các tuần tuổi 51
3.6 Tỷ lệ trứng dập vỡ 53
3.7 Tỷ lệ trứng dị hình 53
3.8 Tiêu tốn thức ăn qua các tuần đẻ 56
3.9 Khối lượng lòng đỏ 60
3.10 Tỷ lệ lòng đỏ 61
3.11 Màu sắc lòng đỏ 61
3.12 Hạch toán thu chi gà mái đẻ ISA Brown 64
3.13 Hạch toán thu chi gà mái đẻ Ai Cập 66
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cùng với chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm là nghề truyền thống lâu đời. Ở
nước ta chăn nuôi gia cầm đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế nông hộ,
chiếm 19% tổng thu nhập nông hộ, xếp thứ hai sau chăn nuôi lợn. Theo số liệu
thống kê 1/10/2013 tổng đàn gia cầm cả nước đạt 314,75 triệu con, tăng 2,04% so
với cùng kỳ, trong đó đàn gà đạt 231,76 triệu con, tăng 3,6% so với năm 2012
(Tổng cục thống kê, 2013). Do nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, nhu
cầu đời sống nhân dân ngày càng cao. Vì vậy, phát triển chăn nuôi gia cầm không
chỉ để thoả mãn về nhu cầu về thực phẩm mà còn phải đáp ứng được nhu cầu về
chất lượng sản phẩm.
Chăn nuôi gia cầm chiếm vị trí quan trọng trong chương trình cung cấp
protein động vật cho con người. Các sản phẩm trứng và thịt gia cầm có giá trị
dinh dưỡng cao, tương đối đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng. Trứng gia
cầm có giá trị dinh dưỡng cao nhất trong tất cả các sản phẩm chăn nuôi, trong
trứng có tới 12,5% protein, thịt gia cầm có 22,5% protein, trong khi đó ở thịt bò
là 20% protein và ở thịt lợn là 18% protein.
Trên thế giới, các nhà khoa học đánh giá rất cao vai trò của trứng trong
dinh dưỡng. Cùng với sữa, lượng trứng tiêu thụ bình quân trên đầu người là một
trong những chỉ số quan trọng đánh giá mức sống của người dân trong một xã hội
văn minh. Hiện nay, chỉ tiêu này của các nước phát triển là 280 - 300
quả/người/năm, còn ở nước ta, năm 2012 tiêu thụ trứng bình quân đầu người đạt
82,2 quả, năm 2013 tăng lên là 86,3 quả trứng/đầu người (Tổng cục thống kê,
2013). Nhu cầu sử dụng trứng trong nước và trên thế giới không ngừng tăng cao;
tuy vậy, sản lượng trứng năm 2012 ở nước ta mới chỉ đạt 7,299 tỷ quả, năm 2013
là 7,75 tỷ quả. Theo Nghị quyết số 10/2008/NQ – TTg, ngày 16/01/2008 của
Chính phủ, đến năm 2015 nước ta phấn đấu sản lượng trứng đạt 11 tỷ quả và năm
2020 đạt khoảng 14 tỷ quả. Mức tiêu thụ trứng trên đầu người đạt 116 quả /năm
2015 và đến năm 2020 đạt 140 quả/người/năm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
Vì có vai trò to lớn như vậy nên sản xuất trứng chiếm một vị trí quan
trọng trong ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng. Sản xuất
trứng đang là hoạt động rất sôi động trong ngành chăn nuôi gia cầm nhằm tạo ra
sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đời sống xã hội.
Tiềm năng tiêu thụ trứng còn rất lớn do mức tiêu thụ trứng còn rất thấp
chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của nước ta. Để đạt được mục tiêu kế
hoạch đề ra những năm gần đây được sự quan tâm của Nhà nước đưa những
giống có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất đồng thời áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nên năng suất, chất lượng đàn gia cầm ngày
càng được nâng lên, mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Nghề chăn
nuôi gà từng bước mở rộng, từ mô hình sản xuất đơn giản với những giống gà
ban đầu, tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp đến những trang trại chăn nuôi gà
công nghiệp và bán công nghiệp quy mô vừa và lớn. Nhà nước ta đã cho nhập
một số giống gia cầm có năng suất, chất lượng sản phẩm tốt như: gà Lương
Phượng, Leghorn, Goldline, Ai Cập, ISA Brown… nhằm đáp ứng được nhu cầu
sản xuất và tiêu dùng của người dân. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
chăn nuôi gà ISA Brown và Ai Cập đã được phổ biến khá rộng rãi, tuy nhiên
chưa có báo cáo kết quả nghiên cứu nào về khả năng sản xuất của 2 giống gà
này nuôi tại trang trại. Để góp phần đánh giá đầy đủ khả năng sản xuất của gà
ISA Brown, Ai Cập và lựa chọn phương pháp chăn nuôi hiệu quả, an toàn dịch
bệnh trong trang trại, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khả năng sản
xuất trứng của gà ISA Brown và Ai Cập nuôi tại xã Yên Trường, huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hóa”.
2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, tính toán giá thành của gà mái ISA
Brown và Ai Cập hướng trứng thương phẩm giai đoạn gà hậu bị nuôi tại xã Yên
Trường huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá khả năng sinh sản và hiệu quả chăn nuôi gà mái ISA Brown và
Ai Cập sinh sản lấy trứng thương phẩm nuôi tại xã Yên Trường huyện Yên Định
tỉnh Thanh Hóa.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
- Trên cơ sở đó khuyến cáo cho người nông dân cách lựa chọn con giống,
hướng nuôi con nào cho hiệu quả kinh tế cao nhất trong điều kiện chăn nuôi trang trại.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Nghiên cứu đánh giá một cách tương đối có hệ thống về một số đặc điểm
sinh trưởng, phát triển và khả năng sản xuất trứng của gà ISA Brown và Ai Cập nuôi
tại xã Yên Trường huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa.
- Cung cấp cho cán bộ quản lý và người chăn nuôi ở địa phương Thanh Hóa
và các tỉnh lân cận về khả năng sản xuất trứng của gà ISA Brown và Ai Cập nuôi tại
trang trại để làm tài liệu tham khảo.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của các vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tính trạng số lượng
Các tính trạng sản xuất của vật nuôi phần lớn là tính trạng số lượng. Theo
Nguyễn Văn Thiện (1995), tính trạng số lượng là những tính trạng mà ở đó có sự
sai khác nhau giữa các cá thể là sự sai khác nhau về mức độ cao hơn, là sự sai
khác về chủng loại.
Tính trạng số lượng còn được gọi là tính trạng đo lường vì sự nghiên cứu
chúng sử dụng các phép đo lường, như mức độ tăng khối lượng của con vật, kích
thước các chiều đo cơ thể, khối lượng trứng… hay tính trạng số lượng được xác
định bằng cách đếm như số trứng đẻ ra trong năm, số trứng có phôi, số gà con nở
ra, số gà con loại I.
Giá trị đo lường của tính trạng số lượng trên một cá thể được gọi là giá trị
kiểu hình của cá thể đó, các giá trị có liên hệ với kiểu gen là giá trị kiểu gen và giá trị
có liên hệ với môi trường, là sai lệch môi trường.
P = G + E
Trong đó:
P: là giá trị kiểu hình
G: là giá trị kiểu gen
E: là sai lệch môi trường
Giá trị kiểu gen được mô tả theo mô hình sau:
G = A + D + I
Trong đó:
G: là giá trị kiểu gen
A: là giá trị cộng gộp
D: là sai lệch do tác động trội – lặn
I: sự tương tác sai lệch do tương tác các gen
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
Giá trị cộng gộp hay giá trị giống là tổng hiệu ứng các gen có trong các
locus, giá trị cộng gộp còn gọi là giá trị giống.
Sai lệch trội - lặn là sai lệch được sản sinh ra do tác động qua lại giữa các
gen cùng alen ở trong cùng một loocus, đặc biệt là các alen dị hợp tử.
Sai lệch tương tác giữa các gen (sai lệch át gen) khi kiểu gen là do từ 2
loocus trở lên cấu tạo thành lúc đó giá trị kiểu gen có thêm một sai lệch do tương
tác của các gen không cùng một loocus. Ngoài kiểu gen, môi trường có ảnh hưởng
lớn đến tính trạng số lượng và được chia làm 2 sai lệch do môi trường E
g
và E
s
.
E
s
: Sai lệch môi trường đặc biệt là sai lệch do các nhân tố môi trường có
tính chất không thường xuyên và cục bộ tác động riêng rẽ lên từng cá thể trong
cùng một nhóm vật nuôi. Tóm lại, khi một kiểu hình của một cá thể được cấu tạo
từ 2 lôcus trở lên thì giá trị kiểu hình được biểu thị bằng:
P= A + D + I + E
g
+ E
s
Qua việc phân tích trên ta thấy muốn nâng cao năng suất vật nuôi ta cần phải:
- Tác động về mặt môi trường (G)
- Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc
- Tác động hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng lai giữa các giống hoặc dòng
- Tác động về môi trường E bằng cải tiến điều kiện chăn nuôi như thức
ăn, thú y, chuồng trại, sinh thái xung quanh khu vực nuôi…
1.1.2. Khả năng sinh sản của gia cầm mái
Sinh sản là quá trình duy trì nòi giống tạo ra thế hệ sau. Sự phát triển hay
hủy diệt của một loài trước tiên phụ thuộc khả năng sinh sản của loài đó.
1.1.2.1. Sinh lý sinh sản của gia cầm mái
Gia cầm là động vật đẻ trứng, con mái thoái hóa buồng trứng bên phải, chỉ
còn lại buồng trứng và ống dẫn trứng bên trái tồn tại và phát triển. Âm hộ gắn
liền với tử cung và cùng nằm chung lỗ huyệt đảm bảo 3 chức năng chứa phân,
nước tiểu và cơ quan sinh dục. Khi giao phối gai giao cấu của con trống áp sát
vào lỗ huyệt của con mái và phóng tinh vào âm hộ.
Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào loại gia cầm, sự hình
thành buồng trứng và tuyến sinh dục xảy ra vào thời kì đầu của phát triển phôi; chức
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
năng chủ yếu của buồng trứng là tạo trứng. Quá trình phát triển của tế bào trứng
trải qua 3 thời kỳ tăng sinh, sinh trưởng và chín; trong giai đoạn phát triển lúc
đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một tầng tế bào, tầng tế bào này phát triển
thành nhiều tầng và tiến dần tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi là follicum,
bên trong follicum có một khoang hở chứa đầy dịch, bên ngoài Follicum trống
rỗng như một cái túi; trong thời kì đẻ trứng, nhiều Follicum chín dần làm thay
đổi hình dạng buồng trứng trông giống như hình chùm nho. Sau thời kỳ để trứng,
buồng trứng trở lại hình dạng ban đầu, các Follicum trứng vỡ ra quả trứng chín
chuyển ra ngoài cùng với dịch của Follicum và rơi vào phễu ống dẫn trứng, sự
rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự thành thục sinh dục.
Buồng trứng nằm ở phía trái của xoang bụng, về phía trước và hơi thấp hơn
thận trái, được đỡ bằng các nếp gấp của màng bụng từ trên xuống. Nếp gấp khác của
màng bụng nối nó với ống dẫn trứng. Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ
thuộc vào trạng thái chức năng và tuổi gia cầm. Buồng trứng có chức năng tạo lòng
đỏ, các ống dẫn trứng có chức năng tiết ra lòng trắng đặc, lòng trắng loãng, màng
vỏ, vỏ và lớp keo mỡ bao ngoài và vỏ trứng. Thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn
trứng từ 20 – 24h, tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc biệt là lòng đỏ.
Lòng đỏ được tạo thành trước khi đẻ 9 – 10 ngày, trong thời kỳ sinh trưởng
lớn dài 4 -13 ngày lòng đỏ chiếm 90 – 95% khối lượng tế bào trứng, thành phần
chính gồm phôt pho lipit, mỡ trung hòa, các chất khoáng và vitamin; tốc độ sinh
trưởng của lòng đỏ không tương quan đến cường độ đẻ trứng. Quá trình hình thành
trứng và rụng trứng là một quá trình sinh lý phức tạp do sự điều khiển của hocmon,
thời gian từ khi đẻ trứng đến khi rụng trứng tiếp theo kéo dài từ 15 – 75 phút.
Sự rụng trứng được tính khi tế bào trứng rời khỏi buồng trứng rơi vào loa
kèn. Sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, nếu gà đẻ trứng vào cuối buổi
chiều (16h) thì sự rụng trứng thực hiện vào buổi sáng hôm sau. Trứng được giữ lại
trong ống dẫn trứng làm đình trệ sự rụng trứng tiếp theo. Sự rụng trứng của gà
thường xảy ra từ 2 giờ đến 14 giờ.
Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc vào các yếu tố: điều kiện nuôi dưỡng, chăm
sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm. Nếu thức ăn kém chất lượng, nhiệt độ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
không khí cao sẽ làm giảm sự rụng trứng và đẻ trứng. Ví dụ, ở Xí nghiệp gà
giống Lương Mỹ, Tam Dương vào mùa nóng (tháng 5 - 7) với nhiệt độ 35 - 40
0
C
thì sức đẻ trứng của gà ISA đã giảm 15 - 20%. Gà nhiễm bệnh cũng hạn chế khả
năng rụng trứng (Lê Huy Liễu và cs., 2003).
1.1.2.2. Cơ chế điều hoà quá trình phát triển và rụng trứng
Các hormon sinh dục của tuyến yên là FSH và LH kích thích sự sinh trưởng
và chín của trứng. Nang trứng tiết ra oestrogen trước khi trứng rụng vừa có tác
dụng kích thích hoạt động của ống dẫn trứng hoặc vừa ảnh hưởng lên tuyến yên ức
chế tiết FSH và LH. Như vậy tế bào trứng phát triển và chín chậm lại làm ngưng
rụng trứng khi tế bào còn trong ống dẫn trứng hoặc tử cung (chưa đẻ).
Đàn gà mái mới đẻ trứng thường có tỷ lệ trứng hai lòng nguyên nhân là do
FSH và LH hoạt động mạnh, kích thích một lúc hai tế bào trứng chín và rụng. LH
chỉ tiết vào buổi tối, từ lúc bắt đầu tiết đến khi rụng trứng khoảng 6 - 8 giờ. Vì
vậy việc chiếu sáng bổ sung vào buổi tối làm chậm tiết LH dẫn đến chậm rụng
trứng từ 3 - 4 giờ. Việc chiếu sáng bổ sung 3 - 4 giờ buổi tối thực chất là để gà đẻ
ổn định và tập trung vào khoảng 8 - 11 giờ sáng. Nếu không đảm bảo đủ thời
gian chiếu sáng 15 - 18 giờ/ ngày thì gà sẽ đẻ cách nhật và giảm năng suất trứng.
Sự điều hoà sự rụng trứng là do yếu tố thần kinh thể dịch ở tuyến yên và
buồng trứng phụ trách. Ngoài ra còn có cả thần kinh cấp cao và vỏ bán cầu đại
não tham gia quá trình này.
1.1.2.3. Cơ chế điều hoà quá trình tạo trứng và đẻ trứng
Kích thích đầu tiên tới sự phát triển hệ thống sinh dục ở gà là các hormon
hướng sinh dục từ tuyến yên, tiếp đó FSH kích thích nang trứng sinh trưởng phát
triển, LH kích thích trứng chín và rụng. Cuối cùng nang trứng tiết oestrogen kích
thích sự phát triển và hoạt động của ống dẫn trứng. Để điều hoà quá trình chín và
rụng, tuyến yên tiết oxytoxin tăng cường co bóp cơ trơn ống dẫn trứng và tử
cung, tiết prolactin ức chế hormon FSH và LH. Sau khi trứng rụng, bao noãn co
lại tiết progesteron duy trì hình thành trứng ở ống dẫn trứng và trạng thái hoạt
động của nó. Vì vậy, để điều chỉnh nhịp nhàng chức năng bộ máy sinh sản phải
nhờ mối liên hệ khăng khít giữa tuyến yên và vùng dưới đồi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
Khả năng đẻ trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: giống, tuổi đẻ, trạng thái sinh
lý, đặc điểm cá thể, điều kiện nuôi dưỡng và ngoại cảnh.
Trong các yếu tố môi trường, ánh sáng có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển
chức năng sinh dục của gia cầm. Dùng ánh sáng nhân tạo bổ sung cho gà đẻ sớm.
Tuy nhiên việc đẻ sớm có điều bất lợi vì gà chưa đạt khối lượng cơ thể, trứng đẻ ra
bé, chu kỳ đẻ sinh học ngắn, kết thúc đẻ sớm dẫn đến năng suất kém.
Vì vậy trong chăn nuôi gia cầm đẻ trứng phải hạn chế thức ăn, ánh sáng để
kéo dài tuổi thành thục về tính và thể vóc ở mức cho phép. Ví dụ gà hướng trứng khi
đạt khối lượng khoảng 1260g đối với gà mái, 1450g đối với gà trống ở 133 ngày
tuổi. Gà đẻ trứng giống thịt như ISA, AA phải nuôi hạn chế thức ăn đến 140 ngày,
khối lượng sống đạt 2150g đối với gà mái, 2500g đối với gà trống sau đó mới cho ăn
tăng để thúc đẻ.
Thực hiện nghiêm ngặt chế độ dinh dưỡng gà hậu bị sẽ nâng cao sức đẻ
trứng của gà đẻ, khối lượng trứng to, chất lượng trứng tốt, thời gian đẻ kéo dài. Ví
dụ gà Leghorn có thể đẻ được 270 quả/ mái/ năm, gà ISA, AA đạt 180 - 185 quả/
mái/ 10 tháng đẻ.
1.1.2.4. Tuổi thành thục sinh dục
Tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu con vật có hoạt động sinh dục và có
khả năng tham gia quá trình sinh sản. Ở gà mái tuổi thành thục sinh dục là tuổi đẻ
quả trứng đầu tiên đối với từng cá thể hoặc lúc tỷ lệ đẻ đạt 5% đối với mỗi đàn
(quần thể) gà (Pingel et al., 1980 dẫn theo Trần Thị Mai Phương 2004). Trong một
đàn gà mái chỉ tiêu này được xác định bằng tuổi đẻ 5% số cá thể trong đàn, tuổi đẻ
quả trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng, thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy
gia cầm đẻ sớm (Khavecman, 1972 dẫn theo Phạm Thị Minh Thu, 1996). Theo
Siegel (1962) khối lượng cơ thể và cấu trúc thành phần cơ thể là những nhân tố ảnh
hưởng đến tính thành thục ở gà màu.
Tuổi thành thục về tính chịu ảnh hưởng của giống và môi trường. Các giống
khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Pingel et al. (1980) (dẫn theo
Trần Thị Mai Phương, 2004) cho rằng, tuổi thành thục sinh dục của gà khoảng 170 -
180 ngày, biến động trong khoảng 15 - 20 ngày. Tuổi đẻ quá trứng đầu của gà Ri
135 - 144 ngày (Nguyễn Văn Thạch, 1996), gà Đông Tảo 157 ngày (Phạm Thị Hoà,
2004), gà Mía là 174 ngày (Nguyễn Văn Thiện và Hoành Phanh, 1999), gà
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
xương đen Thái Hoà Trung Quốc 141 - 144 ngày (Vũ Quang Ninh, 2002). Kết
quả nghiên cứu của Vũ Quang Ninh (2002) cho biết tuổi đẻ quả trứng đầu của gà
Ác Thái Hòa 152- 158 ngày; đạt tỷ lệ 50% lúc 195 – 198 ngày. Phùng Đức Tiến
và cs. (2001) chỉ ra rằng tuổi đẻ đạt tỷ lệ 5% của gà Ai Cập 145 – 160 ngày.
Nguyễn Thị Khanh và cs. (2001), tuổi thành thục sinh dục của gà Tam Hoàng
dòng 882 và Jaangcun lúc 154 và 157 ngày.
Tuổi đẻ sớm hay muộn liên quan chặt chẽ đến khối lượng cơ thể ở một
thời điểm nhất định. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục sinh dục sớm là
ngày, tháng nở của gà con (độ dài của ngày chiếu sáng), khoảng thời gian
chiếu sáng tự nhiên hay nhân tạo, cũng như khối lượng cơ thể. Sự biến động
trong tuổi thành thục sinh dục có thể còn do các yếu tố khác có ảnh hưởng đến
sinh trưởng và phát triển như chăm sóc, quản lý, thú y hay khẩu phần ăn cũng
có ảnh hưởng mạnh đến chỉ tiêu này (Jonhanson, 1972). Khối lượng gà mái thành
thục và khối lượng trứng gà tăng dần qua từng thời điểm đẻ 5% và đẻ đỉnh cao.
1.1.2.5. Năng suất trứng
Năng suất trứng là số trứng một gia cầm mái sinh ra trong một đơn vị thời
gian. Đối với gia cầm đẻ trứng, đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất, phản
ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng
phụ thuộc nhiều vào giống, đặc điểm của cá thể, hướng sản xuất, mùa vụ và dinh
dưỡng
Năng suất trứng có hệ số di truyền không cao, nhưng lại dao động lớn h
2
=
0,12 - 0,3 (Nguyễn Văn Thiện, 1995). Theo Hutt (1946), hệ số di truyền năng suất
trứng của gà Leghorn là 0,09 - 0,22, gà Plymouth là 0,25 - 0,41.
Năng suất trứng của gà Đông Tảo/36 tuần đẻ đạt 67,71 quả/ mái (Nguyễn
Đăng Vang và cs., 1999). Gà Tam Hoàng dòng 882 có năng suất trứng 130,62 -
146,4 quả/ mái/ năm (Trần Công Xuân và cs., 1999). Phùng Đức Tiến và cs.
(2001) nghiên cứu trên gà Ai Cập, công bố năng suất trứng từ 22 - 64 tuần đạt
158,4 quả/ mái.
Gà hướng trứng thường có năng suất trứng rất cao, Nguyễn Huy Đạt
và cs. (1996) cho biết gà Moravia và gà Goldline - 54 thương phẩm cho năng
suất trứng/ mái/ năm đạt tương ứng 242 và 259 - 265 quả.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
Giữa các dòng trong một giống, dòng trống có năng suất trứng cao
hơn dòng mái, Bùi Quang Tiến và cs. (1999), nghiên cứu trên gà Ross - 208
cho biết năng suất trứng/ 9 tháng đẻ của dòng trống đạt 106,39 quả dòng
mái đạt 151,08 quả.
1.1.2.6. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng
- Khối lượng trứng
Khối lượng trứng là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng,
khối lượng trứng của các loài khác nhau thì khác nhau, trứng gà 55 – 56g, trứng
vịt 90 – 110g, trứng gà tây 110g, trứng ngỗng 110 – 180g. Khối lượng trứng
cũng là một chỉ tiêu để đánh giá về hiệu quả trong chăn nuôi gà lấy trứng, đồng
thời khối lượng trứng cũng phản ánh sinh lực, sức sống của gia cầm non. Ngoài
yếu tố di truyền, khối lượng trứng còn phụ thuộc vào các yếu tố như khối lượng
cơ thể mái khi thành thục sinh dục, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Hệ số di truyền
về khối lượng trứng khá cao h
2
= 0,52.
Theo Brandsch and Bilchel (1978), h
2
= 0,48 - 0,8; theo Nguyễn Văn Thiện
(1995) h
2
= 0,6 - 0,74. Theo Wyatt (1953) h
2
= 45 – 75; theo Lerner and Cruden
(1951); theo Brandsch and Bilchel (1978) cho biết khối lượng trứng có hệ số di
truyền cao hơn sức đẻ trứng, h
2
= 0,52 nên dễ chọn giống. Kết quả nghiên cứu của
Lê Hồng Mận và cs. (1993) cho biết khối lượng trứng có tương quan âm với sản
lượng trứng (r = 0,36), tương quan dương với tuổi thành thục sinh dục (r = 0,31).
Do đó, khối lượng trứng phụ thuộc vào mức chọn lọc; ở những dòng đã chọn lọc
kỹ, khối lượng trứng trung bình cao hơn dòng chưa chọn lọc 10 – 15.
Khối lượng trứng tăng theo tuổi đẻ của gia cầm và sự thay đổi khối lượng
trứng ứng với sự thay đổi khối lượng cơ thể. Bùi Quang Tiến và cs. (1999)
nghiên cứu về gà Ross - 208 cho biết khối lượng trứng ở các tuần tuổi 27; 32; 38
và 42 lần lượt là: 53,96; 54,85; 56,76; 57,10 g/ quả đối với dòng trống và 52,41;
54,20; 56,38; 56,89 g/ quả đối với dòng mái.
Orlov (1974) cho biết, trứng ấp nhận được từ một nhóm gà mái đẻ có khối
lượng trứng trung bình sẽ cho kết quả ấp nở tốt.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
- Hình dạng trứng
Trứng gia cầm có hình dạng phổ biến là hình ovan và được thể hiện qua tỷ
số giữa chiều dài và chiều rộng của trứng hay ngược lại. Chỉ số này không biến
đổi theo mùa (Bransch and Bilchel, 1978). Theo Ixmetnhiev (dẫn theo Ngô Giản
Luyện, 1994) trứng của cùng một mái đẻ ra, lúc còn non tròn hơn lúc gà mái đã
già. Trứng gia cầm có thể phân biệt rõ đầu to và đầu nhỏ, những trứng không có
hình dạng như trên mà quá tròn, quá dài, thắt ngẫng ở giữa đều không được chọn
làm trứng ấp do có ảnh hưởng không chỉ với cấu tạo, chất lượng vỏ trứng mà còn
ảnh hưởng đến vị trí đĩa phôi. Trong chăn nuôi gia cầm sinh sản, chỉ số hình dạng
của trứng là một chỉ tiêu để xem xét chất lượng của trứng ấp, những quả trứng
dài hoặc quá tròn đều có tỷ lệ nở thấp. Theo Orlov (1974) – dẫn theo Bạch Thị
Thanh Dân (1998), chỉ số hình dạng có ý nghĩa nhất định đến sự phát triển của
phôi vì nó ảnh hưởng đến vị trí đĩa phôi khi ấp và vị trí này ảnh hưởng đến quá
trình nở của gia cầm. Theo Lê Hồng Mận và cs. (1993) cho biết trứng gà
Leghorn có chỉ số hình dạng 1,38; trứng gà Rhode-Island-Red và Leghor là 1,4.
Nguyễn Huy Đạt và cs. (1996) – trích dẫn theo Lê Thị Nga (2005) cho biết khi
nghiên cứu xác định tính năng sản xuất của gà Goldline 54 cho thấy chỉ số hình
dạng là 1,32 – 1,36.
Nguyễn Quý Khiêm (1996) cho biết, trứng gà Tam Hoàng chỉ số hình
dạng trung bình 1,24 – 1,39 cho tỷ lệ nở cao hơn so với nhóm trứng có chỉ số
hình dạng nằm ngoài biên độ này.
Như vậy, mỗi loài đều có chỉ số hình dạng đặc trưng và những trứng có hình
dạng trung bình sẽ cho tỷ lệ nở cao; càng xa giá trị trung bình thì tỷ lệ nở càng thấp.
- Độ dày vỏ trứng và mật độ lỗ khí
Vỏ trứng là lớp bảo vệ cho trứng tránh các tác động cơ học, tránh sự xâm
nhập của vi khuẩn và còn là kho cung cấp canxi, photpho cho phôi phát triển,
trao đổi chất trong quá trình ấp trứng; vỏ trứng được hình thành từ khi trứng nằm
trong tử cung từ chất dịch nhầy cacbonatcanxi và cacboprotein. Thời gian tạo vỏ
nhầy 9 – 12 giờ trong khi đó tạo lòng trắng chỉ mất 3 giờ đó là kết quả công bố
của Nguyễn Mạnh Hùng (1993).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
Theo Perdrix (1969); Card and Nesheim (1970) khi so với tổng khối lượng trứng
thì vỏ chiếm 10 – 11,6%, lòng trắng chiếm 57 – 60 % và lòng đỏ chiếm 30 – 32%.
Theo Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (1994) – trích dẫn theo Lê Thị Nga
(2005) trong vỏ theo tỷ lệ so với toàn bộ vỏ thì hơn 98% là vật chất khô, trong đó
95% là chất vô cơ, trong các chất vô cơ có khoảng 98% là canxi và 1% là photpho.
Chất lượng vỏ trứng được thể hiện qua độ bền vững và độ dày của vỏ
trứng. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết độ dày vỏ trứng gà chịu ảnh hưởng của yếu
tố di truyền. Marco (1982) – dẫn theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) - cho biết hệ
số di truyền tính được là 0,3 – 0,6 ngoài ra độ dày vỏ trứng còn phụ thuộc vào
môi trường, không khí, dinh dưỡng, stress… Tuy vậy, hệ số di truyền của vỏ
trứng tương đối cao.
Theo Perdrix (1969) – dẫn theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) độ dày vỏ
trứng gà là 0,229 – 0,373 mm. Trên các vị trí của vỏ trứng độ dày không đồng
nhất dày nhất vùng đầu nhỏ và mỏng nhất vùng đầu to của trứng. Theo Bennett
(1992) dẫn theo Lê Thị Nga (2005) độ dày của vỏ trứng có liên quan đến sự sống
của phôi và kết quả ấp nở của chúng; trên bề mặt của vỏ trứng được bao phủ một
lớp màng mỏng trong suốt gọi là cutin (90% protein là những sợi muxin đan xen
kẽ, một ít hydratcacbon và một ít mỡ. Độ dày màng ngoài khoảng 0,005 – 0.01
mm. Màng cutin vừa có tác dụng bảo vệ, vừa có tác dụng ngăn cản thoát hơi
nước của trứng, khi mất lớp vỏ này nhìn quả trứng nhẵn bóng, đây là đặc điểm để
phân biệt trứng mới và trứng cũ. Trứng gà Mía ở tuần tuổi 38 có độ dày trung
bình 0,33mm và độ chịu lực 2,88kg/cm
2
(Trịnh Xuân Cư và cs., 2001).
Theo Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết trứng gà Lương Phượng Hoa
ở 38 tuần tuổi có độ dày vỏ trung bình 0,35mm và độ chịu lực 4,46kg/cm
2
.
Nguyễn Quý Khiêm (1996) cho biết trứng gà Tam Hoàng có độ dày vỏ trứng
trung bình 0,34 – 0,37mm, độ chịu lực đạt 3,47kg/cm
2
.
Trên bề mặt vỏ trứng có các lỗ khí có khả năng khuếch tán không khí các lỗ
khí này cho phép nước bay hơi đi cũng như oxi từ bên ngoài thẩm thấu vào trong
trứng, khí cacbonic từ tronh thoát ra. Mặt trong lớp vỏ canxi rất gồ ghề gồm nhiều
mỏm nhô ra khỏi bề mặt vỏ các mỏm này mềm hơn mặt ngoài và dễ hòa tan dưới
tác dụng hóa học khi phôi phát triển, đây là nguồn cung cấp canxi, photpho cho
phôi. Vì vậy trong quá trình ấp nở trứng mỏng dần và dễ vỡ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
Qua nhiều nghiên cứu cho thấy các loài khác nhau có lỗ khí trên bề mặt
khắc nhau và phân bố không đều. Đầu to có biến động lỗ khí từ 77 – 144 lỗ/cm
2
,
vùng giữa 106 – 131 và đầu nhỏ biến động 16 – 99 lỗ khí/cm
2
. Schuberth và
Ruhland (1978) cho biết kết quả nghiên cứu của Raux trên cơ sở đã chứng minh
được kích thước lỗ khí trên bề mặt trứng quá ít dẫn đến phá hoại trao đổi khí, có
tới 7600 số lỗ khí trên bề mặt trứng, mật độ lỗ khí cũng phân bố không đều, đầu to
có mật độ lỗ khí nhiều hơn vùng giữa và đầu nhỏ, lỗ khí có kích thước 40 – 50
micromet; độ dày vỏ trứng và số lỗ khí có quan hệ chặt chẽ với nhau trứng mỏng
có số lỗ khí nhiều hơn trứng dày và ngược lại.
Lớp tiếp giáp phía trong vỏ trứng là màng vỏ, gồm hai lớp dính sát nhau
và tách nhau ra ở đầu to gọi là buồng khí, lớp này cũng cho không khí đi qua,
chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ bền, độ chịu lực, độ xốp. Theo Nguyễn Huy
Đạt (1991) độ chịu lực của vỏ trứng gà Leghorn nuôi tại Ba Vì là 2,60 – 3,04
kg/cm
2
(dòng BV
x
) và 2,65 – 2,93 kg/cm
2
(dòng BV
y
).
Mặc dù độ dày vỏ trứng có hệ số di truyền rất lớn (yếu tố di truyền), 70%
canxi cần cho vỏ trứng lại lấy trực tiếp từ thức ăn, do vậy điều kiện ngoại cảnh
cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng vỏ trứng như dinh dưỡng, nhiệt độ… Khi
nhiệt độ tăng từ 20 – 30
o
c thì độ dày vỏ trứng giảm 6 – 10 %, không vỏ hoặc biến
dạng theo Nguyễn Duy Hoan (1999) – dẫn theo Lê Thị Nga (2005).
- Chất lượng lòng trắng trứng
Lòng trắng trứng được tiết ra từ ống dẫn trứng, chứa nhiều chất dinh
dưỡng và nước để cung cấp cho nhu cầu phát triển của phôi và bảo vệ phôi khỏi
những tác động cơ học. Lòng trắng trứng cấu tạo gồm hai lớp lòng trắng đặc và
lòng trắng loãng, chất lượng lòng trắng được thể hiện qua chỉ số lòng trắng. Chỉ
số này được tính dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa tỷ số chiều cao lòng trắng đặc
và đường kính của chúng. Ngô Giản Luyện (1994) cho biết kết quả nghiên cứu
của Toscovasev (1968) đã tính được hệ số di truyền của khối lượng lòng trắng là
0,22 – 0,27; tỷ lệ lòng trắng đặc/lòng trắng chiếm 62 – 64,5%. Nguyễn Mạnh
Hùng và cs. (1994) cho biết chất lượng lòng trắng cũng là một chỉ tiêu đánh giá
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
chất lượng trứng. Bạch Thị Thanh Dân (1998) cho biết kết quả nghiên cứu của
Orlov (1974) cho rằng chỉ số lòng trắng càng lớn thì tỷ lệ nở càng cao và trên cơ
sở nghiên cứu được cho biết trứng mùa đông có chất lượng lòng trắng cao hơn
mùa hè… Tác giả còn cho biết chỉ số lòng trắng cao quá 0,1 cũng không phải là
tốt, trứng của gà mái tơ và gà mái già có chỉ số lòng trắng thấp hơn trứng của gà
mái đang độ tuổi sinh sản, trứng để lâu chỉ số lòng trắng thấp hơn trứng mới đẻ.
Trứng có chất lượng tốt khi đổ ra một mặt phẳng nhẵn thì lớp lòng trắng đặc
gọn và còn giữ nguyên hình ovan bao quanh lòng đỏ. Lớp này có màu hơi phớt xanh
hoặc màu vàng cam, lớp lòng trắng loãng ở ngoài có giới hạn rõ ràng và cũng giữ
hình ovan, tuy loãng nhưng vẫn có độ dày và không chảy thành dòng. Dây chằng ở
vị trí giữa theo chiều dọc trục lớn của quả trứng.
Trứng có chất lượng kém quan sát thấy lòng trẵng loãng không màu hoặc
màu đục, lòng trắng không giữ được hình dạng, chảy loang rộng ra và dây chằng
nằm ở vị trí khác nhau. Theo Marco (1982), hệ số di truyền của khối lượng lòng
trắng h
2
= 0,22 – 0,78. Orlov (1974) cho biết chỉ số lòng trắng trứng gà về mùa
đông cao hơn mùa xuân và mùa hè, ở giống gà nhẹ cân chỉ số này không dưới
0,09 và giống kiêm dụng khoảng 0,08. Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết
trứng gà Lương Phượng Hoa có chỉ số lòng trắng và lòng đỏ ở 38 tuần tuổi tương
ứng là 0,14 và 0,53; ở 60 tuần tuổi tương ứng là 0,091 và 0,49.
Chất lượng lòng trắng còn được đánh giá bằng đơn vị Haugh là mối quan
hệ giữa chiều cao lòng trắng đặc và khối lượng trứng. Đơn vị Haugh càng cao thì
chất lượng trứng càng tốt. Đơn vị Haugh bị ảnh hưởng bởi thời gian bảo quản
trứng, tuổi gia cầm mái (gà càng già trứng có đơn vị Haugh càng thấp), bệnh tật,
nhiệt độ, thay lông (sau thay lông đơn vị Haugh cao hơn trước thay lông) và
giống. Ngô Giản Luyện (1994) cho biết kết quả nghiên cứu của Xargava (1977) ở
trứng ấp có chất lượng lòng trắng tốt cần có đơn vị Haugh từ 75 – 90.
Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết trứng gà Lương Phượng Hoa có
chỉ số Haugh ở 38 tuần tuổi đạt 94,4 và 60 tuần tuổi đạt 91,1.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
- Chất lượng lòng đỏ
Lòng đỏ là tế bào trứng của gia cầm có dạng hình cầu, đường kính khoảng
35 – 40mm và được bao bọc lớp màng lòng đỏ rất mỏng. Màng có tính đàn hồi
vừa giữ cho tế bào trứng ở dạng hình cầu, vừa có tính thẩm thấu chọn lọc để thực
hiện việc trao đổi chất giữa lòng trắng trứng và lòng đỏ; chất lượng lòng đỏ được
xác định thông qua chỉ số lòng đỏ, chỉ số lòng đỏ là tỷ số chiều cao lòng đỏ và
đường kính của nó; trứng có chỉ số lòng đỏ cao sẽ cho kết quả ấp nở cao. Chỉ số
lòng đỏ biến đổi còn phụ thuộc vào mùa vụ, tuổi gia cầm, sức sản xuất và điều
kiện nuôi dưỡng. Theo Ngô Giản Luyện (1994),chỉ số lòng đỏ của trứng gà tươi
là 0,40 – 0,42. Theo Nguyễn Quý khiêm (2003) – trích dẫn theo Lê Thị Nga
(2005) chỉ số lòng đỏ giảm còn 0,33 chứng tỏ lòng đỏ đã bị biến dạng.
Theo Card và Nesheim - dẫn theo Ngô Giản Luyện (1994), chỉ số lòng đỏ
của trứng gà khoảng 0,4 – 0,42.
Hệ số di truyền chất lượng lòng đỏ là 0,43 (Marco, 1982) – trích theo
Bạch Thị Thanh Dân (1998) vì vậy nếu được chọn lọc nó sẽ cho kết quả ấp nở
cao. Chỉ số lòng đỏ ít biến đổi hơn lòng trắng, nó bị giảm còn 0,25 – 0,29 nếu
tăng nhiệt độ môi trường và bảo quản lâu.
Chất lượng lòng đỏ còn có một chỉ tiêu cần xác định đó là tỷ lệ lòng trắng/lòng
đỏ, chỉ tiêu này càng hẹp chất lượng trứng càng tốt. Tỷ lệ lý tưởng giữa lòng trắng và
lòng đỏ từ 1,8 – 2,0. Orlov (1974) – Trích theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) cũng cho
biết trứng có tỷ lệ lòng trắng/lòng đỏ nhỏ hơn 2 cho kết quả ấp nở tốt.
Màu sắc của lòng đỏ phụ thuộc vào lượng sắc tố trong máu, lượng caroten
trong thức ăn. Nói chung, màu lòng đỏ ổn định trong suốt thời gian đẻ nếu thay đổi
thành phần và khẩu phần ăn, đặc biệt là khẩu phần nhiều caroten thì màu lòng đỏ
cũng thay đổi đậm hơn. Tuy nhiên màu sắc không biểu hiện đầy đủ thành phần dinh
dưỡng của lòng đỏ mà chỉ là đặc điểm hấp dẫn người tiêu dùng.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia cầm
Khả năng sinh sản của gia cầm phụ thuộc vào hai yếu tố chủ yếu là yếu tố
di truyền và ngoại cảnh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16
1.1.3.1. Yếu tố di truyền
Theo nghiên cứu của nhiều tác giả, việc sản xuất trứng của gia cầm do 5
yếu tố ảnh hưởng mang tính di truyền đó là tuổi thành thục sinh dục, cường độ đẻ
trứng, bản năng đòi ấp, thời gian kéo dài của chu kì đẻ.
- Tuổi thành thục sinh dục: Tuổi thành thục sinh dục liên quan đến năng suất
trứng của gia cầm, thành thục sớm là một tính trạng mong muốn tuy nhiên cần
chú ý đến khối lượng cơ thể. Tuổi bắt đầu đẻ và kích thước cơ thể có tương quan
nghịch, chọn lọc theo hướng tăng khối lượng quả trứng sẽ làm tăng khối lượng
cơ thể gà và tăng tuổi thành thục sinh dục. Tuổi thành thục sinh dục xác định qua
tuổi đẻ quả trứng đầu tiên. Tuổi thành thục sinh dục của một nhóm hoặc một đàn
gia cầm được xác định theo tuổi đạt tỷ lệ đẻ là 5%. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến tuổi thành thục sinh dục của gia cầm loài, giống, dòng, hướng sản xuất, mùa
vụ nở, thời gian chiếu sáng, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc quản lý.
- Cường độ đẻ: Do 2 cặp gen R – r và R
’
–r
’
phối hợp cộng lại để điều
hành, cường độ đẻ trứng càng cao thì sản lượng trứng càng cao và ngược lại.
- Bản năng đòi ấp: Do 2 gen A và C điều khiển, phối hợp với nhau. Nếu
phản xạ đòi ấp mạnh thì năng suất trứng ít do thời gian đẻ trứng ngắn. Theo
King và Hauddersson (trích theo Trần Đình Miên, 1981) hệ số di truyền của
bản năng đòi ấp là 31%. Tuy nhiên, nó còn phụ thuộc yếu tố ngoại cảnh như
thức ăn, nhiệt độ cao, bóng tối, sự có mặt của gia cầm con… đều tạo điều kiện
kích thích sự ham ấp và nghỉ đẻ.
- Thời gian kéo dài của chu kì đẻ:
Chu kì đẻ trứng sinh học liên quan tới thời vụ nở của gia cầm con. Tùy thuộc
vào thời gian nở mà bắt đầu và kết thúc của chu kì đẻ trứng sinh học có thể xảy ra
trong thời gian khác nhau trong năm. Ở gà, chu kì này thường kéo dài một năm; gà
tây, vịt và ngỗng chu kì thường ngắn hơn và theo mùa. Chu kì đẻ trứng sinh học có
mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng
và chu kì đẻ trứng. Giữa sự thành thục và thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng sinh học có
tương quan nghịch rõ rệt. Các cá thể có sự khác nhau về bản chất di truyền của thời
điểm kết thúc năm sinh học, điều này cho phép tiến hành chọn lọc theo sự đẻ trứng