Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

điều tra công tác tiêm phòng và tình hình cúm gia cầm tại tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.17 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
  



TRƯƠNG BẢO ANH


ĐIỀU TRA CÔNG TÁC TIÊM PHÒNG VÀ
TÌNH HÌNH CÚM GIA CẦM
TẠI TỈNH CÀ MAU



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: THÚ Y
Cần Thơ, 12/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
  


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: THÚ Y



ĐIỀU TRA CÔNG TÁC TIÊM PHÒNG VÀ


TÌNH HÌNH CÚM GIA CẦM
TẠI TỈNH CÀ MAU







Giáo viên hướng dẫn
HUỲNH NGỌC TRANG

Sinh viên thực hiện
TRƯƠNG BẢO ANH
MSSV: LT11640
LỚP: THÚ Y LT K37
Cần Thơ, 12/2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y



Đề tài: Điều tra công tác tiêm phòng và tình hình cúm gia cầm tại tỉnh Cà
Mau
Do sinh viên: Trương Bảo Anh thực hiện tại Chi Cục Thú Y tỉnh Cà Mau,
từ tháng 08 đến tháng 11 năm 2013.



Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013 Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
Duyệt của bộ môn Duyệt của giáo viên hướng dẫn


Huỳnh Ngọc Trang



Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
Duyệt của khoa Nông Nghiệp & SHƯD





i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số
liệu trong đề tài hoàn toàn trung thực. Nếu có vấn đề sai sót nào tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.


Người thực hiện


Trương Bảo Anh



ii

LỜI CẢM ƠN
Qua 2 năm học tập tại trường Đại Học Cần Thơ, tôi đã nhận được sự dìu dắt,
giảng dạy tận tình của các thầy cô, tiếp nhận được nhiều kiến thức quý báu cho
mình. Giờ đây khi sắp phải xa mái trường thân yêu này, xa bạn bè, thầy cô mến
yêu, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến thầy cô, gia đình và bạn bè đã động viên,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Xin cám ơn Cô Huỳnh Ngọc Trang đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ và động
viên tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin cám ơn PGS.TS. Trần Ngọc Bích đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên tôi
trong suốt hai năm học tại trường.
Xin chân thành ghi nhớ công ơn của quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy và
truyền đạt kiến thức quý báu cho tôi trong quá trình học tập tại trường.
Con xin chân thành cám ơn Cha đã sinh thành và là niềm tin cho con trong
cuộc đời này. Con xin cám ơn Mẹ đã chịu bao khó nhọc và là nghị lực cho con
trưởng thành và học tập đến ngày hôm nay.
Xin cám ơn tập thể lớp Thú Y liên thông K37 đã chia sẻ và giúp đỡ tôi trong
học tập và cuộc sống.
Cuối cùng tôi xin kính chúc quý thầy cô được dồi dào sức khỏe và thành
công trong công việc. Chúc những người bạn của tôi nhiều sức khỏe và thành
đạt.

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013



Trương Bảo Anh

iii


MỤC LỤC
Lời Cam Đoan i
Lời Cảm Ơn ii
Mục Lục iii
Danh Mục Bảng vi
Danh Mục Hình vii
Tóm Lược viii
CHƯƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 2. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1. Giới thiệu về bệnh cúm gia cầm 2
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam 2
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 2
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 3
2.3. Căn bệnh học 6
2.3.1. Hình thái và cấu trúc virus cúm gia cầm 6
2.3.2. Độc lực của virus 7
2.3.3. Sức đề kháng của virus 7
2.3.4. Đặc tính gây bệnh 8
2.4. Dịch tễ học 8
2.4.1. Phân bố dịch bệnh 8
2.4.2. Động vật cảm nhiễm 8
2.4.3. Tuổi gia cầm mắc bện 9
2.4.4. Nguồn phát bệnh 9
2.4.5. Nguồn lây bệnh 9
2.4.6. Phương thức truyền lây mầm bệnh 10

iv

2.5. Triệu chứng và bệnh tích 10

2.5.1. Triệu chứng 10
2.5.2. Bệnh tích 12
2.6. Chẩn đoán 13
2.6.1. Chẩn đoán lâm sàng 13
2.6.2. Chẩn đoán phân biệt 13
2.6.3. Chẩn đoán phòng thí nghiệm 13
2.7. Biện pháp phòng chống bệnh 13
2.7.1. Về chăn nuôi 13
2.7.2. Kiểm soát dịch bệnh 14
2.7.3. Phòng bệnh bằng vaccine 14
2.7.4. Quy trình về tiêm phòng vaccine cúm gia cầm tại Việt Nam 15
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
3.1. Nội dung nghiên cứu 16
3.2. Phương tiện và phương pháp nghiên cứu 16
3.2.1. Thời gian, đia điểm 16
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu 16
3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi 16
3.2.4. Đánh giá kết quả 17
3.3. Phương pháp sử lý số liệu 17
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 18
4.1. Tình hình chăn nuôi gia cầm trên địa bàn tỉnh Cà Mau từ năm 2010 đến
2012 18
4.1.1. Tổng đàn gà và vịt từ năm 2010 đén 2012 18
4.1.2. phân bố đàn gia cầm theo địa phương 19

v

4.2. Công tác tiêm phòng cúm gia cầm qua các năm 20
4.3. Tình hình dịch bệnh cúm gia cầm tại tỉnh Cà Mau từ năm 2010-2012 21
4.4. Kết quả kiểm tra hiệu giá kháng thể của gia cầm sau tiêm phòng vaccine

cúm năm 2010 22
4.4.1. Kết quả đánh giá khả năng miễn dịch ở gà 22
4.4.2. Kết quả đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch ơ vịt 23
4.5. Kết quả kiểm tra hiệu giá kháng thể của gia cầm sau tiêm phòng vaccine
cúm năm 2012 24
4.5.1. Kết quả đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch ở gà 24
4.5.2. Kết quả đánh giá khả năng đáp ứng miễn dich ở vịt 25
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 26
5.1 Kết luận 26
5.2 Đề nghị 26
Tài Liệu Tham Khảo 27


vi

DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT

Tên viết tắt
Tên đầy đủ

HPAI
OIE
LPAI
WHO
NP
HA
NA
M
PB
PA

RT - PCR
AGID
ELISA
IVPI
HI
RIA
PBS
ĐBSCL

Highly pathogenic avian influenza
Office International des Epizooties
Low pathogenic avian influenza
World Health Organization
Nucleoprotein
Haemagglutinin
Neuraminidase
Matrix antigen
Basic polymerase
Acidic polymerase
Reverse Transcription- Polymerase Chain Reaction
Agar Gel Immunodiffusion
Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay
Intravenous Pathogenicity Index
Haemagglutination inhibition
Radio Immunoassay
Phosphate Buffer Saline
Đồng Bằng Sông Cửu Long


vii


DANH MỤC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang
4.1 Tổng đàn gia cầm phân bố ở các năm 2010 đến 2012 18
4.2 Kết quả tổng đàn gia cầm phân bố ở Cà Mau 19
4.3 Kết quả tiêm phòng cúm gia cầm ở tỉnh Cà Mau
từ năm 2010 đến 2012 20
4.4 Kết quả khảo sát tình hình dịch cúm gia cầm tại tỉnh Cà
Mau từ năm 2010 đến 2012 21
4.5 Kết quả kiểm tra khả năng đáp ứng miễn dịch của gà sau
khi tiêm phòng vaccine cúm năm 2010 22
4.6 Kết quả kiểm tra khả năng đáp ứng miễn dịch của vịt sau khi
tiêm phòng vaccine cúm năm 2010 23
4.7 Kết quả kiểm tra khả năng đáp ứng miễn dịch của gà sau khi
tiêm phòng vaccine cúm năm 2012 24
4.8 Kết quả kiểm tra khả năng đáp ứng miễn dịch của vịt sau khi
tiêm phòng vaccine cúm năm 2012 25

viii

DANH MỤC HÌNH

Hình Tên hình Trang
2.1 Hình thái và cấu trúc cúm gia cầm 6
2.2 Xuất huyết ở chân 11
2.3 Mào và tích tím tái 11
2.4 Khí quản xuất huyết 12
2.5 Mở vành tim bị xuất huyết 12



ix

TÓM LƯỢC
Đề tài: “ Điều tra công tác tiêm phòng và tình hình cúm gia cầm tại tỉnh Cà
Mau” được thực hiện từ tháng 08 đến tháng 11 năm 2013, tại Chi Cục Thú y
tỉnh Cà Mau. Đề tài này được thực hiện nhằm khảo sát tình hình cúm gia cầm
và khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn gà và vịt ở tỉnh Cà Mau, bằng phương
pháp điều tra hồi cứu và từ các số liệu thu thập được tại Chi Cục Thú y tỉnh Cà
Mau. Qua thời gian khảo sát chúng tôi ghi nhận kết quả như sau:
Tốc độ tăng trưởng đàn gia cầm trong 3 năm tương đối ổn định, phân bố
đàn gia cầm ở các địa phương không đồng đều, cao nhất là huyện Trần Văn
Thời và thấp nhất ở huyện Ngọc Hiển. Trong 3 năm liên tục từ 2010 đến 2012, ở
Cà Mau đều xảy ra bệnh cúm gia cầm, số mắc và chết cao nhất vào năm 2011
(3.784 con) và thấp nhất ở năm 2012 (898 con). Tỷ lệ tiêm phòng trên đàn gia
cầm cao (>80%) nhưng khả năng đáp ứng miễn dịch và bảo hộ cho đàn gia
cầm thấp (<60%) chưa đạt yêu cầu bảo hộ, chỉ duy nhất đàn gà ở năm 2012 là
đạt tỷ lệ bảo hộ đàn (=70,0%).

1

CHƯƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi gia cầm là nghề truyền thống của nước ta và là nguồn thu nhập
quan trọng đối với các hộ gia đình ở nông thôn. Ngành chăn nuôi gia cầm ở
Việt Nam theo những tài liệu đã có từ 3200 – 3500 năm trước (Nguyễn Đăng
Vang, 2002). Đối với một nước có nền kinh tế hơn 90% là sản xuất nông
nghiệp như Việt Nam thì chăn nuôi gia cầm không những là ngành không thể
thiếu mà còn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu ngành nghề của
đất nước.
Theo số liệu thống kê tại thời điểm 01/10/2012 của cục thống kê, tổng đàn

gia cầm của Việt Nam có khoảng 308,5 triệu con. Cùng với sự phát triển của
các ngành nghề khác trong cả nước thì chăn nuôi gia cầm cũng đang trên đà
phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh sự phát triển thì chăn
nuôi gia cầm hiện nay còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có nguy
cơ xảy ra dịch cúm gia cầm A/H5N1. Cúm gia cầm là một bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm có tốc độ lây lan rất nhanh với tỷ lệ chết cao trong đàn gia cầm bị
nhiễm bệnh. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới, gây thiệt hại nặng nề về mặt
kinh tế và có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội.
Dịch cúm gia cầm xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam vào cuối tháng
12/2003, bắt đầu từ các tỉnh Hà Tây, Long An và Tiền Giang, sau đó lây lan
sang nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Trong vòng hai tháng dịch đã xuất
hiện tại 2.574 xã, phường thuộc 381 quận, huyện, thị xã của 57 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 43,9
triệu con chiếm 16,9% tổng đàn, trong đó gà có 30,4 triệu con và thủy cầm là
13,5 triệu con. Ngoài ra còn có 14,76 triệu con chim cút và các loài chim khác
bị chết và tiêu hủy.
(
Riêng đối với tỉnh Cà Mau, kể từ năm 2010, dịch cúm gia cầm xảy ra đã
làm chết và tiêu hủy 5.516 con. Năm 2011 dịch xuất hiện ở 3 huyện Trần Văn
Thời, Thới Bình, Phú Tân đã làm chết và tiêu hủy 3.784 con gia cầm. Năm
2012 dịch cúm đã làm chết và tiêu hủy 898 con gia cầm (Chi Cục Thú y Cà
Mau, 2012).
Để có thể đưa ra những đánh giá sát thực về tình hình dịch cúm gia cầm ở
Cà Mau cũng như hiệu quả của việc tiêm vaccine phòng bệnh cúm gia cầm và
khả năng bảo hộ của vaccine trong thời gian qua, được sự đồng ý của Chi Cục
Thú y Cà Mau, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Điều tra công tác tiêm
phòng và tình hình cúm gia cầm tại tỉnh Cà Mau” nhằm mục tiêu :
- Khảo sát tình hình dịch cúm gia cầm và công tác tiêm phòng tại tỉnh Cà
Mau.
- Đánh giá được khả năng đáp ứng miễn dịch của gia cầm đối với vaccine

cúm đang được sử dụng tại tỉnh Cà Mau và đề ra những biện pháp quản lý
thích hợp để hạn chế dịch bệnh cúm trên đàn gia cầm.

2

CHƯƠNG 2. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu về bệnh cúm gia cầm
Cúm gia cầm là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi các virus cúm gà hay
cúm loài chim. Tuy nhiên, các virus cúm gia cầm cũng có thể gây bệnh cho
người, thậm chí gây tử vong. Virus cúm thuộc họ Orthomyxoviridae gây ra,
được phân làm hai loại: HPAI (High Pathogenic Avian Influenza) là loại có
độc lực cao và LPAI (Low Pathogenic Avian Influenza) là loại có độc lực
thấp. Sự phân loại này dựa trên cơ sở khả năng của virus gây bệnh cho gia
cầm (Tô Long Thành, 2004).
Bệnh cúm gia cầm chủng độc lực cao (HPAI) hay còn gọi là bệnh cúm gà là
một bệnh truyền nhiễm cấp tính rất nguy hiểm, lây lan rất nhanh với tỷ lệ chết
cao, do đó bệnh được tổ chức Dịch tễ thế giới (OIE) xếp vào bảng A – bảng
danh mục các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bệnh này có thể lây nhiễm cho
hầu hết các loài gia cầm như: gà, vịt, ngan, ngỗng, gà tây, đà điểu, chim hoang
dã, nhiều loài động vật hữu nhũ và con người (Tô Long Thành, 2004).
Trước đây bệnh này còn được gọi là bệnh dịch tả gà (fowl plague) nhưng từ
hội nghị quốc tế lần thứ nhất về bệnh cúm gia cầm tại Beltsville Mỹ năm
1981 đã thay thế tên này bằng tên bệnh cúm gia cầm độc lực cao (HPAI –
Hightly Pathogenic Avian Inluenza) để chỉ các virus cúm type A có độc lực
mạnh, gây lây lan nhanh, tỷ lệ tử vong cao (Trần Hữu Cổn, Bùi Quang Anh,
2004).
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao (HPAI) được phát hiện lần đâu tiên ở
Italia vào năm 1878. Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan rất mạnh

gia cầm. Với tính chất nguy hiểm của nó, bệnh cúm gia cầm được Tổ chức
Dịch Tễ thế giới (OIE) xếp vào bảng A- bảng danh mục những bệnh nguy
hiểm nhất ở động vật. Bệnh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới và gây thiệt hại
kinh tế rất lớn. Căn bệnh do virus cúm gia cầm thuộc họ Orthomyxoviridae, là
RNA virus phân mảnh có khả năng đột biến mạnh. Hai kháng nguyên bề mặt
H (từ H1 đến H16) và N (từ NI đến N9) có vai trò quan trọng trong sinh bệnh
học và miễn dịch học cũng như phân loại virus (Alexander, 2000).
Các virus cúm gia cầm thể độc lực cao không nhất thiết có độc lực cho tất cả
các loài cầm và mức độ nghiêm trọng về mặt lâm sàng dường như thay đổi cả
ở các loài chim và chủng virus (Alexander et al., 1978; Alexander et al., 1986)
trích dẫn nguồn Alexander (2000). Đặc biệt ở vịt, mặc dù được gây nhiễm dễ
dàng trong các thử nghiệm với các virus gây bệnh cúm gia cầm thể độc lực
cao, nhưng hiếm khi thấy các triệu chứng lâm sàng.
Virus cúm gia cầm được bài thải qua đường hô hấp, niêm mạc và phân.
Trong một gram phân có thể chứa tới 10
7
hạt virus gây nhiễm (Utterback,
1984; Alexander và Gough, 1986).

3

Tính mẫn cảm của gia cầm: theo Arlette Laval, Trường Thú y Quốc gia
Nante- Pháp, gà tây nhạy cảm nhất rồi đến gà, vịt, ngỗng, gà sao, cút, chim trĩ
ít nhạy cảm hơn, thường là động vật khoẻ mang trùng .
Những quan sát về gia cầm bị bệnh gần đây của một số chuyên gia cho thấy
bệnh cúm chủng virus H5N1 có độc lực mạnh gây ra ở thủy cầm các nước
Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Lào có các dấu hiệu lâm sàng, bệnh tích
rõ rệt và tỷ lệ chết khá cao. Đây là điều khác biệt so với mô tả của Alexander
(1993); Ferran và Mc Nulty (1993) về bệnh cúm ở thủy cầm các nước châu Âu
và Bắc Mỹ. Các tác giả này đã nghiên cứu và nhận xét các loài thủy cầm như

vịt, ngan, vịt trời nhiễm virus có độc lực cao (HPAI) nhưng virus chỉ nhân
lên ở ruột, rồi thải ra ngoài theo phân và thủy cầm không thể hiện rõ các triệu
chứng lâm sàng và bệnh tích như ở gà.
Với các vaccine sẵn có trên thị trường hiện nay, việc tiêm chủng vaccine sẽ
đạt kết quả tốt nêu chọn được vaccine thích hợp và tiêm chủng đúng quy định
sẽ bảo vệ đàn gia cầm chống lại sự gây nhiễm của virus và giảm tỷ lệ chết,
giảm mức độ và thời gian bài thải virus đồng thời tăng sức đề kháng của vật
chủ đối với bệnh (Capua et al., 2004). Tuy nhiên ở tất cả virus cúm gia cầm,
đặc biệt là virus cúm gia cầm thể độc lực cao có thể vẫn gây nhiễm và tái sản
ở những gia cầm đã được chủng vaccine nhưng không xuất hiện triệu chứng
lâm sàng (Van der Goot et al., 2005).
Ưu điểm của tiêm chủng vaccine trong khống chế dịch cúm gà thể độc lực
cao là giảm đáng kể sự bài xuất virus trong đàn gà nhiễm bệnh; giảm thiểu số
lượng gà loại thải từ những đàn gà khỏe mạnh; là phương án khả thi đối với
đàn gà có giá trị cao, gà chăn nuôi gia đình, gà cảnh; giảm thiệt hại kinh tế cho
ngành chăn nuôi gia cầm công nghiệp (Breytenbach, 2004).
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, bệnh cúm gia cầm xảy ra vào cuối năm 2003 đầu năm 2004
làm trên 40 triệu gia cầm bị tiêu hủy, gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngành
chăn nuôi gia cầm và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người.
Theo Lê Văn Năm (2004) nhận thấy gà bệnh xảy ra hầu hết ở các giống có
mặt tại miền Bắc nước ta như: các giống 707, Cob, Rod 308, Hyline, Goldline,
gà ta, gà Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir Sasso. Các giống như vịt Cỏ, vịt
Bầu, vịt Bắc Kinh, vịt Hà Lan, vịt Siêu thịt, đều có thể mắc bệnh cúm gia
cầm.
Khi khảo sát trên những đàn vịt có mẫu dương tính với virus cúm, Nguyễn
Tiến Dũng (2004) ghi nhận chúng đều khoẻ mạnh, bình thường do vịt có sức
đề kháng với bệnh, kể cả chủng virus có độc lực cao gây bệnh nặng trên gà,
nên đây là nguồn truyền bệnh nguy hiểm nhất. Hậu quả là một khối lượng lớn
virus được bài thải qua phân gây ô nhiễm nước, môi trường và vịt trở thành

một tác nguồn lưu trữ, phát tán mầm bệnh nguy hiểm cho các loài gia cầm.
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Tiến Dũng (2005), chủng virus H5N1
không những gây bệnh cho các đàn gà mà còn gây bệnh cho vịt và ngan. Sau

4

khi nhiễm, cá thể vịt bài thải virus H5N1 đến 17 ngày sau đó và ở đàn vịt 500
con thì virus bài thải ra môi trường bên ngoài tới 35 ngày sau khi cá thể đầu
tiên bị bệnh; gà có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 8 lần nếu nuôi chung với vịt.
Để phòng chống virus cúm gia cầm H5N1, cuối năm 2005, Bộ Nông nghiệp
và Phát Triển Nông Thôn đã cho phép nhập khẩu vaccine cúm gia cầm vô hoạt
H5N1 chủng Re-1 của Trung Quốc. Theo khuyến cáo của Tổ chức dịch tễ thế
giới, việc phối hợp các biện pháp an toàn sinh học kết hợp với chủng ngừa
bằng vaccine có thể làm giảm ngưỡng nhiễm mầm bệnh và hạn chế sự lây lan
của virus từ gia cầm sang gia cầm và từ gia cầm sang người. Theo quy định
của Ngành Thú y, đàn vịt được bảo hộ đối với virus cúm phải có đáp ứng miễn
dịch đúng theo tiêu chí của Cục Thú y với hiệu giá kháng thể HI ≥ 1/16
(4log2) (Cục Thú Y Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2005).
Kết quả nghiên cứu năm 2004 tại tỉnh Bạc Liêu có 6 huyện, thị xã có dịch,
với tổng số gia cầm bị tiêu hủy là 797.104 con. Trong đó có 126.126 gà và
670.978 vịt. Năm 2005, toàn tỉnh có 6/6 huyện, thị xã có dịch, với tổng số gia
cầm bị tiêu hủy là 159.895 con, trong đó có 1.099 gà và 158.796 vịt. Kết quả
tiêm phòng vaccine H5N2 cho gà và H5N1 cho vịt đạt từ 67,33% đến 92,45%
ở gà, từ 80,47 đến 92,35% ở vịt. Kết quả xét nghiệm 121 mẫu huyết thanh gà
và 439 mẫu huyết thanh vịt bằng phương pháp ngăn trở ngưng kết hồng cầu
(HI) cho thấy tỷ lệ bảo hộ trên gà từ 20% đến 88,89%, tỷ lệ bào hộ trên vịt từ
13,33% đến 100%. Năm 2006 khảo sát 91 mẫu huyết thanh gà và 149 mầu
huyết thanh vịt. Kết quả tỷ lệ bảo hộ trên gà từ 76,67% đến 86,67%, tỷ lệ bảo
hộ trên vịt từ 90% đến 100% (Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2006).
Cùng năm 2004 tại tỉnh Vĩnh Long, đã thống kê trên toàn tỉnh có 68 điểm

phát dịch cúm gia cầm tại 68/107 xã, phường, của 7 huyện, thị. Tổng số gia
cầm mắc bệnh là 316.343 con và 51.865 con chết. Năm 2005, trên toàn tỉnh đã
phát hiện 34 điểm có dịch/33 ấp/24 xã tại 4 huyện (Bình Minh, Long Hồ, Tam
Bình, Vũng Liêm). Tổng số gia cầm bệnh chết và tiêu hủy là 63.089 con, trong
đó 3.377 gà, 22.212 vịt, 37.500 cút. Kết quả tiêm phòng vaccine H5N2 cho gà
và H5N1 cho vịt trên toàn tỉnh đạt tỷ lệ 64,14% (927.612 / 1.446.134) ở gà và
95,72% (3.033.120 / 3.168.478) ở vịt. Kết quả bảo hộ sau tiêm phòng năm
2005 trên đàn gà đạt tỷ lệ bảo hộ 16,66% đến năm 2006 đạt tỷ lệ bảo hộ cao
hơn 33,33%. Đối với đàn vịt năm 2005 là 33,33% đến năm 2006 đạt tỷ lệ bảo
hộ rất tốt 100%. (Chau Bora, 2006)
Khi khảo sát biểu hiện triệu chứng và bệnh tích trên vịt, Xầm Văn Lang
(2006) đã ghi nhận: vịt mang trùng không biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Vịt
bị bệnh cúm gia cầm có biểu hiện như viêm mắt, mắt có ghèn, hoặc bị mù,
chảy nước mắt, nước mũi và có triệu chứng thần kinh. Bệnh tích điển hình là
dịch nhày ở mũi, họng; viêm và xuất huyết ở khí quản, ruột, não, chủ yếu là
vịt con dưới 1 tháng tuổi. Khảo sát sự lưu hành của virus cúm gia cầm tại 9
huyện và thị xã thuộc tỉnh Sóc Trăng cho thấy tỷ lệ mang trùng năm 2004 và
năm 2005 ở vịt đẻ là 13,68% và 31,60%, vịt thịt 17,39% và 66,10%.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan, Hoàng Văn Dũng và Đặng Xuân
Bình (2006), giám sát sau khi tiêm phòng tại tỉnh Thái Bình trên 236 mẫu

5

huyết thanh gà và vịt được thu thập tại 09 cơ sở chăn nuôi (03 cơ sở nuôi vịt,
06 cơ sở nuôi gà) thuộc 03 huyện, thị cho thấy gia cầm được tiêm vaccine có
tỷ lệ phản ứng, tỷ lệ chết thấp (0,14%). Tất cả gia cầm đều có miễn dịch bảo
hộ với hiệu giá ngưng kết từ 1/16 đến 1/128, tỷ lệ bảo hộ đạt từ 6,5% đến 96%
ở gà và từ 1/16 đến 1/256 với tỷ lệ bảo hộ đạt từ 10% đến 86,6% ở vịt.
Năm 2006, khi kiểm tra hiệu giá kháng thể trong các mẫu huyết thanh gia
cầm của tỉnh Bắc Giang, Tô Long Thành et al. (2007) ghi nhận sau khi tiêm

phòng 02 mũi vaccine H5N1 cho vịt, hiệu giá kháng thể bình quân là 6,21og
2

với tỷ lệ bảo hộ 85,3%.
Tháng 12/2007, Nguyễn Thế Tĩnh et al., (2007) đã khảo sát khả năng đáp
ứng miễn dịch vaccine phòng cúm gia cầm tỉnh Thái Nguyên khi kiểm tra
1.560 mẫu huyết thanh gà và vịt, có 951 mẫu có hiệu giá kháng thể từ 41og
2

trở lên (chiếm 61,0%), thấp hơn so với kết quả thử nghiệm của phòng dịch tễ
Cục Thú Y năm 2007. Chỉ có 48,1% đàn (25/52 đàn) có hiệu giá HI đạt mức
bảo hộ, trong đó 19/34 đàn gà (55,9%) và 6/18 đàn vịt (33,3%). So với kết quả
kiểm tra của Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn năm 2007 ở một số
địa phương có tỷ lệ bảo hộ lớn hơn 50,0%, tỷ lệ bảo hộ ở gia cầm nhỏ hơn 5
tuần tuổi là 32,1% (9/28 đàn), và lớn hơn 5 tuần tuổi là 66,7% (16/24 đàn).
Như vậy việc tiêm phòng cúm cho đàn gia cầm chưa đạt mức bảo hộ cần thiết
vì theo Tô Long Thành (2007), nếu tỷ lệ hiệu giá HI đạt mức bảo hộ trong đàn
≥ 70% thì mới được coi là có khả năng bảo hộ.
Hiệu giá kháng thể trên đàn gia cầm sau khi tiêm vaccine cúm phụ thuộc vào
loài gia cầm và phương thức chăn nuôi. Nghiên cứu của Lưu Đình Lệ Thúy et
al., (2008) tại Bình Dương thì tỷ lệ bảo hộ sau tiêm phòng tính chung của các
đàn gia cầm là 66,15% ở lần kiểm tra thứ nhất, sau 4 tháng giảm còn 53,69 %.
Gà ở hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, vịt và cút không đủ bảo hộ đối với bệnh. Gà đẻ nuôi
công nghiệp có tỷ lệ bảo hộ rất tốt (89,85- 94,06% có hiệu giá kháng thể ≥
41og
2
).
Kết quả khảo sát kháng thể sau tiêm phòng vaccine cúm gia cầm H5N1 trên
vịt cho thấy vịt nuôi thịt Super M được tiêm phòng vaccine cúm gia cầm lần 1
đạt tỷ lệ bảo hộ thấp, chỉ từ 35,0% đến 46,2%. Phân bố hiệu giá kháng thể ở

mức thấp chỉ từ 1/16 đến 1/32. Tiêm phòng lần 2 trên đàn vịt nuôi thịt cho kết
quả đáp ứng miễn dịch tốt hơn, tất cả 3 đàn vịt nuôi thí nghiệm đều đạt tỷ lệ
bảo hộ từ 76,67% đến 100%. Như vậy để đạt kết quả bảo hộ khi tiêm phòng
vaccine cúm gia cầm trên vịt nuôi thịt cần phải tiêm phòng 2 lần theo khuyến
cáo. Kết quả kiểm tra độ dài miễn dịch sau tiêm vaccine cúm sau thời điểm
145, 148, 156, 158 ngày trên vịt đẻ cho thấy tỷ lệ bảo hộ vẫn còn ở mức cao từ
90-100%. Kết quả tiêm phòng nhắc lại ở liều 0,75 ml và lml/ con trên vịt đẻ
Khaki Campell đạt tỷ lệ bảo hộ 100% (Nguyễn Khắc Chung Thẩm, 2008).
Lê Hoàng Vân (2010) đã khảo sát độ dài miễn dịch trên đàn vịt Khaki
Campell bố mẹ sau khi tiêm phòng vaccine cúm H5N1, chủng Re -1 tại tinh
Đồng Tháp. Với 300 mẫu huyết thanh thu thập được từ 10 đàn vịt bố mẹ tại 3
thời điểm sau tiêm phòng mũi 2. Tại thời điểm 90 ngày, hiệu giá kháng thể đạt
ở mức 63,0%, giảm xuống còn 30,0% ở 120 ngày và chỉ còn 8,0% ở thời điểm

6

150 ngày. Trong nghiên cứu này, Lê Hoàng Vân cũng khảo sát kháng thể thụ
động trên vịt con ở 1 ngày tuổi, kết quả tỷ lệ bảo hộ ở vịt con có tương quan
thuận với tỷ lệ bảo hộ của đàn vịt bố mẹ. Tỷ lệ bảo hộ này ở vịt con lần lượt là
23,3%; 20,0%; 16,67%; 10,0% từ các đàn vịt bố mẹ có tỷ lệ bảo hộ theo thứ tự
92,86%; 92,86%; 85,71%; 78,57%.
2.3. Căn bệnh học
2.3.1. Hình thái và cấu trúc virus cúm gia cầm









Hình 2.1: Hình thái và cấu tạo của virus cúm gia cầm
(Nguồn: />qn/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=58&cat=1101&ID=3333)
Virus cúm gà có tên khoa học là Avian Influenza virus, thuộc họ
Orthomyxoviridae là họ virus đa hình thái, có vỏ ngoài , genome là RNA đơn.
Virus gây bệnh cúm gia cầm được chia thành 3 type là A, B và C dựa trên
sự sắp xếp khác nhau giữa các nucleoprotein (NP) và kháng nguyên nền
(maxtrix protein). Virus cúm gia cầm thuộc type A, type này có thể gây bệnh
tự nhiên ở loài chim, heo, người và một số động vật hữu nhũ khác (Tô Long
Thành, 2004). Virus thuộc chi influenza A. Hạt virus có dạng hình khối hoặc
đôi khi có dạng hình khối kéo dài, đường kính khoảng 80– 120 nm . Hạt virus
nhiều khi có dạng kéo dài hình sợi, có khi dài đến vài µm. Vỏ virus có bản
chất protein. Nuclecapsid bao bọc lấy nhân virus là tập hợp của nhiều protein
phân đoạn, cấu trúc đối xứng xoắn 130– 150 nm. Nhân là một ARN có đường
kính sợi xoắn từ 8– 9 nm và bao gồm tám mảnh rời nhau mang mật mã cho 10
loại protein khác nhau của virus. Phân tử lượng của hạt virus khoảng 250 triệu
Dalton.

7

Cấu trúc từ ngoài vào trong bao gồm
- Màng lipid: có hai lớp, có nguồn gốc từ màng nguyên sinh chất của tế bào
ký chủ.
- Protein bề mặt: bao gồm kháng nguyên HA có hình gậy (Hemaglutinin: là
loại protein gây ngưng kết hồng cầu) và NA có hình nấm (Neuraminidase: là
loại protein có chức năng như một loại enzyme phá hủy thụ thể của virus ).
Đối với sự gây nhiễm, hai kháng nguyên HA và NA có vai trò rất lớn giúp
virus gây bệnh. Kháng nguyên HA giúp virus bám vào tế bào, nhờ đó mà
virus xâm nhập vào bên trong tế bào. Kháng nguyên NA giúp virus giải
phóng tế bào đã nhiễm để lan sang tế bào lành khác.

- M1 (matrix protein): nằm xếp ngay dưới màng lipid, gắn kết với những
ribonucleoprotein ở bên trong quyết định hình dạng của virus.
Ngoài ra còn phức hợp enzym transriptase gắn kết với các chuỗi
nucleocapsid bao gồm PB1, PB2 (basic polymerase 1,2) và PA (acidic
polymerase). Các protein không cấu trúc (non structure) NS2 nằm rải rác
ngay dưới M và SN1, không phải là thành phần cấu trúc của virus nhưng cũng
được tìm thấy ở những tế bào khi virus nhân lên ( trích dẫn Nguyễn Khắc
Chung Thẩm, 2008).
Một trong những đặc điểm quan trọng của virus cúm gia cầm là sự thay đổi
kháng nguyên theo thời gian. Virus cúm biến đổi tính kháng nguyên bề mặt
liên tục do đột biến ngẫu nhiên và do sức ép của miễn dịch.
2.3.2. Độc lực của virus
Virus cúm gia cầm gây ra những triệu chứng lâm sàng ở những mức độ
khác nhau phụ thuộc vào chủng virus, loài cảm nhiễm và các yếu tố ngoại
cảnh. Dựa vào động lực gây bệnh, virus cúm được chia thành hai loại.
- Loài động lực cao: sau 10 ngày tiêm tĩnh mạch 0,2 ml nước trứng gà đã
gây nhiễm virus được pha loãng 1/10 cho gà mẫn cảm từ 4-6 tuần tuổi phải
làm chết 75-100% gà thực nghiệm. Virus gây bệnh cúm gà (có thể type phụ)
phải làm chết 20% số gà mẫn cảm thực nghiệm và phát triển tốt trên tế bào xơ
phôi trong môi trường nuôi cấy không có trypsin.
- Loài độc lực thấp: là virus phát triển tốt trong cơ thể gà nhưng không gây
ra dịch cúm với các triệu chứng lâm sàng và không tạo ra các bệnh tích đại
thể (Xầm Văn Lang, 2006).
Tuy nhiên, độc lực của virus biến đổi rất phức tạp. Trong quá trình diễn
tiến của bệnh hoặc sau khi diễn tiến qua nhiều loài, nhiều chủng độc lực thấp
ở loài này lại trở thành độc lực cao của loài khác và trở thành nguồn lưu trữ
rất quan trọng.
2.3.3. Sức đề kháng của virus
Virus cúm gia cầm được bảo vệ trong vật chất hữu cơ như dịch tiết ở mũi,
trong phân làm tăng sức đề kháng của virus đối với tác nhân vật lý và hoá

học. Virus thường tồn tại lâu hơn trong môi trường ở nhiệt độ mát, ẩm độ cao.

8

Virus cúm có thể tồn tại trong phân 30 - 35 ngày ở nhiệt độ 4
o
C và 7 ngày ở
20
o
C (Lê Văn Năm, 2004).
Ngoài ra, trong tủ lạnh và tủ đá virus sống được hàng tháng. Tuy nhiên, ở
nhiệt độ 70
o
C chúng bị tiêu diệt trong vòng 3 phút. Virus bị tiêu diệt dễ dàng
dưới ánh sáng mặt trời và các hoá chất sát trùng thông thường như: formol
3%, dung dịch NaOH 3 - 5%, nước vôi 10%, cồn 70 - 90
o
, acid fenic 5%.
Người ta có thể dùng các chất này để tổng hợp tẩy uế chuồng trại, dụng cụ
chăn nuôi và các thiết bị chăn nuôi khi cơ sở chăn nuôi bị đe doạ.
2.3.4. Đặc tính gây bệnh
Chỉ 1– 2 ngày sau khi vào cơ thể, virus cúm gà được đào thải ra ngoài theo
phân, nước mũi và miệng. Virus tồn tại khá lâu trong các vật chất hữu cơ như
trong phân gà: 30 – 35 ngày ở 4
0
C và 7 ngày ở 20
o
C. Trong các nguồn thức
ăn, nước uống bị ô nhiễm virus có khả năng tồn tại hàng tuần. Đây chính là
nguồn bệnh nguy hiểm và tiềm tàng để không những gà mà các thủy cầm (vịt,

ngan) và các động vật khác cũng bị nhiễm (Lê Văn Năm, 2004).
Khi gia cầm hít hoặc nuốt phải virus, thì men trypsin trong đường hô hấp
và trong biểu mô niêm mạc ruột cho phép các phân tử virus này nhân đôi và
tăng sinh để phóng thích những phân tử virus gây nhiễm. Ở gà, xoang mũi là
vị trí tăng sinh virus đầu tiên.
Với chủng virus cúm gia cầm độc lực cao, phân tử lây nhiễm xâm nhập vào
lớp dưới niêm mạc và vào trong mao mạch. Virus nhân lên và lan truyền
trong đường máu và bạch huyết đi đến các cơ quan nội tạng, não và da. Dấu
hiệu bệnh và chết là do nhiều cơ quan bị hư hại và suy sụp chức năng.
2.4. Dịch tễ học
2.4.1. Phân bố dịch bệnh
Virus cúm gia cầm phân bố khắp thế giới trong các loài gia cầm, dã cầm và
động vật hữu nhũ.
Sự phân bố và lưu hành của virus cúm gia cầm rất khó xác định chính
xác.Sự phân bố bị ảnh hưởng của cả loài vật nuôi và hệ thống báo cáo dịch
bệnh. Sự lưu hành cũng bị ảnh hưởng của những nguyên nhân tương tự và sự
khác nhau của các quốc gia về hệ thống, phương pháp nghiên cứu.
Sự phân bố và lưu hành virus cúm gia cầm đã xảy ra trong phạm vi toàn
cầu do sự di trú của các dã cầm, do đó rất khó dự đoán khi nào virus xuất
hiện, gây thành dịch cho đàn gia cầm nuôi và việc ngăn chặn sự tiếp xúc giữa
các loài dã cầm với loài gia cầm nuôi có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
triển chăn nuôi gia cầm.
2.4.2. Động vật cảm nhiễm
Tất cả các loài gia cầm (gà, vịt, ngan, chim cút, vẹt, bồ câu, chim hoang dã
đặc biệt là thủy cầm di trú) đều mẫn cảm với virus cúm type A.

9

Ngoài ra virus cúm type A còn gây bệnh cho nhiều loài động vật hữu nhũ
như lợn, ngựa, chồn, thú hoang dã và cả con người. Loài heo mắc bệnh cúm

thường do phân type H1N1 và H3N3. Loài chồn cảm nhiễm cao với virus
cúm. Trong một ổ dịch tại một trại nuôi chồn ở Thụy Điển đã phân lập virus
cúm type A H4N1, chồn mắc bệnh 100% nhưng chỉ chết 3%. Phân type này
đang lưu hành trong các loài gia cầm (Bùi Quang Anh và Văn Đăng Kỳ,
2004).
Vịt nuôi cũng bị nhiễm virus cúm nhưng ít phát bệnh do vịt có sức đề
kháng với virus bệnh, kể cả những chủng có độc lực cao gây bệnh nặng cho
gà tây. Tuy nhiên năm 1961 ở Nam Phi đã phân lập được virus cúm type A
H5N1 gây bệnh cho cả gà và vịt (Bùi Quang Anh và Văn Đăng Kỳ,
2004).Phần lớn các loài gia cầm non đều mẫn cảm với virus cúm type A
Hiện nay đã phân lập được virus cúm từ vịt bầu, ngỗng, chim cút, gà nhật,
gà lôi, gà gô.
2.4.3. Tuổi gia cầm mắc bệnh
Gà, ngan, vịt ở tất cả mọi lứa tuổi đều có nguy cơ bị bệnh cúm, nhưng bệnh
thường ở độ tuổi từ 4- 6 tuần tuổi. Sớm nhất là ở gà là 26 ngày tuổi, vịt là 28
ngày tuổi và muộn nhất ở gà là 10 tháng tuổi, ở vịt là 18 tháng tuổi. (Lê Văn
Năm, 2004).
2.4.4. Mùa phát bệnh
Bệnh cúm gia cầm xảy ra quanh năm nhưng cũng chịu sự tác động từ các
yếu tố như thay đổi đột ngột về thời tiết, thức ăn, nước uống, chăm sóc, quản
lý.
Thực tế trong những năm qua ở Việt Nam dịch phát nặng theo chu kỳ từ
tháng 12 năm trước, cao điểm vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 và đến tháng 3
năm sau. Đây là khoảng thời gian thời tiết thay đổi đột ngột, độ ẩm cao, nhiệt
độ thường xuống thấp, tạo điều kiện cho virus cúm tồn tại, phát triển và lây
lan. Đồng thời đây cũng là lúc điều kiện thời tiết có nhiều bất lợi cho sức
khỏe đàn gia cầm, làm ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể, làm giảm khả
năng đề kháng bệnh, làm tổn thương cơ quan hô hấp nên động vật dễ cảm
nhiễm mầm bệnh. Mặt khác tại thời điểm này trong chăn nuôi, mật độ nuôi
thường cao, các hoạt động vận chuyển, giết mổ gia cầm cao hơn trong năm

cũng là điều kiện để dịch bệnh phát sinh và lây lan nhanh.
Ở Châu Á, các ổ dịch cúm xảy ra khi thời tiết chuyển từ ấm áp sang lạnh
ẩm. Theo một số nhà khoa học, các loài chim di cư (vịt trời, ngỗng trời, quạ)
mang mầm bệnh từ phương Bắc trong mùa đông giá lạnh truyền cho các loài
gia cầm ở các nước Đông và Nam Á khi chúng đến trú đông (Chu Thị Thơm
và ctv, 2006)
2.4.5. Nguồn lây bệnh
Các loài chim hoang và thủy cầm được xem như là nguồn tồn trữ mầm
bệnh chính lây sang đàn gia cầm nuôi. Virus cúm H5 độc lực thấp có thể lây
nhiễm vào đàn vịt nuôi và ngỗng sau đó lây nhiễm sang gà. Ở gà, virus này

10

biến đổi thành virus có độc lực cao trước khi lây nhiễm trở lại vịt và ngỗng. Ở
các loài thủy cầm, chủng virus này sẽ kết hợp với các virus khác và kết quả là
tạo ra một chủng virus mới lây nhiễm sang đàn gia cầm nuôi, người và đôi khi
lây sang heo.
2.4.6. Phương thức truyền lây mầm bệnh
Khi gia cầm nhiễm cúm, virus được nhân lên trên đường hô hấp và đường
tiêu hóa. Sự lây truyền bệnh được thực hiện theo 2 phương thức trực tiếp và
gián tiếp:
-Truyền trực tiếp giữa con mắc bệnh và con khỏe.
Lây trực tiếp do con vật mẫn cảm tiếp xúc với con vật mắc bệnh thông qua
các hạt khí dung được thải ra từ đường hô hấp hoặc qua phân, thức ăn, nước
uống có chứa mầm bệnh.
Lây gián tiếp qua các hạt khí dung trong không khí với khoảng cách gần
hoặc những dụng cụ chứa virus do gia cầm mắc bệnh bài thải qua phân hoặc
lây qua chim, thú, thức ăn, nước uống, lồng nhốt, quần áo, xe vận chuyển, côn
trùng.
-Truyền gián tiếp thông qua không khí, gió đưa bụi phân có chứa virus đi

xa, dụng cụ chăn nuôi, thức ăn nước uống, phân rác hoặc tay chân, giầy dép
của người có tiếp xúc với gia cầm mắc bệnh và vô tình truyền mầm bệnh đi
nơi khác.
Như vậy, virus cúm gia cầm dễ dàng truyền tới những vùng khác do con
người, phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi.
2.5.Triệu chứng và bệnh tích
2.5.1. Triệu chứng
Thời gian ủ bệnh từ 2 giờ đến 3 ngày sau khi virus cúm gia cầm xâm nhập.
Theo ghi nhận khi dịch cúm nổ ra và chậm nhất là 14 ngày sau khi gây nhiễm
thì cả đàn gà bị bệnh (Lê Văn Năm, 2004).
Biểu hiện lâm sàng của bệnh cúm rất khác nhau do các yếu tố sau: chủng
virus, loài cảm nhiễm, tuổi, giới tính, liều gây nhiễm, môi trường (độ bụi,
thừa amoniac,…), chế độ dinh dưỡng, tình trạng miễn dịch của vật chủ trước
khi nhiễm virus và sự cộng nhiễm cùng với virus cúm gia cầm của các vi
khuẩn, virus khác như E.coli, các Mycoplasma, Newcastle.
Triệu chứng bệnh ở gà
- Gà từ 3 tuần đến hai tháng tuổi bệnh biểu hiện chủ yếu là do ho hen đột
ngột và nhanh chóng lan ra cả đàn. Gà bị sốt rất cao, nước mắt, nước miệng
chảy dàn dụa, nhiều gà phải há miệng thở dốc, rướn cổ để hít khí, có con vảy
mỏ khạc đờm, đờm nhầy đặc đôi khi lẫn máu. Gà bị tụt mào, mào tích thâm
tím hoặc xuất huyết nhưng ít phù nề. Thấy rõ xuất huyết ở dưới da chân, kẽ
ngón chân ở những gà sắp chết. Gà kém ăn nhưng uống nhiều nước, tiêu chảy
phân loãng xanh trắng. Gà hay nằm, run rẩy, đi không vững, đầu cổ co giật,

11

lắc lư. Bệnh thường kéo dài 1- 10 ngày và kết thúc với tỷ lệ chết rất cao 70-
100% (Lê Văn Năm, 2004).
- Ở gà từ 3- 10 tháng tuổi, đặc biệt là gà sắp đẻ và đang đẻ bệnh diễn biến
rất nhanh, luôn ở thể cấp tính và quá cấp tính với các triệu chứng sau: trong

đàn gà khỏe bỗng dưng thấy một số con sốt cao, mào và tích bị thâm tím, phù
nề và xuất huyết. Sau đó khó thở, hay lắc đầu, rướn cổ để hít khí hoặc để khạc
đờm, đờm dãi thường đặc quánh và lẫn máu. Tình trạng đàn gà không bình
thường, có con chạy tán loạn, có con nhảy xốc lên dãy dụa, xoay vòng một
lúc rồi chết. Một số con tự nhiên dãy chết mà không có triệu chứng gì. Các
biểu hiện lâm sàng ở mỗi cá thể gà trong cùng một đàn cũng rất khác nhau.
Gà bệnh thường thấy xuất huyết dưới da chân. Bệnh tiến triển rất nhanh, chỉ
3- 4 giờ đến 1- 2 ngày đã có rất nhiều gà chết. Ở những đàn bệnh kéo dài 2- 3
ngày thì thấy gà hầu như ngừng đẻ và bị rối loạn tiêu hóa rất nặng (Lê Văn
Năm, 2004).





Triệu chứng bệnh ở vịt và ngan
Theo Lê Văn Năm (2004) bệnh thường tập trung ở lứa tuổi 2- 11 tháng tuổi
với các biểu hiện:
- Về hô hấp: Ngan, vịt bị cúm lúc đầu chảy nước mũi, nước mắt, mắt bị
viêm giác mạc và có dừ mắt. Sau đó sốt cao, khó thở, phải há mồm để thở.
- Về tiêu hóa: Ngan, vịt kém ăn hoặc bỏ ăn, tiêu chảy mạnh phân loãng
trắng hoặc loãng xanh, xung quanh lỗ huyệt bẩn, niêm mạc hậu môn bị phù nề
và xuất huyết nặng.
- Về sinh sản: Chỉ 1- 2 ngày sau khi xảy ra bệnh năng suất trứng giảm rõ
rệt thậm chí ngừng đẻ.
- Về thần kinh: Ngan, vịt yếu chân, bại chân, đi không vững, đầu cổ lắc lư,
chúng hay nằm.
Hình 2.2 Xuất huyết ở chân
( Nguyễn Tiến Dũng, 2004)




Hình 2.3 Mào và tích tím tái
(http:// www.cvm.tamu.edu/fadr/disease)



12

2.5.2. Bệnh tích
Bệnh tích đại thể
Mức độ biến đổi của các bệnh tích đại thể phụ thuộc rất nhiều vào độc lực
virus và quá trình diễn biến bệnh.
Virus cúm gà gây bệnh thể nhẹ: Chỉ thấy viêm mũi từ thể cata, tơ huyết
cho đến nhầy mủ (mucopurulent) và bị casein hóa có thể làm tắt đường dẫn
khí gây ngạt thở. Mổ khám thấy khí quản phù nề, đọng nhiều dịch rỉ
(exudates), viêm thanh dịch đến casein, nhiều chất nhầy. Túi khí viêm dày lên
và có nhiều tơ huyết bám dính. Buồng trứng bị viêm xuất huyết, ống dẫn
trứng bị viêm rỉ dịch, trứng non bị dập vỡ. Ruột bị viêm xuất huyết từ cata
đến hóa sợi, nặng nhất là vùng ruột non, manh tràng và hậu môn (Cục Thú y,
2007).




Ngoài ra còn thấy ở gà dạ dày tuyến, van hồi manh tràng, niêm mạc hậu
môn bị viêm xuất huyết từ cata đến fibrin rất nặng (nhưng không phải xuất
huyết ở đỉnh dạ dày tuyến như bệnh Newcastle), thận bị sưng rất to căng
phồng giống như của bệnh viêm phế quản truyền nhiềm (IB). Tụy teo do mất
nước, xoang bao tim có dịch thấm xuất vàng và xuất huyết điểm màng bao

tim. Viêm dính phúc mạc và túi khí. Xuất huyết dưới da và cơ ở vùng đùi,
ngực, bên trong lồng ngực. Xuất huyết mỡ bụng, mỡ bao tim và mỡ màng
treo ruột luôn là bệnh tích đặc trưng. Xuất huyết niêm mạc khí quản và trong
khí quản thường chứa nhiều dịch nhầy (Cục Thú y, 2007).
Bệnh tích vi thể
Xét nghiệm mô học cho thấy có biến đổi ở các mạch máu với các bệnh tích
phù, xuất huyết, gia tăng tế bào bạch cầu mao mạch ngoại vi, đặc biệt là cơ
tim, lách, phổi, não và tích. Các ổ hoại tử có thể quan sát thấy ở thận, gan và
phổi. Ở não có thể quan sát thấy sự triển dưỡng các tế bào hình sao, gia tăng
tế bào bạch cầu ở mạch máu và sự thoái hóa các nơron thần kinh (Cục Thú y,
2007).
Hình 2.4 Khí quản xuất huyết
( />ease)


Hình 2.5 Mở vành tim bị xuất huyết
(Bellsouth Pty. Ltd. and Jim Finger 2004)



13

2.6. Chẩn đoán
Để chẩn đoán chính xác bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao H5N1, chủ yếu
là dựa vào chẩn đoán lâm sàng, dịch tễ học của bệnh kết hợp với chẩn đoán
phòng thí nghiệm.
2.5.1. Chẩn đoán lâm sàng
Chẩn đoán lâm sàng dựa vào tính chất dịch tễ là nhiều loại gia cầm ở mọi
lứa tuổi mẫn cảm với bệnh, lịch sử bệnh trong vùng, nguồn gốc gia cầm bệnh,
tỷ lệ chết cao.

Các triệu chứng điển hình gồm : thở khó, thở dốc, viêm mũi, phù nề mặt
và đầu, phù thũng, xuất huyết ở da chân và ngón chân, triệu chứng thần
kinh,
Bệnh tích ở mào và tích rất điển hình: thâm tím, sưng tấy, phù nề, xuất
huyết. Viêm xuất huyết và hoại tử ở tim, gan, lách, thận, phổi, tuỵ. Xuất
huyết ở mỡ bụng, mỡ tim, mỡ màng treo ruột, niêm mạc hậu môn, dưới da,
cơ đùi, lồng ngực, (Hồ Thị Việt Thu, 2006).
2.6.2. Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân gây bệnh khác như virus
Nevvcastle (ND), CRD, tụ huyết trùng, sưng phù đầu do E. coli, viêm thanh -
khí quản truyền nhiễm, viêm mũi- khí quản gà tây, ngộ độc cấp.

2.6.3. Chẩn đoán phòng thí nghiệm
Chẩn đoán virus hoc
Phương pháp thích hợp để phân lập là tiêm truyền qua phôi gà hoặc tế bào
nuôi cấy. Tiêm 0,1 ml vào túi niệu của phôi gà 9-11 ngày tuổi, phôi được ấp
tiếp ở 37
0
C trong 2-3 ngày. Một số virus có độc lực cao có thể gây chết phôi
gà khoảng 18- 24 giờ, trứng thu hoạch ở nhiệt độ 4
0
C qua 1 đêm. Virus nhân
lên trong nước trứng có hiện tượng ngưng kết hồng cầu gà. Nếu không gây
ngưng kết hồng cầu gà thì có thể lấy nước trứng tiếp tục tiêm cho phôi gà.
Giám định virus phân lập được bằng phản ứng HI, phản ứng ELISA và RT-
PCR. (Hồ Thị Việt Thu, 2011)
Chẩn đoán huyết thanh học
Phản ứng ELISA là xét nghiệm phổ biến dùng để phát hiện kháng thể cúm
trên gà và gà tây. Xét nghiệm HI thường được sử dụng để xác định subtype
HA. Trong huyết thanh của nhiều loài gia cầm có những chất ức chế không

đặc hiệu có thể ảnh hưởng đến tính đặc hiệu của HI và một số xét nghiệm. Do
đó cần loại bỏ các yếu tố này trước khi sử dụng xét nghiệm bằng việc xử lý
với hồng cầu gà. (Hồ Thị Việt Thu, 2011).

×