TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
HÀNG THỊ MINH TRANG
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP MƯỚP, BÍ ĐỎ
VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH TRƯỞNG
VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO
VỤ THU ĐÔNG 2012
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC
Cần Thơ, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP MƯỚP, BÍ ĐỎ
VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH TRƯỞNG
VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO
VỤ THU ĐÔNG 2012
Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS. Trần Thị Ba
ThS. Võ Thị Bích Thủy
Sinh viên thực hiện:
Hàng Thị Minh Trang
MSSV: 3113344
Lớp: TT1119A2
Cần Thơ, 2014
i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
Chứng nhận đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP MƯỚP, BÍ ĐỎ
VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH TRƯỞNG
VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO
VỤ THU ĐÔNG 2012
Do sinh viên Hàng Thị Minh Trang thực hiện.
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Cần Thơ, ngày…. tháng…. năm 2014
Cán bộ hướng dẫn
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ luận văn
nào trước đây.
Cần Thơ, ngày…. tháng…. năm 2014
Tác giả luận văn
Hàng Thị Minh Trang
iii
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành
Nông Học với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP MƯỚP, BÍ ĐỎ
VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH TRƯỞNG
VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO
VỤ THU ĐÔNG 2012
Do sinh viên Hàng Thị Minh Trang thực hiện và bảo vệ trước hội đồng.
Ý kiến của hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp :
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Luận văn tốt nghiệp được hội đồng đánh giá ở mức:………………………………
Cần Thơ, ngày…. tháng…. năm 2014
Thành viên Hội đồng
Thành viên 1 Thành viên 2 Thành viên 3
…………………… …………………… ……………………
DUYỆT KHOA
Trưởng Khoa Nông Nghiệp & SHƯD
iv
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
I. LÝ LỊCH SƠ LƯỢC:
Họ và tên: Hàng Thị Minh Trang Giới tính: Nữ
Ngày, tháng, năm sinh: 13/04/1993 Dân tộc: Kinh
Nơi sinh: huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng
Họ và tên cha: Hàng Văn Tiến Sinh năm: 1966
Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Lệ Thủy Sinh năm: 1972
Địa chỉ liên lạc: số 343 ấp Mỹ Huề, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP:
Năm 1999 đến 2004: học cấp 1, tại trường Tiểu học Nhơn Mỹ 1.
Năm 2004 đến 2008: học cấp 2, tại trường THCS Nhơn Mỹ 1.
Năm 2008 đến 2011: học cấp 3, tại trường THPT Kế Sách.
Năm 2011 đến 2014: sinh viên ngành Nông Học khóa 37, Khoa Nông nghiệp và
SHƯD, Trường Đại học Cần Thơ.
Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
Người khai
Hàng Thị Minh Trang
v
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng!
Cha mẹ đã hết lòng yêu thương, chăm sóc và nuôi dạy con khôn lớn nên
người, luôn tạo điều kiện cho con học tập tốt đến ngày hôm nay.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
- PGS.TS Trần Thị Ba đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, góp ý
và cho những lời khuyên hết sức bổ ích trong việc nghiên cứu và hoàn thành tốt
luận văn này.
- ThS Võ Thị Bích Thủy đã đóng góp những ý kiến quý báu, truyền đạt
những kiến thức xác thực góp phần hoàn chỉnh luận văn.
- Cố vấn học tập cô Quan Thị Ái Liên đã quan tâm, nâng đỡ và dìu dắt lớp
tôi hoàn thành tốt khóa học.
- Quý Thầy, Cô trường Đại học Cần Thơ, khoa Nông nghiệp và Sinh học
Ứng dụng đã tận tình truyền đạt nhiều kiến thức trong suốt khóa học.
Chân thành cảm ơn!
Anh Phan Ngọc Nhí, lớp Cao học Trồng trọt K18 đã đóng góp nhiều ý kiến
về nội dung lẫn hình thức để tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Chị Thanh quản lí nhà lưới cùng các anh chị Phương, Chơn, Hớn, Luân,
Tân, Nhung, Dung, Tường và các bạn Ngộ, Công, Ngân cùng tập thể các bạn
trong nhà lưới rau đã hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Thân gửi về!
Các bạn lớp Nông Học K37 những lời chúc sức khỏe và thành công trong
tương lai!
Hàng Thị Minh Trang
vi
HÀNG THỊ MINH TRANG, 2013 “Ảnh hưởng của gốc ghép mướp, bí đỏ và
bình bát dây đến sinh trưởng và năng suất dưa leo, vụ Thu Đông 2012”. Luận
văn tốt nghiệp Kỹ sư Nông Học, Khoa Nông nghiệp & Sinh học Ứng dụng,
Trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Ba, ThS. Võ Thị
Bích Thủy.
TÓM LƯỢC
Đề tài được thực hiện tại trại thực nghiệm khoa Nông nghiệp và Sinh học
Ứng dụng, Đại học Cần Thơ, vụ Thu Đông từ tháng 9-11/2012 nhằm tìm ra gốc
ghép thích hợp đến sinh trưởng và năng suất của dưa leo. Thí nghiệm được bố trí
theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 4 nghiệm thức với 3 lần lặp lại, bốn
nghiệm thức là dưa leo ghép trên 3 loại gốc ghép và dưa leo không ghép làm đối
chứng: (1) Dưa leo đối chứng-không ghép, (2) Ghép gốc mướp, (3) Ghép gốc bí
đỏ, (4) Ghép gốc bình bát dây. Diện tích thí nghiệm là 75 m
2
. Các chỉ tiêu theo dõi
bao gồm tỷ lệ sống sau khi ghép, sinh trưởng, thành phần năng suất và phẩm chất
trái.
Kết quả cho thấy tỷ lệ sống sau ghép đạt khá cao, hơn 72%. Cây ghép sau
khi trồng ra đồng sinh trưởng và phát triển tương đối tốt, tuy nhiên nghiệm thức
dưa leo ghép gốc mướp có sinh trưởng kém hơn so với các nghiệm thức dưa leo
ghép còn lại. Năng suất thương phẩm của nghiệm thức dưa leo không ghép (20,12
tấn/ha), dưa leo ghép gốc bình bát dây (16,89 tấn/ha) tương đương nhau và cao
hơn so với nghiệm thức dưa leo ghép gốc bí đỏ (12,81 tấn/ha) và dưa leo ghép gốc
mướp (9,62 tấn/ha). Một vài chỉ tiêu về phẩm chất trái: độ cứng, độ Brix, Nitrat và
Vitamin C của dưa leo ghép và dưa leo không ghép tương đương nhau.
vii
MỤC LỤC
Tóm lược vi
Mục lục vii
Danh sách bảng x
Danh sách hình xi
Danh sách chữ viết tắt xii
Mở đầu 1
Chương 1. Lược khảo tài liệu 2
1.1 Khái quát về ngọn ghép dưa leo 2
1.1.1 Nguồn gốc và giá trị dinh dưỡng 2
1.1.2 Đặc tính sinh học 2
1.1.3 Một số loại sâu, bệnh hại chính trên dưa leo 3
1.2 Một số gốc ghép họ dưa bầu bí trên dưa leo 4
1.2.1 Gốc mướp 4
1.2.2 Gốc bí đỏ 5
1.2.3 Gốc bình bát dây 5
1.3 Cơ sở khoa học của việc ghép cây 6
1.3.1 Khái niệm về ghép 6
1.3.2 Mối quan hệ giữa gốc ghép và ngọn ghép 7
1.3.3 Ưu điểm và hạn chế của việc ghép cây 7
1.4 Một số kết quả nghiên cứu về cây ghép họ dưa bầu bí 8
1.4.1 Trên thế giới 8
1.4.2 Tại Việt Nam 9
Chương 2. Phương tiện phương pháp 12
2.1 Phương tiện 12
2.1.1 Địa điểm và thời gian 12
2.1.2 Tình hình khí tượng thủy văn 12
2.1.3 Vật liệu thí nghiệm 12
2.2 Phương pháp 13
2.2.1 Bố trí thí nghiệm: 13
2.2.2 Kỹ thuật canh tác 14
2.2.3 Chỉ tiêu theo dõi 17
2.2.4 Phân tích số liệu 19
viii
Chương 3. Kết quả thảo luận 20
3.1 Ghi nhận tổng quát 20
3.2 Tỉ lệ sống sau ghép 20
3.3 Tình hình sinh trưởng 20
3.3.1 Chiều dài thân chính 20
3.3.2 Số lá trên thân chính 21
3.3.3 Đường kính gốc ghép 21
3.3.4 Đường kính ngọn ghép 22
3.3.5 Tỷ số đường kính gốc ghép/ngọn ghép 23
3.3.6 Kích thước trái 23
3.4 Thành phần năng suất và năng suất 24
3.4.1 Trọng lượng trái 24
3.4.2 Số trái trên cây và số trái thương phẩm trên cây 24
3.4.3 Trọng lượng trái trên cây và trọng lượng trái thương phẩm trên cây 25
3.4.4 Năng suất tổng và năng suất thương phẩm trên cây 26
3.5 Một vài chỉ tiêu về phẩm chất trái 27
3.5.1 Độ cứng và độ Brix 27
3.5.2 Hàm lượng Vitamin C và Nitrate 28
Chương 4. Kết luận và đề nghị 29
4.1 Kết luận 29
4.2 Đề nghị 29
Tài liệu tham khảo 30
Phụ chương
ix
DANH SÁCH BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
2.1 Loại, lượng và thời kỳ bón phân cho dưa leo 17
3.1 Tỷ lệ sống (%) của dưa leo qua 10 ngày sau khi ghép ở các
nghiệm thức 20
3.2 Chiều dài thân chính (cm) của dưa leo ở các nghiệm thức qua
các giai đoạn khảo sát 21
3.3 Số lá trên thân chính của dưa leo ở các nghiệm thức qua các giai
đoạn khảo sát 21
3.4 Đường kính gốc ghép (cm) của dưa leo ở các nghiệm thức qua
các giai đoạn khảo sát 22
3.5 Đường kính ngọn ghép (cm) của dưa leo ở các nghiệm thức qua
các giai đoạn khảo sát
23
3.6 Tỷ số đường kính gốc/ngọn ghép dưa leo ở các nghiệm thức qua
các giai đoạn khảo sát 23
3.7 Kích thước trái (cm) của dưa leo ở các nghiệm thức 24
3.8 Độ cứng (kgf/cm
2
) và độ Brix (%) của dưa leo ở các nghiệm
thức 28
3.9 Hàm lượng vitamin C (mg/100g) và nitrate (mg/kg) của dưa leo
ở các nghiệm thức
28
x
DANH SÁCH HÌNH
Hình Tên hình Trang
2.1 Tình hình thời tiết trong thời gian thí nghiệm tại TP.Cần Thơ
(Đài Khí tượng thủy văn TP.Cần Thơ, 2012) 12
2.2 Quy trình ghép dưa leo trên gốc bí đỏ bằng phương pháp ghép
ghim 15
2.3 Quy trình ghép dưa leo trên gốc mướp, bình bát dây bằng
phương pháp ghép ống cao su
15
2.4 Cây con dưa leo 7 NSKG và cây ghép 12 NSKGh chuẩn bị
trồng 16
3.1 Số trái trên cây (trái/cây) và số trái thương phẩm trên cây
(trái/cây) của dưa leo ở các nghiệm thức 25
3.2 Trọng lượng trái (kg/cây) và trọng lượng trái thương phẩm
(kg/cây) của cây dưa leo ở các nghiệm thức 26
3.3 Năng suất tổng (tấn/ha) và năng suất thương phẩm (tấn/ha) của
dưa leo ở các nghiệm thức 27
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
xi
ĐHCT: Đại học Cần Thơ
NN & SHƯD: Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng
NSKG: Ngày sau khi gieo
NSKGh: Ngày sau khi ghép
NSKT: Ngày sau khi trồng
MỞ ĐẦU
Dưa leo (Cucumis sativus L.) là một trong những loại rau ăn trái được trồng
phổ biến ở nước ta do có thời gian sinh trưởng ngắn, dễ trồng lại mang đến hiệu
quả kinh tế cao. Tuy nhiên, việc canh tác dưa leo liên tục đã tạo điều kiện cho bệnh
hại phát triển, đặc biệt là mầm bệnh trong đất đã gây ra không ít khó khăn cho
người nông dân ở những vùng chuyên canh dưa leo. Mầm bệnh lưu tồn lâu trong
đất gây hại cả ở giai đoạn cây con, lẫn cây trưởng thành của dưa leo mà việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật lại không mang đến hiệu quả, vừa làm tăng chi phí sản
xuất, không đảm bảo được an toàn vệ sinh thực phẩm vừa gây ô nhiễm môi trường.
Trong khi đó, ghép là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp cây trồng tăng khả
năng chống chịu với những điều kiện bất lợi của môi trường mà vẫn giữ được đặc
tính di truyền của cây giống ban đầu. Hiện nay, ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu
về gốc ghép trong việc kháng lại một số mầm bệnh lưu tồn trong đất được áp dụng
thành công và có hiệu quả cao trên các loại rau ăn trái như cà chua (ghép lên gốc
cà tím để kháng bệnh héo rũ do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum) và dưa hấu
(ghép lên gốc bầu để kháng bệnh chạy dây do nấm Fusarium oxysporum). Tuy
nhiên, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về gốc ghép trên dưa leo giúp nông dân có
thể giảm thiểu tác hại do bệnh trong đất gây ra đồng thời đảm bảo được năng suất
và phẩm chất. Chính vì vậy, đề tài “Ảnh hưởng của gốc ghép mướp, bí đỏ và
bình bát dây đến sinh trưởng và năng suất dưa leo vụ Thu Đông 2012” đã
được thực hiện nhằm mục tiêu tìm ra gốc ghép thích hợp cho sinh trưởng và năng
suất của dưa leo, qua đó, tạo cơ sở cho những nghiên cứu trong việc tuyển chọn
gốc ghép phù hợp với loại cây trồng này.
CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGỌN GHÉP DƯA LEO
1.1.1 Nguồn gốc và giá trị dinh dưỡng
Dưa leo có tên khoa học là Cucumis sativus L., tên tiếng Anh là Cucumber,
thuộc họ bầu bí dưa (Cucurbitaceae). Dưa leo được cho là có 2 nhóm nguồn gốc:
nhóm thứ nhất bắt ở Ấn Độ; nhóm thứ hai bắt nguồn ở Việt Nam và tồn tại hàng
nghìn năm nay (Mai Thị Phương Anh, 1996). Cũng có ý kiến cho rằng dưa leo
được trồng ở Trung Quốc từ thế kỷ thứ 6 sau đó được trồng rộng rãi khắp nơi trên
thế giới (Phạm Hồng Cúc và ctv., 2001). Theo Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc
Thi (1999), vùng tập trung dưa leo chủ yếu ở nước ta là đồng bằng và trung du Bắc
Bộ: Vĩnh Phúc, Hà Bắc, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Hà và một số tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.
Theo Bùi Huyền Trang (2013), thì thành phần chủ yếu của dưa leo là nước
(chiếm 9597%), chất khô 35% gồm có chất xơ, vitamin và các nguyên tố vi
lượng. Còn theo Thái Hà (2013), dưa leo chứa nhiều vitamin C, đường, carotene,
protein, sắt, canxi, lân và vitamin E có tác dụng thúc đẩy sự phân chia tế bào và
chống lão hóa. Chất carotene trong dưa leo có tác dụng chống u bướu. Dưa leo vị
ngọt, tính hàn, giúp thanh nhiệt, giải khát, rễ và lá có thể trị sưng đau và chữa ngộ
độc (Võ Văn Chi, 2003). Ngoài ra, dưa leo còn là nguồn hàng xuất khẩu nông sản
có nhiều triển vọng (Đường Hồng Dật, 2003).
1.1.2 Đặc tính sinh học
Dưa leo thuộc nhóm cây ưa nhiệt và rất mẫn cảm với sương giá (Nguyễn Thị
Hường, 2004). Hạt có thể nảy mầm ở nhiệt độ 1213
0
C, nhiệt độ ban ngày thích
hợp cho dưa tăng trưởng là 30
0
C và nhiệt độ ban đêm là 1821
0
C (Trần Khắc Thi
và Trần Ngọc Hùng, 2005), còn nhiệt độ thích hợp cho hệ rễ phát triển là 29
0
C
(Nguyễn Xuân Nguyên, 2004). Theo Phạm Hồng Cúc (2001) thì sự phân nhánh
của dưa leo chịu ảnh hưởng bởi nhiệt độ ban đêm. Nếu nhiệt độ xuống quá thấp,
hạt sẽ không nảy mầm, cây con kém phát triển và có thể chết héo do rễ cây con
không hút được nước từ đất.
Có nhiều ý kiến cho rằng dưa leo là loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn và
yêu cầu về cường độ ánh sáng mạnh (Trần Khắc Thi và Trần Ngọc Hùng, 2005).
Ánh sáng đầy đủ sẽ làm tăng bề dầy của mô, tăng chất diệp lục và thúc đẩy quá
trình quang hợp (Trung Tâm UNESCO Phổ Biến Kiến Thức Văn Hóa Giáo Dục
Cộng Đồng, 2005). Theo Nguyễn Xuân Giao (2012) trong điều kiện ngày ngắn
dưa leo cho ra nhiều lá và trái (số lá rất quan trọng đối với cây, số lá nhiều hay ít
cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của giống (Phạm Thị Minh Tâm,
3
2000). Tuy nhiên, theo Đồng Thanh Liêm (2001) số lá trên thân chính do đặc tính
di truyền của giống quyết định). Cường độ ánh sáng và chất lượng ánh sáng có vai
trò quan trọng trong việc hình thành màu sắc và thời hạn sử dụng trái dưa chuột
(Trần Khắc Thi và ctv., 2008).
Đất trồng thích hợp với dưa leo là đất có thành phần cơ giới nhẹ, độ pH thích
ứng 5,56,5 (Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 1999), độ mặn < 2 phần
nghìn. Nếu được trồng trên đất thịt nhẹ, đất cát pha thường cho năng suất cao và
chất lượng tốt (Bùi Huyền Trang, 2013). Theo Trần Thị Ba và ctv. (1999) bộ rễ
cây dưa leo phát triển yếu, phân bố tập trung ở tầng đất 1520 cm, nên đất trồng
cần cày bừa kỹ, nhỏ, tơi xốp và nhặt sạch cỏ dại (Trần Khắc Thi và Nguyễn Công
Hoan, 2005). Nếu để rễ phát triển kém sẽ ảnh hưởng đến các bộ phận trên mặt đất
làm thân, lá nhỏ và sinh trưởng kém (Tạ Thu Cúc, 2005).
Dưa leo cũng thuộc nhóm tiêu hao nhiều nước (Trung Tâm UNESCO Phổ
Biến Kiến Thức Văn Hóa Giáo Dục Cộng Đồng, 2005), nhưng lại không chịu được
ngập úng do sức hấp thụ của rễ kém, nếu gặp điều kiện ngập úng thì dễ làm bộ rễ trở
nên vàng, khô và thâm đen (Trần Thị Ba và ctv., 1999). Cũng theo Hồ Phương
Quyên (2008), ảnh hưởng bất lợi đầu tiên của sự ngập úng đối với cây trồng là việc
làm giảm sự sinh trưởng của chồi và rễ. Ngoài ra, dưa leo cũng là loại cây trồng chịu
hạn rất yếu, nếu thiếu nước nghiêm trọng sẽ làm cây sinh trưởng kém và tích lũy
chất cucurbitaxin làm trái trở nên đắng (Phạm Hồng Cúc và ctv., 2001).
Tương tự yêu cầu về nước, yêu cầu về ẩm độ của dưa leo rất cao (ẩm độ đất
khoảng 8595%, không khí khoảng 9095%) đứng đầu trong họ bầu bí dưa, nhất
là thời kỳ phát triển của trái (Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 1999). Tuy
nhiên, theo Mai Thị Phương Anh (1996) thân trên lá mầm và lóng thân của cây
trong điều kiện ẩm độ cao có thể thành lập rễ bất định.
Dưa leo có đặc điểm phản ứng nhanh chóng với dinh dưỡng trong đất, nhưng
lại không chịu được nồng độ phân cao. Theo Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi
(1999), dưa leo sử dụng kali với hiệu suất cao nhất, sau đó đến đạm và lân. Tuy
nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cơ cấu phân bón cho dưa leo cần nhiều đạm, ít lân,
ít kali và cần nhiều phân vi lượng (Bùi Huyền Trang, 2013).
1.1.3 Một số loại sâu, bệnh hại chính trên dưa leo
*Bọ trĩ (Thrips palmi): Trùng của bọ trĩ rất nhỏ và có màu trắng vàng tập
trung thành ổ ở đốt non hoặc mặt dưới lá non để hút nhựa đôi khi còn cạp cả mô lá
hoặc cây. Lá cây bị bù lạch gây hại sẽ có dạng quăn queo, lá non biến dạng và bị
cong xuống phía dưới (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004).
4
*Rệp muội hay còn gọi là rầy mềm (Aphis gossypi): Rệp trưởng thành và rệp
non thường rất nhỏ, dài dưới 1 mm và thân rất mềm. Rệp sống tập trung thành đám
ở ngọn và mặt dưới lá non, chít hút nhựa làm đọt chùn lại, cây sinh trưởng kém, mật
độ rệp cao có thể làm khô lá. Ổ rệp thường tiết ra dịch mật do đó thu hút kiến, Loại
mật này cũng là môi trường dinh dưỡng cho nấm muội sinh trưởng. Rệp muội là tác
nhân lan truyền bệnh khảm virus cho cây dưa (Nguyễn Xuân Giao, 2012).
*Bọ dưa (Aulacophora similis): Thành trùng có cánh cứng, màu vàng cam,
hình bầu dục dài 67 mm, sống lâu 23 tháng, chúng đẻ trứng dưới đất quanh gốc
cây dưa. Ấu trùng có màu vàng lợt, đục vào trong gốc cây dưa làm cây héo chết.
Bọ trưởng thành hoạt động lúc sáng sớm và chiều mát. Bọ có tập tính ăn cạp lớp
biểu bì dưới mặt lá thành một đường vòng làm lá bị thủng thành những lỗ tròn.
(Bùi Huyền Trang, 2013).
*Bệnh héo rũ (do nấm Fusarium oxysporum): bệnh thường xảy ra ở giai
đoạn cây có trái non trở về sau. Cây bị héo từng nhánh sau đó bị héo đột ngột như
bị thiếu nước rồi chết cả cây, cắt ngang phần thân gần gốc thấy bó mạch màu nâu
xám, thường trên vết bệnh có bao phủ lớp nấm trắng thưa. Cây bị bệnh có bộ rễ
phát triển kém, rễ bị thối dần. Bệnh có liên quan đến tuyến trùng và ẩm độ đất
(Nguyễn Xuân Giao, 2012).
*Bệnh thán thư (do nấm Collectotrichum lagenarium): Trên lá vết bệnh có
hình hơi tròn, màu nâu vàng, có những vòng tròn màu nâu sẫm, vết bệnh khô dần
đi và rách vỡ. Trên thân, bệnh tạo thành các vết màu nâu, hơi lõm. Trên quả vết
bệnh hơi tròn, lõm vào da, bệnh nặng các vết này liên kết lại thành mảng to gây
thối trái. Bệnh xuất hiện nặng vào thời điểm trồng dưa sớm vụ Noel do trời còn
mưa hoặc ruộng tưới quá nhiều nước, ẩm độ cao (Bùi Huyền Trang, 2013).
*Bệnh đốm phấn, sương mai (do nấm Pseudoperonospora cubensis): Triệu
chứng thể hiện đầu tiên trên lá, ban đầu là những đốm vàng có góc cạnh sau
chuyển sang nâu khi vết bệnh già (Trần Khắc Thi và ctv., 2008). Lúc sáng sớm
quan sát kỹ thấy mặt dưới lá có tơ nấm màu trắng, vết bệnh lúc già rất giòn, dễ
rách lá. Bệnh thường phát triển mạnh vào thời điểm ẩm độ cao, nhất là gặp mưa
liên tục (Mai Thị Phương Anh, 1996).
1.2 MỘT SỐ GỐC GHÉP HỌ BẦU BÍ DƯA TRÊN DƯA LEO
1.2.1 Gốc mướp
Mướp (Luffa cylindrical L.) thuộc họ bầu bí dưa (Cucurbitaceae) là một loại
cây thân thảo dạng dây leo, có nhiều tua cuốn và phân cành mạnh. Cây có thời
gian sinh trưởng dài, bộ rễ phát triển mạnh, nên cần có tầng canh tác dày, tốt nhất
5
là 40 cm trở lên, ít nhất là 30 cm (Đường Hồng Dật, 2003). Trên thân có thể ra
nhiều rễ phụ.
Mướp là loại cây ưa khí hậu nóng ẩm, cần ánh sáng nhiều, khả năng chịu hạn
tốt. Mướp trồng được trên nhiều loại đất, nhiều mùn, giữ ẩm nhưng thoát nước
(Bùi Huyền Trang, 2013). Do diện tích thân lá lớn nên cây mướp sử dụng nhiều
nước và chất dinh dưỡng. Nhu cầu đạm, lân, kali nói chung đều cao. Đặc biệt là
đạm, nếu thiếu đạm cây sẽ sinh trưởng kém, trái ít và nhỏ, năng suất giảm rõ rệt
(Nguyễn Mạnh Chinh và Phạm Anh Cường, 2007). Ngoài ra, trong quả mướp còn
chứa nhiều đường, vitamin B
1
, vitamin C và citrulline (Hà Linh, 2009).
1.2.2 Gốc bí đỏ
Bí đỏ (Cucurbita pepo) còn được gọi là bí ngô hay bí rợ thuộc họ bầu bí dưa
(Cucurbitaceae) là loại cây thân thảo sống được quanh năm. Nhiệt độ thích hợp
cho sinh trưởng của bí đỏ là 2030
0
C (Trần Thế Tục và Nguyễn Ngọc Kính,
2004). Yêu cầu về ánh sáng và cường độ ánh sáng mạnh, nếu thiếu ánh sáng cây sẽ
ít ra hoa. Cây có bộ rễ phát triển mạnh, rễ chính ăn sâu và lan rộng nên có thể
chống hạn và chống úng rất tốt. Ngoài ra, thân bí đỏ còn có khả năng ra rễ bất định
ở đốt (Phạm Hồng Cúc, 2001). Theo Nguyễn Thị Minh Phương (2008) bí đỏ ưa
đất tốt, giàu mùn, tơi xốp có cấu tượng nhẹ, dễ thoát nước. Tuy nhiên, theo Bùi
Huyền Trang (2013), có thể trồng bí đỏ trên nhiều loại đất, từ đất sét nặng đến đất
cát pha. Đất trồng phải cày sâu, hoặc cuốn lật, phơi cho chết cỏ, độ pH thích hợp
của đất là 5,57,5. Ẩm độ duy trì ở mức 5060% độ ẩm của đồng ruộng (Trịnh
Thu Hương, 2003). Theo Hà Linh (2009) bí đỏ là loại rau tương đối bổ dưỡng,
gồm nhiều loại axid amin quan trọng (như leucin, tyrosin, peporesin), các chất
khoáng và vitamin (như các vitamin A, B, C…)
1.2.3 Gốc bình bát dây
Bình bát dây (Coccinia cordifolia (L.) Cogn.) thuộc họ bầu bí
(Cucurbitaceae), có tên khác là rau mảnh bát, hoa bát, dây mảnh bát hay dưa dại
là loại cây đa niên thân thảo nhẵn, mọc leo cao và sinh trưởng nhanh (Phan Ngọc
Nhí, 2013). Cây có rễ khỏe, thân mọng nước, có củ, nên chống chịu tốt với điều
kiện thời tiết hạn kéo dài, và sinh trưởng mạnh hơn các cây thuộc họ bầu bí khác.
Lá mọc xen kẽ trên thân và có hình 5 cạnh, có răng cưa, rộng 58 cm, hình tim ở
gốc, rất nhẵn, chia 5 thùy hình tam giác, có mũi nhọn cứng, tua cuốn đơn. Bề mặt
trên của lá không có lông, nhưng bề mặt dưới thì có (Csurhes Steve, 2008). Hoa
màu trắng, hoa đực và hoa cái giống nhau, mọc đơn độc hay xếp lại hai cái một ở
nách lá, có cuống dài 2 cm. Hoa lớn có hình ngôi sao, đài hoa có 5 cánh, cuống
hoa dài từ 15 cm (Võ Văn Chi, 2003). Cây thường trổ hoa vào tháng 8-9 hàng
năm và thường không tự thụ nên phải nhờ côn trùng thụ phấn. Quả hình trứng
6
ngược hoặc thuôn, dài 5 cm, rộng 2,5 cm, khi chín có màu đỏ, thịt quả đỏ và chứa
nhiều hạt. Hạt màu vàng nâu kích thước 67 mm, hạt không có miên trạng và
thường nảy mầm trong vòng 24 tuần ở 20
0
C (Pier, 2011). Theo Võ Văn Chi
(2003), lá non và trái của bình bát dây có thể làm rau ăn, thân cây nấu lấy nước
tắm trị được ghẻ, rễ và củ thì có tác dụng tẩy trừ giun sán. Từ những đặc điểm trên
cho thấy gốc bình bát dây có nhiều triển vọng để sử dụng làm gốc ghép.
1.3 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GHÉP CÂY
1.3.1 Khái niệm về ghép
Theo Trần Thế Tục và Hoàng Ngọc Thuận (1997) ghép là sự kết hợp một bộ
phận của cây này với một bộ phận của cây khác, tạo thành một tổ hợp ghép, cùng
sinh trưởng và phát triển như là một cây thống nhất. Theo Phạm Văn Côn (2007)
ghép là một phương pháp nhân giống vô tính được thực hiện bằng cách đem gắn
một phần của cây giống (gọi là cành ghép) sang một cây khác (gọi là gốc ghép),
thông qua việc áp sát mô phân sinh ngang (tượng tầng) để tạo nên một cây mới
(sống cộng sinh) và giữ được những đặc tính di truyền của cây giống ban đầu cũng
như là những đặc tính chống chịu quý của gốc ghép. Nguyễn Duy Minh (2009)
cũng cho rằng ghép cây là kỹ thuật nối liền 2 phần của 2 cây khác nhau để chúng
hợp nhất và tiếp tục sinh trưởng như một cây hoàn chỉnh. Một trong 2 phần đó–
cành ghép là phần cây mà người ta muốn nhân giống. Phần cây này ghép vào thân
một cây khác, người ta gọi là “gốc ghép” hay “thân chủ”.
Sau khi áp sát tượng tầng của gốc ghép và ngọn ghép lại với nhau, nhờ sự
hoạt động và khả năng tái sinh của tượng tầng sẽ làm cho gốc ghép và ngọn ghép
gắn liền lại. Các mô mềm ở chỗ tiếp xúc giữa gốc và ngọn ghép do tượng tầng sinh
ra phân hóa thành các hệ thống mạch dẫn (bó libe và bó mạch gỗ) do đó nhựa
nguyên và nhựa luyện lưu được lưu thong giữa gốc và ngọn ghép, cây ghép sẽ phát
triển bình thường. Cũng có ý kiến cho rằng việc kết hợp giữa ngọn ghép và gốc
ghép gồm bốn bước như sau:
- Áp sát phần tượng tầng của gốc và ngọn ghép với nhau;
- Lớp tế bào tượng tầng ngoài của gốc ghép và ngọn ghép tạo ra những tế
bào nhu mô dính lại với nhau, gọi là mô sẹo;
- Các tế bào nhu mô của mô sẹo phân hóa thành những tế bào tượng tầng
mới, kết hợp với tượng tầng nguyên thủy của gốc và ngọn ghép;
- Các tế bào tượng tầng mới tạo ra những mô mạch mới, gỗ bên trong và
libe bên ngoài, hình thành sự kết hợp mạch giữa gốc và ngọn ghép giúp dinh
dưỡng và nước được lưu thông qua lại với nhau (Nguyễn Bá Phú và ctv., 2010).
7
1.3.2 Mối quan hệ giữa gốc ghép và ngọn ghép
Gốc và ngọn có sự kết hợp chặc chẽ hay không là do sức tiếp hợp và mối liên
hệ dẫn truyền của chúng quyết định. Nếu gốc và ngọn hình thành lớp tiếp hợp càng
chặt chẽ, chất dinh dưỡng càng đầy đủ thì sự kết hợp càng được củng cố, sự trao
đổi chất dinh dưỡng giữa gốc và ngọn càng dễ dàng. Thông thường, sức tiếp hợp
của ngọn ghép và gốc ghép được đánh giá bằng tỷ số tiếp hợp T (là tỷ số của
đường kính gốc ghép trên đường kính ngọn ghép):
T = 1 : cây ghép sinh trưởng, phát triển bình thường là do thế sinh trưởng của
ngọn ghép tương đương thế sinh trưởng gốc ghép.
T > 1: cây ghép có hiện tượng chân voi (gốc lớn hơn thân), cây ghép vẫn sinh
trưởng bình thường. Tuy nhiên, T càng gần 1 thì càng tốt hơn T càng xa 1. T càng
xa 1 thế sinh trưởng của ngọn ghép yếu hơn gốc ghép, biểu hiện cây ghép hơi cằn
cỗi, chậm lớn, lá hơi vàng, phần gốc ghép vỏ nứt nhiều.
T < 1: cây ghép có hiện tượng chân hương (gốc nhỏ hơn thân). Thế sinh
trưởng của ngọn mạnh hơn gốc. Phần ngọn bị nứt vỏ nhiều hơn gốc, cây ghép sinh
trưởng kém dần, tuổi thọ kém (Phạm Văn Côn, 2007).
Trần Thế Tục (1998) cho rằng gốc ghép tuy không gây ảnh hưởng lớn đến
tính di truyền của ngọn ghép nhưng nó có thể ảnh hưởng đến sinh trưởng, sự ra
hoa kết quả, khả năng chịu hạn, chịu úng và khả năng kháng lại một số mầm bệnh
của ngọn ghép.
1.3.3 Ưu điểm và hạn chế của việc ghép cây
*Ưu điểm
Việc sử dụng phương pháp ghép sẽ tránh được những bệnh từ đất, chống lại
những bất lợi của môi trường và cải thiện chất lượng sản phẩm. Ghép một chồi
ngọn vào một gốc kháng bệnh có thể cung cấp một cây trồng kháng bệnh mà
không cần lai tạo để sàng lọc và lựa chọn tính kháng vào một cây trồng. Ghép dưa
là biện pháp hữu hiệu và kinh tế nhất để có thể trồng dưa liên tục mỗi năm mà cây
con không bị chết héo do nấm Fusarium tấn công (Phạm Hồng Cúc, 2002). Lí do
ghép bầu bí dưa là tránh những bệnh phát sinh từ đất khi quản lý bệnh từ di truyền
học hoặc hóa học thì gần như có giá trị (Oda, 2002). Theo Trần Thế Tục (1998)
các ưu điểm của cây ghép gồm:
- Cây ghép sinh trưởng phát triển tốt nhờ sự phát triển, hoạt động tốt của
bộ rễ gốc ghép và khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, đất đai của cây gốc
ghép
8
- Cây ghép giữ được những đặc tính của cây giống muốn nhân
- Tăng cường khả năng chống chịu của cây đối với những điều kiện ngoại
cảnh bất thuận như hạn, úng, rét, sâu bệnh…
- Điều tiết sự sinh trưởng của cây ghép. Khi chọn được những tổ hợp
ghép thích hợp có thể điều chỉnh cây cao hay lùn đi.
Theo Lee et al. (2010), lợi ích của việc sử dụng gốc ghép dưa bầu bí là: tăng
cường sức sống cho cây trồng, tăng năng suất trong điều kiện có sự hiện diện của tác
nhân gây bệnh trong đất, tăng khả năng chống chịu trước một số điều kiện bất lợi
của môi trường, giúp cây trồng kháng lại các tác nhân gây bệnh trong đất. Gốc ghép
cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng chịu đựng nhiệt độ cao (Rivero et al., 2003),
stress do muối cao trong đất và gia tăng sự hấp thu nước và chất dinh dưỡng của
ngọn ghép.
*Hạn chế
Giá thành cây ghép cao hơn cây không ghép và thời gian sinh trưởng của cây
ghép chậm hơn cây trồng từ rễ là 12 tuần. Theo Lê Thị Thủy (2000) khi chăm sóc
cây ghép trên đồng ruộng cần chú ý một vài đặc điểm như: độ sâu cây trồng, chồi
nách của gốc ghép… nên canh tác phức tạp, tốn công hơn và cần bố trí cho từng
thời vụ thích hợp. Theo Davis et al. (2008) gốc ghép có thể bị vô hiệu bởi sự xuất
hiện các bệnh trong đất mới xuất hiện hoặc sâu bệnh và những thay đổi về chất
lượng trái. Việt Chương (1999) cũng cho rằng cây ghép thì mau già cỗi hơn cây
được trồng bằng hột.
1.4 MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CÂY GHÉP HỌ BẦU BÍ DƯA
1.4.1 Trên thế giới
Ghép rau đã được ghi nhận trong sách vào thế kỉ thứ 5 tại Trung Quốc trên
gốc bầu. Ngày nay ghép cây trong sản xuất rau trở thành một kỹ thuật canh tác phổ
biến ở nhiều nơi trên thế giới (Trần Thị Ba, 2010). Theo Masic and Jaske (2010)
Nhật Bản và Hàn Quốc là 2 nước đầu tiên sử dụng máy móc để ghép rau.
Việc trồng cây ghép thực sự trở thành công nghệ trong sản xuất nông nghiệp
được tiến hành ở Nhật Bản và Hàn Quốc vào cuối thập niên 20 với gốc ghép đầu
tiên là cho cây dưa hấu và sử dụng họ bầu bí làm gốc ghép. Vào năm 1950, Pháp
bắt đầu nghiên cứu về bầu bí dưa ghép, với việc ghép chồi dưa leo và dưa lê vào
gốc bí để kiểm soát bệnh héo rũ do nấm Fusarium oxysporum gây ra. Nghiên cứu
về dưa leo ghép bắt đầu vào cuối những năm 1920 nhưng cho đến năm 1960 mới
thực sự có ý nghĩa thương mại. Cũng vào năm 1960, dưa lê được ghép lên gốc bí
đao. Tại Tây Ban Nha, nghiên cứu về dưa lê và dưa hấu ghép bắt đầu vào năm
9
1976 và được thương mại hóa vào cuối những năm 1980 (Lê Huỳnh Thái Như,
2012). Hơn thế nữa, ghép rau cũng đã được người dân ở tỉnh Phúc Kiến (Trung
Quốc) ứng dụng để cứu nguy cho 5.000 ha dưa hấu bị bệnh héo Fusarium (Lê
Đông Phương, 2008). Còn các vùng miền Bắc Nhật Bản, người dân thường sử
dụng giống bầu nậm (Lagernaria) để làm gốc ghép cho dưa hấu vì gốc bầu giúp vỏ
dưa hấu mỏng hơn, tăng hàm lượng đường nhiều hơn gốc ghép là bí ngô. Phạm
Hồng Cúc (2002) cũng nhận định ghép là biện pháp hữu hiệu nhất để có thể trồng
dưa liên tục trong nhiều vụ mà cây dưa không bị bệnh héo do nấm Fusarium
oxysporum.
1.4.2 Tại Việt Nam
Ở nước ta trong những năm gần đây cũng đã áp dụng các kỹ thuật ghép để
nâng cao năng suất và khả năng kháng bệnh cho cây dưa. Phương pháp ghép dưa
hấu ở tỉnh Sóc Trăng (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú) đã được người dân áp dụng
rộng rãi trong sản xuất đại trà từ hơn 20 năm qua (Trần Thị Ba, 1999). Phương
pháp này cũng được áp dụng tại các tỉnh Kiên Giang, Trà Vinh, Tiền Giang để
phòng chống bệnh héo cây do nấm Fusarium trên dưa hấu (Ngô Quang Vinh và
ctv., 2006).
Kết quả nghiên cứu tại trường Đại Học Cần Thơ cho thấy tỉ lệ sống của cây
con dưa hấu ghép khá cao, thấp nhất (70%) ở gốc ghép bí Nhật và cao tương
đương nhau ở gốc ghép bầu Nhật và bầu địa phương (8587%). Bầu Nhật 1 và bí
Nhật là các giống bầu và bí đỏ của Nhật chuyên dùng làm gốc ghép, đã thương mại
hóa do công ty Kurume cung cấp, có đặc tính kháng bệnh héo rũ do nấm
Fusarium, dễ đậu trái và tăng năng suất hơn dưa trồng không ghép mà vẫn giữ
nguyên chất lượng trái dưa hấu trong khi dưa hấu ghép gốc bầu địa phương thì kết
trái kém hơn (Trần Thị Ba, 2010). Nghiên cứu của Đinh Thị Kiều Trang (2012) về
ảnh hưởng của bốn phương pháp ghép đến sinh trưởng và năng suất của dưa leo có
tỷ lệ sống sau ghép cao, trong đó nghiệm thức ghép dưa leo trên gốc bầu bằng
phương pháp ghép đỉnh và ghép thân, cắt đọt (lần lượt là 93,44%; 97,5%) cho tỷ lệ
sống sau ghép cao hơn phương pháp ghép đỉnh và ghép thân, bẻ đọt (lần lượt là
87,14%; 90,91%); về sinh trưởng nghiệm thức dưa leo ghép gốc bầu bằng phương
pháp ghép đỉnh có phần mạnh hơn so với dưa leo ghép thân và không ghép.
Nghiên cứu của Trương Thái Chơn (2013) về khảo sát ảnh hưởng của gốc
ghép bí đỏ và bình bát dây lên sự sinh trưởng và năng suất của khổ qua, vụ Hè Thu
2012, kết quả cho thấy nghiệm thức khổ qua không ghép và khổ qua ghép trên gốc
bí đỏ có sự sinh trưởng vượt trội hơn về thân, lá so với nghiệm thức dưa leo ghép
trên gốc bình bát dây . Tuy nhiên, theo Nguyễn Thanh Thức (2011) nghiên cứu
trên cây dưa leo cho rằng ghép các giống dưa bầu bí ghép trên gốc bình bát dây
10
cho kết quả cây sinh trưởng mạnh, đạt năng suất trái cao: Dưa lê 3,13 kg/cây, dưa
leo 3,90 kg/cây, mướp 6,29 kg/cây, khổ qua 3,04 kg/cây, bí đỏ hạt đậu 4,31kg/cây
và bầu hồ lô 5,03 kg/cây.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Tân (2013), Ảnh hưởng của gốc ghép
bầu Nhật, mướp và bình bát dây đến sinh trưởng và năng suất của dưa leo, vụ Hè
Thu 2012. Kết quả cho thấy, về năng suất, nghiệm thức dưa leo ghép trên gốc
mướp (26,26 tấn/ha ) cao nhất, khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với các
nghiệm thức ghép trên gốc bình bát dây, gốc bầu Nhật và đối chứng không ghép.
Cùng khuynh hướng về năng suất, nghiên cứu của Nguyễn Hòa Phương (2013) về
ảnh hưởng của gốc ghép mướp, bí đỏ và bầu địa phương đến sinh trưởng và năng
suất của dưa leo, vụ Hè Thu 2012, nghiệm thức dưa leo ghép gốc mướp, ghép gốc
bí đỏ và dưa leo không ghép cao hơn 1,461,79 lần dưa leo ghép trên gốc bầu địa
phương. Tương tự như kết quả của Nguyễn Minh Tân, Trần Trung Tính (2010)
thực hiện thí nghiệm đánh giá hiệu quả của gốc ghép lên năng suất và phẩm chất
dưa hấu F1 Thành Long TN 552 tại Hậu Giang và Bạc Liêu đã kết luận năng suất
dưa hấu ghép trên các loại gốc ghép bầu, bí có sự khác biệt qua phân tích thống kê.
Cụ thể ở Hậu Giang, năng suất dưa hấu cao nhất là ở nghiệm thức ghép trên gốc
bầu (bầu Nhật 1, bầu Nhật 2, bầu Nhật 3, bầu địa phương) dao động từ 17,920,7
tấn/ha, kế đến là đối chứng (16,4 tấn/ha) và thấp nhất là ở nghiệm thức ghép trên
gốc bí đỏ Nhật (10,4 tấn/ha). Kết quả trên cũng được tìm thấy tương tự khi thực
hiện thí nghiệm ở Bạc Liêu. Reid và Klotzbach (2010), khi nghiên cứu về gốc
ghép trên dưa leo trong nhà kính cho thấy, năng suất dưa leo ghép cao hơn từ
1,12,6 lần so với dưa leo không ghép. Mạch Thanh Sang (2012) khi nghiên cứu
về sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng của ba giống dưa hấu nhập nội ghép
trên gốc bầu và không ghép, kết quả cho thấy, năng suất thương phẩm của dưa hấu
ghép là 23,51 tấn/ha cao hơn 7,55% so với dưa hấu không ghép (21,86 tấn/ha) và
thời gian lưu tồn trử trái (17 ngày) cũng lâu hơn 6 ngày so với dưa hấu không
ghép. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung (2013) về ảnh hưởng
của gốc ghép bí đỏ, mướp, bình bát dây đến sinh trưởng và năng suất của dưa leo
vụ Xuân Hè cũng cho thấy năng suất thương phẩm của dưa leo không ghép (33,23
tấn/ha), dưa leo ghép gốc bí đỏ (26,04 tấn/ha), dưa leo ghép gốc mướp (32,71
tấn/ha), dưa leo ghép gốc bình bát dây (30,21 tấn/ha) tương đương nhau.
Kết quả nghiên cứu của Lê Thanh Duy (2012) về ảnh hưởng của vị trí ghép
trên gốc bình bát dây lên khả năng sinh trưởng của dưa lê Kim Cô Nương. Kết quả
cho thấy trong thời gian đầu nghiệm thức ngọn dưa lê tại nách lá thứ 4, và thứ 5
của bình bát dây phát triển tốt, nhưng về sau nghiệm thức ghép ở vị trí hai lá mầm
cho sinh trưởng về thân, lá; kích thước trái, và trọng lượng trung bình trái lớn nhất,
khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại.
11
Nghiên cứu của Bùi Thị Mỹ Tiên (2013) về khảo sát sự tương thích và khả
năng chịu ngập úng của khổ qua ghép trên gốc bình bát dây và gốc mướp cho thấy,
khổ qua ghép trên gốc mướp có tỷ lệ sống ở 8 ngày sau khi ngập là 100% cao nhất
và đối chứng không ghép là 0% thấp nhất. Nghiệm thức khổ qua ghép gốc mướp
có chỉ số thiệt hại lá vàng (52,60%) thấp nhất, kế đến là khổ qua ghép gốc bình bát
dây (12,50%) và cao nhất là khổ qua không ghép (99,66%).
Ngoài ra, nghiên cứu của Lê Văn Mắc (2007) về khả năng kháng bệnh héo
rũ trên dưa hấu do nấm Fusarium oxysporum cho thấy: dưa hấu ghép trên các loại
gốc ghép bầu nhật, bầu địa phương, bí đỏ nhật có tỷ lệ nhiễm bệnh (2,785,56%) ít
hơn so với nghiệm thức đối chứng không ghép (25%). Kết quả tương tự được tìm
thấy trong nghiên cứu cứu của Phan Ngọc Nhí (2013) về ảnh hưởng của gốc ghép
dưa bầu bí đến khả năng kháng bệnh héo rũ do nấm Fusarium oxysporum trên dưa
leo, được thực hiện trong nhà lưới, kết quả cho thấy tỷ lệ cây ghép bị nhiễm bệnh
không đáng kể (<4,44%) trong khi toàn bộ cây không ghép chết hoàn toàn ở giai
đoạn 34 ngày sau khi gây bệnh. Tương tự, Trần Thị Hồng Thơi (2007) nghiên cứu
về khả năng chống chịu của một số loại gốc ghép đối với bệnh héo rũ dưa hấu do
nấm Fusarium oxysporum gây ra. Kết quả thí nghiệm cho thấy ở giai đoạn 49
NSKT, tỷ lệ cây bệnh nhiều nhất là đối chứng (dưa hấu không ghép) 30,6% có
khác biệt qua phân tích thống kê ở mức ý nghĩa 1% so với các nghiệm thức có sử
dụng gốc ghép: bầu Nhật 1 (5,6%), bầu Nhật 2 (5,6%), bầu Nhật 3 (5,6%), bầu địa
phương (5,6%), bí đỏ Nhật (0,0%), bí đỏ địa phương (13,0%).
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 PHƯƠNG TIỆN
2.1.1 Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: Trại thực nghiệm Khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng dụng,
trường Đại học Cần Thơ (Khoa NN & SHƯD).
- Thời gian: từ tháng 9 đến tháng 11/2012 (vụ Thu Đông).
2.1.2 Tình hình khí tượng thủy văn
Thí nghiệm được tiến hành vào giữa mùa mưa (tháng 911/2012) nên ẩm độ
và lượng mưa giữa các tháng tương đối lớn. Ẩm độ dao động từ 81,0088,00%,
lượng mưa dao động từ 15,80299,70 mm, riêng nhiệt độ biến thiên từ
26,6028,30
0
C, trung bình là 27,45
0
C.
26,60
27,60
28,30
88,00
84,00
81,00
15,80
200,60
299,70
0
30
60
90
120
Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11
Thời gian thí nghiệm (tháng)
Nhiệt độ (°C) và ẩm độ (%)
0
105
210
315
420
Lượng mưa (mm)
Nhiệt độ (°C) Ẩm độ (%) Lượng mưa (mm)
Hình 2.1 Tình hình thời tiết trong thời gian thực hiện thí nghiệm tại TP. Cần Thơ
(Đài Khí tượng thủy văn TP. Cần Thơ, 2012)
2.1.3 Vật liệu thí nghiệm
- Giống
* Ngọn ghép: Giống dưa leo TN123 F
1
do công ty giống cây trồng Trang
Nông phân phối với đặc tính sinh trưởng mạnh, trồng được quanh năm, trái suông