TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
NGUYỄN MINH TÂN
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP BẦU NHẬT,
MƯỚP VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO
VỤ HÈ THU 2012
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT
Cần Thơ, 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP BẦU NHẬT,
MƯỚP VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO
VỤ HÈ THU 2012
Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
PGS.TS TRẦN THỊ BA NGUYỄN MINH TÂN
ThS. VÕ THỊ BÍCH THỦY MSSV: 3103364
Lớp: Trồng Trọt K36
Cần Thơ, 2013
ii
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Trồng Trọt, với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP BẦU NHẬT,
MƯỚP VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO,
VỤ HÈ THU 2012
Do sinh viên Nguyễn Minh Tân thực hiện.
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Cần thơ, ngày…. tháng…. năm 2013
Cán bộ hướng dẫn
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ luận văn
nào trước đây.
Cần thơ, ngày…. tháng…. năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Tân
iv
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành
Trồng Trọt với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP BẦU NHẬT,
MƯỚP VÀ BÌNH BÁT DÂY ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT DƯA LEO,
VỤ HÈ THU 2012
Do sinh viên Nguyễn Minh Tân thực hiện và bảo vệ trước hội đồng.
Ý kiến của hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp :
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Luận văn tốt nghiệp được hội đồng đánh giá ở mức:………………………………
Cần Thơ, ngày…. tháng…. năm 2013
Thành viên Hội đồng
Thành viên 1 Thành viên 2 Thành viên 3
…………………… …………………… ……………………
DUYỆT KHOA
Trưởng Khoa Nông Nghiệp & SHƯD
v
TIỂU SỬ CẢ NHÂN
I. LÝ LỊCH SƠ LƯỢC:
Họ và tên: Nguyễn Minh Tân Giới tính: Nam
Ngày, tháng, năm sinh: 15/05/1992 Dân tộc: Kinh
Nơi sinh: huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng
Họ và tên cha: Nguyễn Khởi Nghĩa Sinh năm: 1969
Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Hồng Lê Sinh năm: 1970
Địa chỉ liên lạc: số 90, tổ 6 ấp An Định, thị Trấn Kế Sách, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc
Trăng
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP:
Năm 1998 đến 2003: học cấp 1, tại trường Tiểu học Kế Sách 1.
Năm 2003 đến 2007: học cấp 2, tại trường THCS Kế Sách 2.
Năm 2007 đến 2010: học cấp 3, tại trường THPT Kế Sách 3.
Năm 2010 đến 2014: sinh viên ngành Trồng Trọt khóa 36, Khoa Nông nghiệp và
SHƯD, Trường Đại học Cần Thơ.
Cần thơ, ngày tháng năm 2013
Người khai
Nguyễn Minh Tân
vi
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng!
Cha mẹ đã hết lòng nuôi nấng và dạy dỗ con khôn lớn nên người.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
- PGS.TS Trần Thị Ba đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, góp ý
và cho những lời khuyên hết sức bổ ích trong việc nghiên cứu và hoàn thành tốt
luận văn này.
- ThS Võ Thị Bích Thủy đã đóng góp những ý kiến quý báu, xác thực góp
phần hoàn chỉnh luận văn.
- Cố vấn học tập thầy Lê Vĩnh Thúc đã quan tâm và dìu dắt lớp tôi hoàn
thành tốt khóa học.
- Quý Thầy, Cô trường Đại học Cần Thơ, khoa Nông nghiệp và Sinh học
Ứng dụng đã tận tình truyền đạt nhiều kiến thức trong suốt khóa học.
Chân thành cảm ơn!
Anh Phan Ngọc Nhí, chị Lý Hương Thanh lớp Cao học Trồng trọt K18 đã
đóng góp nhiều ý kiến quan trọng về nội dung lẫn hình thức để tôi hoàn thành tốt
luận văn này.
Anh Toàn, chị Thảo cùng các bạn Phương, Chơn, Hớn, Luân, Tiên, Trâm,
Giang, Vinh, Nhã, Hồng, Nhung, Dung, Tường, tập thể các bạn trong nhà lưới rau
và các bạn lớp Trồng trọt K36 đã hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.
Thân gửi về!
Các bạn của tôi những lời chúc sức khỏe và thành công trong tương lai!
Nguyễn Minh Tân
vii
NGUYỄN MINH TÂN, 2013 “Ảnh hưởng của gốc ghép bầu Nhật, mướp và
bình bát dây đến sinh trưởng và năng suất dưa leo, vụ Hè Thu 2012”. Luận văn
tốt nghiệp kỹ sư Trồng trọt, Khoa Nông nghiệp & Sinh học Ứng dụng, Trường Đại
học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Ba, ThS. Võ Thị Bích Thủy.
TÓM LƯỢC
Đề tài được thực hiện tại trại thực nghiệm khoa Nông nghiệp và Sinh học
Ứng dụng từ tháng 6-8/2012 nhằm mục đích tìm ra gốc ghép thích hợp cho ngọn
dưa leo có khả năng sinh trưởng mạnh và cho năng suất cao trên ba loại gốc ghép
bầu Nhật, mướp và bình bát dây. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn
toàn ngẫu nhiên gồm 4 nghiệm thức với 4 lần lặp lại: (1) Dưa leo không ghép (đối
chứng), (2) Dưa leo ghép gốc bầu Nhật, (3) Dưa leo ghép gốc mướp, (4) Dưa leo
ghép gốc bình bát dây. Diện tích thí nghiệm là 100 m
2
.
Kết quả cho thấy tỉ lệ sống sau ghép ở nghiệm thức ghép gốc mướp có tỉ lệ
sống là 91,30% và bầu Nhật 86,42% cao hơn ghép gốc bình bát dây 56,96%. Cây
ghép sau khi trồng ra đồng sinh trưởng và phát triển tương đối tốt, tuy nhiên dưa leo
ghép gốc bầu Nhật có đường kính gốc và ngọn tăng trưởng không đồng đều dẫn đến
sinh trưởng kém về chiều dài thân, số lá và chồi. Năng suất dưa leo không ghép đạt
23,81 tấn/ha, dưa leo ghép bầu Nhật là 11,95 tấn/ha, dưa leo ghép mướp là 26,26
tấn/ha và dưa leo ghép bình bát dây là 20,87 tấn/ha.
viii
MỤC LỤC
TỰA Trang
Tóm lược vii
Mục lục viii
Danh sách chữ viết tắt x
Danh sách bảng xi
Danh sách hình xii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
1.1 Nguồn gốc, giá trị sử dụng và tình hình sản xuất dưa leo 2
1.1.1 Nguồn gốc lịch sử 2
1.1.2 Giá trị sử dụng 2
1.1.3 Tình hình sản xuất 2
1.2 Đặc tính thực vật và điều kiện ngoại cảnh cây dưa leo 3
1.2.1 Đặc tính thực vật 3
1.2.2 Điều kiện ngoại cảnh 4
1.3 Vai trò của gốc ghép 5
1.4 Cơ sở khoa học của việc ghép và ảnh hưởng của gốc ghép đến ngọn ghép 6
1.5 Khái quát về một số gốc ghép trên dưa leo 8
1. 5.1 Gốc bầu Nhật 8
1. 5.2 Gốc mướp 8
1. 5.3 Gốc bình bát dây 8
1.6 Một số kết quả nghiên cứu và ứng dụng về gốc ghép bầu bí 9
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 12
2.1 Phương tiện 12
2.1.1 Địa điểm và thời gian 12
2.1.2 Tình hình khí tượng thủy văn 12
2.1.3 Vật liệu thí nghiệm 12
2.2 Phương pháp 13
2.2.1 Bố trí thí nghiệm: 13
ix
2.2.2 Kỹ thuật canh tác 14
2.2.3 Chỉ tiêu theo dõi 17
2.2.4 Phân tích số liệu 18
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
3.1 Ghi nhận tổng quát 19
3.2 Tỉ lệ sống sau ghép 19
3.3 Tình hình sinh trưởng 19
3.3.1 Chiều dài thân chính 19
3.3.2 Số lá trên thân chính 21
3.3.3 Số chồi trên cây 21
3.3.4 Đường kính gốc ghép 22
3.3.5 Đường kính ngọn ghép 23
3.3.6 Tỉ số đường kính gốc/ngọn ghép 24
3.3.7 Kích thước trái dưa leo 25
3.4 Thành phần năng suất và năng suất 26
3.4.1 Trọng lượng trái và trọng lượng toàn cây 26
3.4.2 Trọng lượng toàn cây 26
3.4.3 Số trái/cây và số trái thương phẩm/cây 26
3.4.4 Trọng lượng trái trên cây 27
3.4.5 Năng suất trái 28
3.4.6 Số lần thu hoạch 29
3.5 Chỉ tiêu về phẩm chất trái 30
3.5.1 Độ cứng 30
3.5.2 Độ Brix 30
CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 32
4.1 Kết luận 32
4.2 Đề nghị 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
PHỤ CHƯƠNG
x
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
ĐHCT: Đại học Cần Thơ
NSKT: Ngày sau khi trồng
ĐC: Đối chứng - Dưa leo không ghép
DL/BN: Dưa leo ghép gốc Bầu Nhật
DL/M: Dưa leo ghép gốc Mướp
DL/BBD: Dưa leo ghép gốc Bình bát dây
xi
DANH SÁCH BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
2.1 Loại, lượng và thời kỳ bón phân cho dưa leo tại khu thực nghiệm
Khoa NN & SHƯD, Đại học Cần Thơ (tháng 6-8/2012) 16
3.1 Tỉ lệ sống (%) của dưa leo qua 10 ngày sau khi ghép tại trại thực
nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012)
19
3.2 Đường kính gốc ghép dưa leo ở các nghiệm thức qua các giai đoạn
khảo sát tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT
(tháng 6-8/2012) 23
3.3 Đường kính ngọn ghép dưa leo ở các nghiệm thức qua các giai đoạn
khảo sát tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT
(tháng 6-8/2012) 24
3.4 Tỉ số đường kính gốc/ngọn ghép dưa leo ở các nghiệm thức qua các
giai đoạn khảo sát tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường
ĐHCT (tháng 6-8/2012) 25
3.5 Kích thước trái (cm) của cây dưa leo ở các nghiệm thức tại trại thực
nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012) 25
3.6 Trọng lượng trái (g) và trọng lượng toàn cây của cây dưa leo ghép ở
các nghiệm thức tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường
ĐHCT (tháng 6-8/2012) 26
3.7 Độ cứng (kgf/cm
2
) và Độ Brix (%) của trái dưa leo ghép ở các nghiệm
thức tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng
6-8/2012) 31
xii
DANH SÁCH HÌNH
Hình Tên hình Trang
2.1 Tình hình thời tiết trong thời gian thí nghiệm từ tháng 6-8/2012 tại
TP.Cần Thơ (Đài Khí tượng thủy văn TP.Cần Thơ, 2012) 12
2.2 Kỹ thuật ghép dưa leo 15
2.3 Cây con trước khi trồng 16
3.1 Chiều dài và tốc độ tăng trưởng thân chính của dưa leo ở các nghiệm
thức qua các giai đoạn khảo sát tại trại thực nghiệm Khoa NN &
SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012) 20
3.2 Số lá thân chính dưa leo ở các nghiệm thức qua các giai đoạn khảo sát
tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-
8/2012) 21
3.3 Số chồi dưa leo ở các nghiệm thức qua các giai đoạn khảo sát tại trại
thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012)
22
3.4 Số trái trên cây-Số trái thương phẩm trên cây dưa leo ở các nghiệm
thức qua các giai đoạn khảo sát tại trại thực nghiệm Khoa NN &
SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012) 27
3.5 Trọng lượng trái và trọng lượng trái thương phẩm/cây dưa leo ở các
nghiệm thức tại trại thực nghiệm Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT
(tháng 6-8/2012) 28
3.6 Năng suất trái dưa leo ở các nghiệm thức tại trại thực nghiệm Khoa
NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012)
29
3.7 Số lần thu hoạch dưa leo ở các nghiệm thức tại trại thực nghiệm Khoa
NN & SHƯD, Trường ĐHCT (tháng 6-8/2012)
30
MӢĈҪ8
'ѭDOHRCucumis sativus L.) thuӝF KӑEҫX EtCucurbitaceae) là mӝW
trong nhӳQJORҥLUDXăQWUiLWUX\ӅQWKӕQJGӉWUӗQJWKӡLJLDQVLQKWUѭӣQJQJҳQ
FyQăQJVXҩWYà giá trӏNLQKWӃFDROjFk\WKѭѫQJPҥLTXDQWUӑQJGѭӟLQKLӅX
hình thӭF QKѭăQ WѭѫL ÿyQJ KӝS PXӕL FKXD PXӕL PһQ« ÿӗQJ WKӡL FKӭD
nhiӅXKjPOѭӧQJYLWDPLQYà khoáng chҩWQrQWKѭӡQJÿѭӧFVӱGөQJUӝQJ Uãi
trong các bӳDăQKàng ngày cӫDPӛLJLDÿình. Tuy nhiên, viӋFFDQKWiFGѭDOHR
liên tөFWUên mӝWQӅQÿҩWÿã tҥRÿLӅXNLӋQFKRVkXEӋQKSKát triӇQÿһFELӋWOà
OѭX WӗQ PҫPEӋQK WURQJ ÿҩW Oàm ҧQK KѭӣQJ ÿӃQ VLQK WUѭӣQJ Yj QăQJ VXҩW ӣ
nhӳQJYQJFKX\rQFDQKGѭDOHR7URQJNKLÿyYLӋFVӱGөQJWKXӕFEҧRYӋWKӵF
vұWOҥLNK{QJPDQJOҥLKLӋXTXҧJk\WӕQNpPYà ô nhiӉPP{LWUѭӡQJ*KpSOà
mӝWWURQJ nhӳQJELӋQSKiSKӳXKLӋXJL~SFk\WUӗQJWăQJQăQJVXҩWWăQJNKҧ
QăQJFKӕQJFKӏXYӟLQKӳQJÿLӅXNLӋQEҩWOӧLFӫDP{LWUѭӡQJPà vүQJLӳÿѭӧF
ÿһFWtQKGLWUX\ӅQFӫDFk\JLӕQJEDQÿҫX1Jày nay, ghép trong sҧQ[XҩWUDXOà
mӝWELӋQSKiSNƭWKXұWÿѭӧFVӱGөQJphәELӃQӣQKLӅXQѭӟFWUên thӃJLӟLӢ
ViӋW1DPFiFQJKLên cӭXYӅJKpSÿã ÿѭӧFiSGөQJQKѭGѭDKҩXJKpSJӕFEҫX
bí, cà chua ghép gӕFFà tím,…ÿã ÿҥWÿѭӧFQKӳQJKLӋXTXҧQKҩWÿӏQKWX\QKLên
vүQFKѭDFyQKLӅXQJKLên cӭXYӅJӕFJKpSWUrQGѭDOHR&KtQKYì vk\ÿӅWài
“ҦQK KѭӣQJ FӫD JӕF JKpS EҫX 1KұW PѭӟS Yà bình bát dây ÿӃQ VLQK
WUѭӣQJYj QăQJVXҩWFӫDGѭDOHR Yө+è Thu 2012”ÿѭӧFWKӵFKLӋQQKҵP
mөFÿtFK tìm ra gӕFJKpSWKtFKKӧSYӟLQJӑQGѭDOHRÿӇWăQJNKҧQăQJVLQK
WUѭӣQJYjWăQJQăQJVXҩW
2
CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Nguồn gốc, giá trị sử dụng và tình hình sản xuất dưa leo
1.1.1 Nguồn gốc lịch sử
Dưa leo có tên khoa học là Cucumis sativus L., tên tiếng Anh là Cucumber,
thuộc họ bầu bí (Cucurbitaceae). Dưa leo có nguồn gốc ở Ấn Độ giữa vịnh Bengal
và dãy Hymalayas cách nay hơn 3.000 năm, sau đó được mang đi dọc theo hướng
phía Tây Châu Á, Châu Phi và miền Nam Châu Âu (Trần Thị Ba và ctv., 1999).
Theo Mai Thị Phương Anh và ctv. (1996) cây dưa leo được các nhà khoa học xác
nhận có nguồn gốc ở Việt Nam và tồn tại ở nước ta hàng nghìn năm nay. Khu vực
miền núi phía Bắc Việt Nam giáp Lào là nơi phát sinh cây dưa leo vì ở đây còn tồn
tại các dạng dưa leo hoang dại (Valipop, 1926 G. Taracanov, 1968 trích bởi Trần
Khắc Thi và ctv., 2008).
1.1.2 Giá trị sử dụng
Dưa leo là loại rau ăn trái chứa hàm lượng vitamin và khoáng chất cao nên
rất được ưa chuộng ở các nước có khẩu phần ăn giàu năng lượng (Trần Thị Ba và
ctv., 1999). Hàm lượng protein dưa leo cao nhất (0,7 mg/100 g trọng lượng tươi)
trong họ bầu bí (Trần Thế Tục, 2000). Trong trái dưa leo chứa 95,23% nước và
trong 100g dưa leo tươi chứa 15 calories, 0,65 mg protein, 16 mg calcium, 13 mg
magnesium, 24 mg phosphorus, 147 potassium, 2 mg sodium, 0,2 mg zinc, 105 IU
vitamin A, 0,027 mg vitamin B1, 0,033 mg vitamin B2, 0,04 mg vitamin B6, 2,8
mg vitamin C, 16,4 µg vitamin K và 0,03 mg vitamin E,… (Nguồn USDA National
Nutrient Database for Standard Reference, Release 25).
Theo Đường Hồng Dật (2003) cho rằng về mặt Đông y, dưa leo vị ngọt, tính
hàn có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, lợi tiểu, chữa phù thủng, kiết lị ở trẻ em. Trái
dưa leo còn dùng làm thuốc trong các trường hợp sốt nhẹ, nhiễm độc đau bụng,
thống phong, tạng khớp, bệnh sỏi và nhiễm trực khuẩn E.coli (Võ Văn Chi, 2003).
1.1.3 Tình hình sản xuất
Theo Trần Khắc Thi và Trần Ngọc Hùng (2005) cho rằng dưa leo là một
trong những cây rau quan trọng nhất, được xếp thứ tư chỉ sau cà chua, bắp cải và củ
hành. Hiện nay dưa leo được trồng khắp nơi ở các nước từ Châu Á, Châu Phi đến
63
0
vĩ Bắc (Tạ Thu Cúc, 2005). Theo số liệu thống kê của FAO năm 2012 diện tích
trồng dưa leo trên thế giới là khoảng 2 triệu hecta, năng suất đạt 31,67 tấn/ha, sản
lượng đạt 67,44 triệu tấn. Trong đó, Trung Quốc là nước có diện tích trồng và sản
lượng dưa leo cao nhất thế giới, kế đến là Thổ Nhĩ Kì.
3
Ở nước ta, cây dưa leo được trồng khắp các vùng từ Bắc đến Nam, là cây rau
quan trọng ở các vùng chuyên canh (Nguyễn Mạnh Chinh và Phạm Anh Cường,
2007). Theo Trần Khắc Thi và Trần Ngọc Hùng (2005) vùng trồng dưa leo tập
trung chủ yếu ở Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Hà Nam, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,
Hà Nội và một số tỉnh Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Ở Đồng bằng sông
Cửu Long dưa leo được trồng rất phổ biến, đặc biệt là vùng rau Sóc Trăng, An
Giang (Trần Thị Ba và ctv., 1999).
1.2 Đặc tính thực vật và điều kiện ngoại cảnh cây dưa leo
1.2.1 Đặc tính thực vật
*Rễ: theo Trần Thị Ba và ctv. (1999) rễ dưa leo phát triển yếu nhất so với
các cây trong họ bầu bí. Rễ chỉ phân bố ở tầng đất mặt 30-40 cm. Khả năng sinh
trưởng và phát triển của bộ rễ phụ thuộc vào giống, điều kiện đất đai, giai đoạn sinh
trưởng và điều kiện bảo quản hạt (Trần Khắc Thi và ctv., 2008).
*Thân: dưa leo là cây thân thảo hằng niên, thân dài trung bình 1-3 m, có
nhiều tua cuốn để bám khi bò. Chiều dài thân cũng tùy thuộc vào điều kiện canh tác
và giống. Thân tròn hay có góc cạnh, có lông ít hay nhiều tùy thuộc vào giống. Các
giống canh tác ngoài đồng thường dài từ 0,5-2 m; giống trồng trong nhà kính có thể
dài 5 m; sự phân nhánh của dưa còn tùy thuộc nhiệt độ ban đêm (Trần Thị Ba và
ctv., 1999). Thân chính thường phân nhánh, cũng có nhiều giống dưa leo hoàn toàn
không phân nhánh (Phạm Hồng Cúc và ctv., 2001).
*Lá: gồm có lá mầm và lá thật, 2 lá mầm mọc đối xứng qua trục thân. Hai lá
mầm dạng hình trứng, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá và dự đoán tình hình sinh
trưởng của cây (Tạ Thu Cúc, 2005). Lá thật là lá đơn, to mọc cách trên thân, dạng lá
hơi tam giác với cuống lá rất dài 5-15 cm; rìa lá nguyên hoặc có răng cưa. Lá trên
cùng của cây cũng có kích thước và hình dáng thay đổi (Trần Thị Ba và ctv., 1999).
*Hoa: đơn tính đồng chu hay biệt chu. Hoa cái mọc ở nách lá thành đôi hay
riêng biệt; hoa đực mọc thành cụm từ 5-7 hoa; dưa leo cũng có hoa lưỡng tính. Có
giống trên cây có cả ba loại hoa và có giống chỉ có một loại hoa trên cây. Hoa có
màu vàng, thụ phấn nhờ côn trùng, bầu noãn của hoa cái phát triển rất nhanh ngay
trước khi hoa nở. Các giống dưa leo trồng ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
thường ra hoa sớm, bắt đầu rừ nách lá thứ 4-5 trên thân chính, sau đó hoa sẽ nở liên
tục trên thân chính và nhánh (Trần Thị Ba và ctv., 1999). Theo Phạm Hồng Cúc và
ctv. (2001), sự biến dị về tình trạng giới tính ở dưa leo rất rộng, đó là đặc tính thích
nghi mạnh của cây trong điều kiện môi trường. Nói chung, điều kiện ngày dài, nhiệt
độ cao và các điều kiện bất lợi khác làm cho cây làm nhiều hoa đực. Ngoài ra, tỉa
4
nhánh, sử dụng kích thích sinh trưởng và chế độ phân bón có thể ảnh hưởng đến sự
biến đổi giới tính của cây. Các dạng cây có giới tính khác nhau ở dưa leo được
nghiên cứu và tạo lập để sử dụng trong chọn tạo giống lai. Theo Tạ Thu Cúc (2005)
sự xuất hiện của hoa cái sớm hay muộn phụ thuộc vào nhiệt độ, chế độ chiếu sáng,
chất dinh dưỡng và nồng độ CO
2
.
*Trái và hạt: trái lúc còn non có gai xù xì, khi trái lớn gai từ từ mất đi. Màu
trái từ xanh đậm đến xanh nhạt, đôi khi trên vỏ có các đường vân (Nguyễn Mạnh
Chinh và Phạm Anh Cường, 2007). Trái dưa leo thuôn dài có 3 múi, hạt đính vào
giá noãn. Hình dạng, khối lượng, độ dài, màu sắc trái khác biệt rất lớn, sự khác biệt
đó phụ thuộc chủ yếu vào giống. Mặt khác, đường kính trái là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá chất lượng trái dưa leo và giá trị sử dụng (Tạ Thu Cúc, 2005).
Trái tăng trưởng nhanh tùy theo giống, có thể thu trái từ 8-10 ngày sau khi hoa nở.
Phẩm chất trái phụ thuộc vào độ chặt của thịt trái, chiều dày vỏ và thịt trái, hương vị
trái,… Hạt có màu trắng ngà, trọng lượng 1.000 hạt từ 20-30 g, trung bình có từ
200-500 hạt/trái (Phạm Hồng Cúc và ctv., 2001).
1.2.2 Điều kiện ngoại cảnh
*Nhiệt độ: dưa leo thích nghi với điều kiện khí hậu nóng ẩm. Nhiệt độ tối
thích cho sự tăng trưởng là 30
0
C về ban ngày và ban đêm là 18-21
0
C (Nguyễn Xuân
Giao, 2012). Đây là loại cây ưa nhiệt, hạt có thể nảy mầm ở nhiệt độ 12-13
0
C và
nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển là 25-30
0
C (Nguyễn Thị Hường, 2004).
*Ánh sáng: dưa leo ưa sáng ngày ngắn, cây thích hợp cho sự sinh trưởng và
phát dục ở độ dài chiếu sáng 10-12 giờ/ngày, cường độ ánh sáng trong phạm vi
15.000-17.000 lux (Mai Thị Phương Anh và ctv., 1996). Theo Trần Thị Ba và ctv.
(1999) nhận định vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long dưa leo dễ dàng ra hoa trái
quanh năm. Ánh sáng nhiều làm trái lớn nhanh, chất lượng trái tốt. Trong điều kiện
ngày ngắn dưa leo thường cho nhiều trái (Nguyễn Xuân Giao, 2012).
*Ẩm độ và nước: yêu cầu về độ ẩm đất của dưa leo rất lớn 85-95% đứng đầu
họ bầu bí do bộ rễ dưa leo chỉ phát triển ở tầng đất mặt nên yêu cầu nước rất cao,
nhất là thời kỳ phát triển trái. Dưa leo ở các thời kỳ khác nhau yêu cầu về lượng
nước khác nhau: hạt nảy mầm yêu cầu lượng nước 50% trọng lượng hạt, thời kỳ cây
con thân lá và bộ rễ phát triển còn yếu lượng nước tiêu hao ít nên yêu cầu nước có
mức độ, thời kỳ ra hoa đến thu trái yêu cầu nước lớn nhất (Trần Thị Ba và ctv.,
1999). Theo Mai Thị Phương Anh và ctv. (1996) dưa leo chịu hạn rất yếu, thiếu
nước cây sinh trưởng yếu và tích lũy lượng cucurbitaxina là chất gây đắng trong
trái.
5
*Đất và dinh dưỡng: dưa leo sinh trưởng thích hợp trên đất giàu dinh dưỡng,
thoát thủy tốt và pH trong khoảng 6,5-7,5 (Nguyễn Xuân Giao, 2012). Đất trồng
dưa leo có yêu cầu nghiêm khắc do bộ rễ phát triển yếu, sức hấp thụ bộ rễ lại kém,
nếu gặp hạn hay úng hoặc nồng độ phân cao dễ làm bộ rễ dưa vàng khô thâm đen,
vì thế đất trồng phải có thành phần cơ giới nhẹ như cát pha, đất thịt nhẹ có nhiều
chất hữu cơ (Trần Thị Ba và ctv., 1999).
Việc cung cấp dinh dưỡng đầy đủ có lợi cho sự ra hoa cái nhưng việc bón
nhiều đạm làm cho cây tăng trưởng nhanh và ra nhiều hoa đực (Phạm Hồng Cúc và
ctv., 2001). Ở thời kỳ đầu sinh trưởng cây cần nhiều đạm và lân, cuối thời kỳ sinh
trưởng cây không cần nhiều đạm, nếu giảm lần bón đạm sẽ tăng thu hoạch một cách
rõ rệt (Tạ Thu Cúc, 2005). Khi cây dưa leo phân nhánh và kết trái thì cây cần nhiều
kali (Phạm Hồng Cúc và ctv., 2001). Theo nghiên cứu của Trần Khắc Thi và ctv.
(2008) cho rằng kali thích hợp cho ra hoa đực. Bên cạnh đạm, lân, kali các nguyên
tố vi lượng như Bo, kẽm, mangan, đồng, molipden cũng có vai trò quan trọng làm
thay đổi tỉ lệ hoa đực, hoa cái.
1.3 Vai trò của gốc ghép
Việc sử dụng phương pháp ghép sẽ tránh được những bệnh từ đất, chống lại
những bất lợi của môi trường và cải thiện chất lượng sản phẩm. Ghép một chồi
ngọn vào một gốc kháng bệnh có thể cung cấp một cây trồng kháng bệnh mà không
cần lai tạo để sàng lọc và lựa chọn tính kháng vào một cây trồng. Hơn nữa, ghép
còn chống lại những tác nhân gây bệnh mới và trong thời gian ngắn cung cấp nhiều
cây trồng với chi phí thấp và kiểm soát bệnh từ đất nhanh hơn so với các giống
kháng mới (Lê Thị Thủy, 2000). Theo Echebarria (2001) nhận định ghép không làm
ảnh hưởng đến chất lượng, hương vị, kích thước và hình dạng của trái. Tuy nhiên,
theo Davis và Perkins-Veazie (2005), ghép có thể tăng cường khả năng chịu stress
phi sinh học, tăng năng suất, kéo dài thời gian thu hoạch và cải thiện chất lượng. Sự
kết hợp giữa gốc-ngọn ghép đã ảnh hưởng đến pH, hương vị, đường, màu sắc,
carotenoid và kết cấu của trái. Gốc ghép khác nhau ảnh hưởng đến chất lượng dưa
leo như hình dạng trái, kết cấu và màu sắc thịt trái, độ cứng, hàm lượng vitamin C
và chất rắn hòa tan.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng RNA, ptotein và các phân tử nhỏ, một số
truyền tín hiệu gây ra, có thể duy chuyển từ gốc ghép đến ngọn ghép, trực tiếp ảnh
hưởng đến sinh lý ngọn (Davis và ctv., 2008). Theo Trần Văn Hòa và ctv. (2000)
cho rằng phần gốc ghép và chồi ghép đều có khả năng sinh tồn khác nhau, bổ sung
hổ trợ lẫn nhau tạo thành một tổ hợp cộng sinh hữu cơ và dựa vào nhau để tồn tại và
một thể thống nhất. Bộ rễ của cây làm gốc hút nước và chất khoáng, đồng thời tạo
6
ra các acid hữu cơ, acid amin cung cấp cho thân, cành, lá của phần ghép phía trên.
Ngược lại, những vật chất được đồng hóa từ phần phía trên ngọn ghép qua các hoạt
động quang tổng hợp cung cấp trở lại cho bộ rễ. Ngoài ra, tỉ lệ ra hoa, đậu trái, sức
kháng lại sâu bệnh,…của các tổ hợp ghép còn chịu ảnh hưởng của phần chồi và gốc
ghép (Lê Chí Hùng, 2005). Cây ghép có khả năng chịu úng, chịu hạn và chịu phèn
tốt do bộ rễ của cây làm từ gốc ghép được tuyển chọn từ cây hoang dại có khả năng
sinh trưởng rất khỏe (Oda, 2002).
1.4 Cơ sở khoa học của việc ghép và ảnh hưởng của gốc ghép đến ngọn ghép
Theo Phạm Văn Côn (2007) ghép là một phương pháp nhân giống vô tính
được thực hiện bằng cách đem gắn một phần của cây giống (gọi là cành ghép) sang
một cây khác (gọi là gốc ghép), thông qua việc áp sát mô phân sinh ngang (tượng
tầng) để tạo nên một cây mới (sống cộng sinh) giữ được những đặc tính di truyền
của cây giống ban đầu và những đặc tính chống chịu quý của gốc ghép. Cơ chế của
ghép cây có thể được hiểu như sau: đầu tiên là sự kết hợp giữa phần tượng tầng gốc
ghép và ngọn ghép, sự đáp ứng của vết thương, sự thành lập cầu callus và cuối cùng
là sự sửa chữa vết thương (Nguyễn Bảo Toàn, 2007). Sau khi áp sát hai phần tượng
tầng gốc và cành ghép lại với nhau thì trước tiên những tế bào bị thương tổn của hai
mặt cắt hình thành lớp ngăn cách màu nâu, sau đó các tế bào nhu mô dưới lớp phân
cách này phân chia rất nhanh hình thành mô liên hợp giữa gốc và ngọn ghép, đồng
thời lớp ngăn cách dần dần biến mất. Các tế bào mới sản sinh ở mô liên hợp liên hệ
với nhau bằng những đường ống qua vách tế bào, các chất nguyên sinh đồng hóa
lẫn nhau, do đó chất dinh dưỡng của gốc ghép chuyển lên ngọn ghép và ngược lại
chất dinh dưỡng từ ngọn ghép cũng được chuyển về gốc ghép. Những tế bào mới
sinh của gốc ghép tương ứng với mạch dẫn của ngọn ghép phân hóa thành mô tế
bào mạch dẫn, cứ như thế các tế bào của gốc và ngọn ghép có mối liên hệ tương
ứng với nhau và hình thành một cơ thể sống cộng sinh (Phạm Văn Côn, 2007).
Trong quá trình ghép tượng tầng của gốc ghép và ngọn ghép tiếp xúc nhau, nhờ sự
hoạt động và tái sinh của tượng tầng mà gốc ghép gắn liền nhau. Sau khi được gắn
liền các mô mềm chỗ tiếp xúc giữa gốc ghép và ngọn ghép do tượng tầng sinh ra
phân hóa thành các hệ thống mạch dẫn, do đó nhựa nguyên và nhựa luyện giữa gốc
ghép và ngọn ghép được thông nhau được (Trần Thế Tục, 1998).
Theo Lâm Ngọc Phương (2006) cho rằng gốc ghép và ngọn ghép có thể ảnh
hưởng với nhau theo nhiều cách. Gốc ghép ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của ngọn
ghép, đến sự ra hoa kết trái của các cây ghép, đến khả năng chống chịu của các cây
ghép như chịu hạn, chịu úng, chịu rét, kháng bệnh. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm
đã chứng tỏ có những ảnh hưởng đến ngọn ghép như thay đổi kiểu sắp xếp lá, kiểu
7
phân cành, màu sắc lá và thời gian rụng lá. Cây ghép cũng có số trái/cây cao hơn
(5,25 lần), trái lớn hơn và cho năng suất (56,92 tấn/ha) cao hơn cây không ghép (3,5
lần).
Phần trăm tổng số chất hòa tan (TTS %) của cây ghép cao hơn có ý nghĩa so
với không ghép. Nói chung gốc ghép có thể ảnh hưởng lên cành ghép và tạo nên
những biến đổi về kích thước của cây, kích thước, màu sắc lá và trái, hình dạng
ngoài của cây, thời kì nở hoa thời gian sống hàm lượng chất dinh dưỡng và chất
sinh trưởng. Trong chừng mực nào đó cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và
tính kiên định đối với bệnh tật ảnh hưởng của gốc ghép lên cành ghép, thân cành
ghép cung cấp dinh dưỡng cho sự phát triển của bộ rễ gốc ghép. Vì vậy mức độ sinh
trưởng của thân cành ghép có mối tương quan thuận đến sự phát triển gốc ghép.
Tuy nhiên ảnh hưởng của cành ghép lên gốc ghép ít được thể hiện rõ rệt hơn. Tóm
lại khả năng tiếp hợp cành ghép, gốc ghép, kĩ thuật ghép, thời vụ, chăm sóc bảo vệ
cây sau khi ghép đều góp phần quyết định đến sự thành công của việc ghép (Lâm
Ngọc Phương, 2006).
Gốc và ngọn có sự kết hợp chặc chẽ hay không là do sức tiếp hợp và mối liên
hệ dẫn truyền của chúng quyết định, gốc và ngọn hình thành lớp tiếp hợp càng chặt
chẽ, chất dinh dưỡng càng đầy đủ thì sự kết hợp càng được củng cố, sự trao đổi chất
dinh dưỡng giữa gốc và ngọn càng dễ dàng. Vì vậy, trong khi ghép cần phải chú ý
làm cho cành ghép thật áp sát với gốc ghép trong một thời gian nhất định. Cành
ghép chịu ảnh hưởng của gốc ghép về một số mặt như: tuổi thọ dài hay ngắn, phân
hóa mầm hoa sớm hay muộn, thế sinh trưởng mạnh hay yếu, tính chống chịu cao
hay thấp,…nhưng không làm thay đổi bản chất di truyền của cây làm ngọn ghép.
Gốc càng khỏe, càng thích nghi với điều kiện khí hậu, đất đai của địa phương thì
cây ghép sinh trưởng càng tốt và tuổi thọ kéo dài (Phạm Văn Côn, 2007).
Theo Phạm Văn Côn (2007) mối quan hệ giữa gốc và ngọn ghép được thể
hiện ở sức tiếp hợp của chúng. Thông thường sức tiếp hợp giữa gốc và ngọn ghép
được đánh giá bằng tỉ số tiếp hợp T
T =
T = 1 : cây ghép sinh trưởng, phát triển bình thường là do thế sinh trưởng của
ngọn ghép tương đương thế sinh trưởng gốc ghép.
Đường kính gốc ghép
Đường kính ngọn ghép
8
T > 1 : cây ghép có hiện tượng chân voi (gốc lớn hơn thân), cây ghép vẫn
sinh trưởng bình thường. Tuy nhiên, T càng gần 1 thì càng tốt hơn T càng xa 1. T
càng xa 1 thế sinh trưởng của ngọn ghép yếu hơn gốc ghép, biểu hiện cây ghép hơi
cằn cỗi, chậm lớn, lá hơi vàng, phần gốc ghép vỏ nứt nhiều.
T < 1 : cây ghép có hiện tượng chân hương (gốc nhỏ hơn thân). Thế sinh
trưởng của ngọn mạnh hơn gốc. Phần ngọn bị nứt vỏ nhiều hơn gốc, cây ghép sinh
trưởng kém dần, tuổi thọ kém.
1.5 Khái quát về một số gốc ghép trên dưa leo
1. 5.1 Gốc bầu Nhật
Bầu Nhật có tên khoa học là Cucurbita ficifolia được nhập từ Nhật do công
ty Kurume phân phối. Trái giống như bình rượu (phình to phía đuôi thắt eo ở phần
đầu), trái to có màu trắng hay sọc xanh, chứa nhiều hạt, kích thước 30-50 cm, cho từ
200-400 kg/ha hạt (Kurume Vegetable Breeding Co, 1996 trích bởi Lê Đông
Phương, 2008).
1. 5.2 Gốc mướp
Mướp hay mướp hương, mướp gối có tên khoa học là Luffa aegyptiaca hay
Luffa cylindrical (tên cũ), là một loài thuộc chi Mướp (Luffa), tên tiếng anh là
Smooth Luffa hay Egyptian Luffa thuộc họ bầu bí dưa (Cucurbitaceae). Đây là cây
bản dị của Bắc Phi. Mướp là một loại cây thân thảo dạng dây leo, có nhiều tua cuốn,
phân cành mạnh. Lá mọc cách, dạng tim, có 5-7 thùy có răng nhỏ xung quanh. Hoa
đơn tính, các hoa đực tập trung thành chùm dạng thùy, các hoa cái mọc đơn độc
(Nguyễn Mạnh Chinh và Phạm Anh Cường, 2007). Thân có màu xanh lục nhạt, tiết
diện đa giác, có 5 gân dọc, có lông ngắn rải rác màu trắng. Trái dạng hình thoi hay
hình trụ, màu xanh lục, dài 0,3-0,9 m. Trên vỏ trái có 10 đường gân dọc màu xanh
đậm và những đốm màu đen. Hạt mướp hình trứng, 2 đầu tròn, màu đen, dài 1-1,2
cm, có rìa (Thái Hà và Đặng Mai, 2011).
1. 5.2 Gốc bình bát dây
Bình bát dây, mảnh bát, hoa bát hay lá bát có tên khoa học là Coccinia
grandis (L.) Voigt hay Coccinia grandis cordifolia L. Cogn, là một loài thuộc chi
Coccinia, tên tiếng anh là Ivy gourd, baby gourd hay baby water melon thuộc họ
bầu bí dưa (Cucurbitaceae) được biết từ Châu Phi tới Châu Á bao gồm Ấn Độ,
Phitippines, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia,Thái Lan, Việt Nam và vùng lãnh thổ
phía Bắc nước Úc (Pier, 2011). Tại Haiwaii nước Mỹ, bình bát dây được khai báo là
9
một loại cỏ dại độc hại (Plants, 2011). Tác hại của nó đến môi trường là che phủ lên
cây rậm rạp và giết chết thảm thực vật bên dưới (NMC Crees, 2011).
Ở nước ta cây mọc từ Quảng Ninh, Nam Hà, Ninh Bình, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Nam, Khánh Hòa, Lâm Đồng vào tới An Giang. Mọc hoang trên nương rẫy,
bờ rào, lùm bụi từ vùng thấp tới vùng cao 1500 m. Cây thân thảo nhẵn và mảnh,
mọc leo cao, đôi khi dài hơn 5 m. Lá hình 5 cạnh, có răng, rộng 5-8 cm, hình tim ở
gốc, rất nhẵn, chia 5 thùy hình tam giác, có mũi nhọn cứng; tua cuốn đơn. Ra hoa
kết quả gần như quanh năm. Hoa đực và hoa cái giống nhau, mọc đơn độc hay xếp
lại hai cái một ở nách lá, có cuống dài 2 cm. Quả hình trứng ngược hoặc thuôn, dài
5 cm, rộng 2,5 cm, khi chín có màu đỏ, thịt quả đỏ và chứa nhiều hạt. Hạt màu vàng
nâu kích thước 6-7 mm. Tất cả các bộ phận của cây đều có ích (Nguồn Vietgle Tri
thức Việt-Trung tâm tri thức và cộng đồng học tập).
1.6 Một số kết quả nghiên cứu và ứng dụng về gốc ghép bầu bí
Việc sử dụng gốc ghép kháng bệnh trên cây rau đã được áp dụng phổ biến ở
nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Tây Ban Nha, Ý, Đài Loan,… (Besri, 2001
trích bởi Trần Thị Ba, 2010).
Ghép dưa là biện pháp hữu hiệu và kinh tế nhất để có thể trồng dưa liên tục
mỗi năm mà cây con không bị chết héo do nấm Fusarium. Dưa ghép trên gốc bầu bí
dưa là kỹ thuật trồng phổ biến ở các nước tiên tiến (Phạm Hồng Cúc, 2003). Theo
Konishi và ctv. (1994) ở Nhật Bản mục đích của việc ghép trên dưa chuột để tăng
cường tính chống chịu với bệnh héo Fusarium, gốc bí ngô Cucurbita moschata
được áp dụng đầu tiên, sau này được ghép trên gốc bầu Cucurbita ficiflolia để
chống chịu với lạnh, theo đó ghép trên gốc bí Cucurbita không chỉ chống chịu được
với bệnh héo Fusarium, bệnh thối rễ do Phytopthora mà còn chịu được cả nóng và
lạnh. Năm 1930, người ta cũng dụng gốc bầu hoặc gốc bí để làm gốc ghép, tuy
nhiên kết quả cho thấy gốc bầu tương thích nhanh hơn sau khi ghép. Phương pháp
này mở ra một hướng đi mới để phòng trừ các bệnh từ đất đối với cây rau, bởi vì
68% các trường hợp bị bệnh của rau là bắt nguồn từ đất (Takahashi, 1984 trích bởi
Đỗ Thị Huỳnh Lam, 2006).
Ở các vùng miền Bắc Nhật Bản, người dân thường sử dụng giống bầu nậm
(Lagernaria) để làm gốc ghép cho dưa hấu và theo Kobayashi (1988) thì gốc bầu
giúp vỏ dưa hấu mỏng hơn, tăng hàm lượng đường nhiều hơn gốc ghép là bí ngô.
Trong khi đó dưa thơm được ghép trên rất nhiều loài bầu bí nhưng rất hiếm khi
ghép trên bầu trắng (Benicasa hispida) (Lê Thị Thủy, 2000). Nhờ việc sử dụng
giống bầu làm gốc ghép cho cây dưa hấu mà diện tích dưa hấu ở Nhật Bản tăng
10
59% năm 1930 so với 1929. Hơn thế nữa, công nghệ này đã được người dân ở tỉnh
Phúc Kiến (Trung Quốc) ứng dụng để cứu nguy cho 5.000 ha dưa hấu bị bệnh héo
Fusarium (He, 1983 trích bởi Lê Đông Phương, 2008).
Theo nghiên cứu của Yetiser và Sari (2000) thì khả năng sống sót của dưa
ghép trên gốc bí thấp nhất (65%) trong khi ghép trên gốc bầu thì có tỉ lệ sống sót
cao (95%), dưa ghép khi trồng ngoài đồng có trọng lượng trái tăng 148%; trọng
lượng khô tăng 42-180%; số lượng và kích thước lá tăng 58-100% so với cây trồng
bình thường (Đỗ Thị Huỳnh Lam, 2006). Cây ghép sẽ giữ được những đặc tính của
giống muốn nhân, tăng sự hấp thu nước, chất dinh dưỡng và rút ngắn thời gian chọn
giống, chống lại những bất lợi của môi trường (Lê Thị Thủy, 2000). Khi nghiên cứu
các tổ hợp gốc ghép khác nhau, Oda (1995), còn nhận thấy mùi vị, độ Brix của trái
dưa hấu trở nên tốt hơn do ghép cây dưa hấu trên gốc bầu so với gốc bí (Nguyễn
Minh Phú, 2007).
Theo Lê Thị Thủy (2000) việc ghép cà chua cũng bắt đầu nghiên cứu từ năm
1999 tại viện nghiên cứu Rau quả Hà Nội đến năm 2002-2003 Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiệp Miền Nam tiếp tục nghiên cứu (Trần Thị Ba, 2010). Cũng theo
Trần Thị Ba (1999) người dân tỉnh Sóc Trăng (xã Mỹ Tâm, huyện Mỹ Tú) cũng đã
áp dụng dưa hấu ghép trong sản xuất đại trà hơn 20 năm.
Ở nước ta, “Bầu Sao” thường được chọn làm gốc ghép vì có khả năng tăng
trưởng mạnh, bộ rễ rất phát triển, ăn lan rộng, có khả năng ra nhiều rễ bất định ở đốt
(Phạm Hồng Cúc, 2003). Theo Trần Thế Tục (1998), gốc ghép ảnh hưởng đến khả
năng chống chịu của cây ghép, ảnh hưởng đến tính chịu hạn, chịu úng, chịu bệnh
của thân ghép. Mức độ sinh trưởng của thân, cành ghép có mối tương quan thuận
đến sự phát triển của bộ rễ gốc ghép. Theo Lê Thị Thủy (2000), sử dụng gốc bầu
(Cucurbita ficifolia) làm gốc ghép cho dưa hấu sẽ chịu được nhiệt độ thấp. Nông
dân các tỉnh Kiên Giang, Trà Vinh, Tiền Giang đã ghép dưa hấu để phòng chống
bệnh héo rũ do nấm Fusarium Oxysporium (Ngô Quang Vinh và ctv., 2006).
Theo Đỗ Thị Huỳnh Lam (2006) khi ghép trên ngọn dưa lê thì gốc ghép bầu
Nhật có sức sinh trưởng mạnh, tỉ lệ sống cao sau khi ghép (84,3%), tăng chiều dài
và số lá trên thân, trọng lượng trái 0,86 kg/trái và năng suất 11,2 tấn/ha cao nhất, ít
bị bệnh chết cây (5,21%) và độ ngọt cao (Brix = 11,63%).
Kết quả nghiên cứu tại trường Đại Học Cần Thơ cho thấy tỉ lệ sống của cây
con dưa hấu ghép khá cao, thấp nhất (70%) ở gốc ghép bí Nhật và cao tương đương
nhau ở gốc ghép bầu Nhật và bầu địa phương (85-87%). Bầu Nhật 1 và bí Nhật là
các giống bầu và bí đỏ của Nhật chuyên dùng làm gốc ghép, đã thương mại hóa do
11
công ty Kurume cung cấp, có đặc tính kháng bệnh héo rũ do nấm Fusarium, dễ đậu
trái và tăng năng suất hơn dưa trồng không ghép mà vẫn giữ nguyên chất lượng trái
dưa hấu trong khi dưa hấu ghép gốc bầu địa phương thì kết trái kém hơn. Trong
mùa mưa dầm, trồng dưa hấu ghép bầu Nhật 3 và bầu địa phương tại thị xã Bạc
Liêu cho năng suất cao nhất (15,02-15,19 tấn/ha) và thấp nhất ở gốc ghép bí Nhật,
kế đến là đối chứng nhưng độ Brix cao nhất ở gốc ghép bầu Nhật 3 (10,3%) (Trần
Thị Ba, 2010).
Một kết quả nghiên cứu khác gần đây của trường Đại Học Cần Thơ về “Ảnh
hưởng của 5 loại gốc ghép họ bầu bí dưa đến khả năng kháng bệnh héo rũ do nấm
Fusarium oxysporum trên dưa leo” cho thấy tỉ lệ sống sau khi ghép của các nghiệm
thức là khá cao. Ở giai đoạn 6 và 9 ngày sau khi ghép nghiệm thức dưa leo ghép gốc
mướp có tỉ lệ sống cao hơn (93,75 và 92,86%, tương ứng) các nghiệm thức ghép
gốc còn lại. Bên cạnh đó, tỉ lệ cây bệnh và cấp bệnh của nghiệm thức không ghép
luôn cao hơn nghiệm thức ghép gốc. Tỉ lệ cây bệnh của nghiệm thức đối chứng
không ghép qua 34 ngày chủng bệnh là 100% trong khi đó các nghiệm thức ghép
gốc dao động từ 0-4,44%. Tương tự, qua 34 ngày sau khi chủng bệnh cấp bệnh của
nghiệm thức đối chứng không ghép đạt tối đa (cấp 4-cây chết hoàn toàn) trong khi
đó cấp bệnh của các nghiệm thức có sử dụng gốc ghép dao động từ 1-1,12 (cấp 1-
cây khỏe mạnh). Điều này cho thấy các loại gốc ghép đươc sử dụng trong thí
nghiệm có khả năng giúp dưa leo chống chịu tốt đối với bệnh héo rũ do nấm
Fusarium oxysporum. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Văn Mắc
(2007) và Trần Thị Hồng Thơi (2008) cho rằng khi sử dụng gốc ghép đã làm tăng
đáng kể khả năng kháng bệnh do nấm Fusarium oxysporum trên dưa hấu.
Kết quả nghiên cứu bước đầu khảo sát sự tương thích của bảy loại bầu bí dưa
ghép trên gốc bình bát dây vụ Hè Thu 2010 của Nguyễn Thanh Thức (2011) cho
thấy tỉ lệ sống của dưa lê, dưa hấu, mướp, bí đỏ hạt đậu và bầu hồ lô đều trên 75%.
Trong khi đó, tỉ lệ sống của dưa leo và khổ qua thì tương đối thấp (62,97% và
57,45%, tương ứng).
12
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Phương tiện
2.1.1 Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: Trại thực nghiệm Khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng dụng,
trường Đại học Cần Thơ (Khoa NN & SHƯD).
- Thời gian: từ tháng 6 đến tháng 8/2012 (vụ Hè Thu).
2.1.2 Tình hình khí tượng thủy văn
Thí nghiệm được tiến hành vào giữa mùa mưa (tháng 6-8/2012), lượng mưa
trung bình là 120,1 mm, cao nhất vào tháng 6 (136,5 mm) và thấp nhất vào tháng 8
(90,7 mm), nhiệt độ dao động từ 27,6-27,9
0
C, trung bình là 27,77
0
C. Ẩm độ dao
động từ 83-84% (Hình 2.1).
Hình 2.1 Tình hình thời tiết trong thời gian thí nghiệm từ tháng 6-8/2012 tại TP.Cần Thơ
(Đài Khí tượng thủy văn TP.Cần Thơ, 2012)
2.1.3 Vật liệu thí nghiệm
- Giống:
* Ngọn ghép dưa leo TN123 F1: do công ty giống cây trồng Trang Nông
phân phối, sinh trưởng mạnh, trồng được quanh năm, trái suôn đẹp (dài 16 cm,
đường kính 4 cm), màu xanh vừa. Ruột nhỏ, ăn giòn, ngọt, trái nặng 150-160g.
Lượng mưa (mm)
Nhiệt độ (ºC) và ẩm độ (%)
20
40
60
80
100
Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8
0
50
100
150
200
Thời gian thí nghiệm
Nhiệt độ (ºC) Ẩm độ (%) Lượng mưa (mm)
27,9
27,6
27,8
83
84 84
136,5
133,1
90,7