Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

ảnh hưởng của việc bổ sung yucca schidigera và probiotics lên năng suất và chất lượng trứng gà đẻ hisex brown giai đoạn 25 – 34 tuần tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 85 trang )

i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG






NGÔ ĐẶNG MAI NHI





ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG YUCCA
SCHIDIGERA VÀ PROBIOTICS LÊN NĂNG
SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TRỨNG GÀ ĐẺ
HISEX BROWN GIAI ĐOẠN 25 – 34
TUẦN TUỔI





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI - THÚ Y








2014
i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG





NGÔ ĐẶNG MAI NHI





ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG YUCCA
SCHIDIGERA VÀ PROBIOTICS LÊN NĂNG
SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TRỨNG GÀ ĐẺ
HISEX BROWN GIAI ĐOAN 25 – 34
TUẦN TUỔI



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH CHĂN NUÔI - THÚ Y


CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. NGUYỄN THỊ KIM KHANG







2014
i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG



NGÔ ĐẶNG MAI NHI


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI - THÚ Y


ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG YUCCA
SCHIDIGERA VÀ PROBIOTICS LÊN NĂNG
SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TRỨNG GÀ ĐẺ

HISEX BROWN GIAI ĐOAN 25 – 34
TUẦN TUỔI










Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
DUYỆT CỦA KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

……………………………………………….

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN




TS. NGUYỄN THỊ KIM KHANG
Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
DUYỆT CỦA BỘ MÔN





………………………………

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây số liệu và kết quả thu được do bản thân tôi trực
tiếp theo dõi, thu thập với thái độ hoàn toàn khách quan, trung thực. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình luận văn nào trước đây.







Cần Thơ, ngày 4 tháng 12 năm 2014
Sinh viên

Ngô Đặng Mai Nhi

ii

LỜI CẢM ƠN

Trải qua gần 4 năm học tập và rèn luyện dưới giảng đường Đại học Cần
Thơ, với sự tận tâm hướng dẫn, truyền dạy những kiến thức và kinh nghiệm
quý báo của các thầy cô cùng sự nỗ lực của bản thân, hôm nay tôi đã hoàn
thành xong luận văn tốt nghiệp. Trước khi rời khỏi mái trường kính yêu để

chuẩn bị hành trang mới bước vào đời, tôi xin gởi đến tất cả mọi người lời
cám tạ chân thành và sâu sắc nhất.
Con xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ – người đã sinh ra, nuôi nấng,
dạy dỗ và lo cho con ăn học đến ngày hôm nay.
Quý thầy cô trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt là các thầy cô trong bộ
môn Chăn nuôi – Thú y, khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng.
Cô Nguyễn Thị Kim Khang đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em trong
suốt thời gian thực hiện đề tài.
Cô Nguyễn Thị Thủy, cố vấn học tập lớp Chăn nuôi – Thú y khóa 37A1
đã hết lòng quan tâm giúp đỡ, động viên em trong suốt quá trình học tập.
Em xin chân thành cám ơn anh, chị cùng các bạn đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 4 tháng 12 năm 2014
Sinh viên


Ngô Đặng Mai Nhi

iii

TÓM LƯỢC
Thí nghiệm “Ảnh hưởng của việc bổ sung Yucca schidigera và
probiotics lên năng suất và chất lượng trứng gà đẻ Hisex Brown giai đoan
25 – 34 tuần “.

Được thực hiện nhằm tìm ra một khẩu phần thích hợp có tác
động tốt nhất lên năng xuất và chất lượng trứng gà mái đẻ thương phẩm giống
Hisex Brown. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với
4 nghiệm thức (NT) thể hiện qua 4 khẩu phần bổ sung khác nhau như sau:

NT 1 (đối chứng (NTĐC)) chỉ bao gồm thức ăn của cơ sở (KPCS),
NT 2 (YC
50
P) gồm KPCS + 50mg bột Yucca + 0,1% probiotics,
NT 3 (YC
75
P) gồm KPCS + 75mg bột Yucca + 0,1% probiotics,
NT 4 (YC
100
P) gồm KPCS + 100mg bột Yucca + 0,1% probiotics.
Các nghiệm thức gồm 10 lần lặp lại, 4 gà mái đẻ khối lượng ngang nhau
trong một ô chuồng tương ứng với một đơn vị thí nghiệm. Như vậy có tổng
cộng 40 đơn vị thí nghiệm trong tổng số 160 con gà. Thí nghiệm đực thực hiện
tại trại Việt Thịnh ngụ tại Ấp Đồng Tâm, Xã Tam Lập, Huyện Phú Giáo, Tỉnh
Bình Dương. Từ ngày 04/08/2014 đến ngày 12/10/2014.
Kết quả phân tích cho thấy gà ở

nghiệm thức 1 (YC
50
P) cho kết quả cao
nhất về năng suất và chất lượng trứng. Qua kết quả thu được nhận đề nghị nên
sử dụng nghiệm thức KPCS + 50 mg bột Yucca + 0,1 % probiotics trong
chănnuôi gà để đạt hiệu quả kinh tế cao.

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN i

TÓM LƯỢC iii
DANH SÁCH HÌNH i
DANH SÁCH BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ii

Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1 Giới thiệu sơ lược về giống gà Hisex Brown 2
2.1.1 Nguồn gốc 2
2.1.2 Đặc điểm và ngoại hình 2
2.2 Nhu cầu dinh dưỡng của gà đẻ 4
2.2.1 Nhu cầu vitamin 4
2.2.2 Nhu cầu protein 7
2.2.3 Nhu cầu chất khoáng 8
2.2.4 Nhu cầu năng lượng 10
2.2.5 Vai trò của nước 11
2.2.6 Nhu cầu chất béo 11
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng trứng gà 12
2.3.1 Chuồng trại 12
2.3.2 Giống 12
2.3.3 Chọn lọc gà mái đẻ 12
2.3.4 Điều kiện tiểu khí hậu 13
2.3.6 Chăm sóc và nuôi dưỡng 16
2.4 Giới thiệu về cây Yucca schidigera và ứng dụng trong chăn nuôi 16
2.4.1 Giới thiệu về cây Yucca schidigera 16
2.4.2 Các ứng dụng của cây Yucca schidigera trong chăn nuôi 20
2.5 Giới thiệu về probiotics 22
2.5.1 Khái niệm Probiotics 22
2.5.2 Vài trò của probotics 23
2.5.3. Một số vi khuẩn có lợi 25


v

2.5.4 Ứng dụng trong chăn nuôi 27

Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM 29
3.1 Phương tiện thí nghiệm 29
3.1.1 Thời gian và địa điểm 29
3.1.2 Động vật thí nghiệm 29
3.1.3 Chuồng trại 29
3.1.4 Dụng cụ thí nghiệm 33
3.1.5 Thức ăn thí nghiệm 33
3.2 Phương pháp thí nghiệm 34
3.2.1 Bố trí thí nghiệm 34
3.2.2 Quy trình phòng bệnh ở trại 34
3.2.3 Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc 36
3.2.4 Phương pháp lấy mẫu 36
3.2.5 Các chỉ tiêu theo dõi 37
3.2.6 Xử lý số liệu 38

Chương 4 : KẾT QUẢ THẢO LUẬN 39
4.1 Nhận xét chung về đàn gà trong thời gian thí nghiệm 39
4.2 Nhiệt độ - Ẩm độ 39
4.3 Ảnh hưởng của Yucca schidigera và probiotics lên khối lượng gà 41
4.4 Năng suất sinh sản 42
4.4.1 Ảnh hưởng của Yucca schidigera và probiotics lên năng suất trứng 42
4.4.2 Ảnh hưởng của Yucca schidigera và probiotics lên tỷ lệ đẻ, % 43
4.4.3 Ảnh hưởng của Yucca schidigera và probiotics lên tỷ lệ trứng loại, % . 44
4.4.4 Ảnh hưởng của Yucca schidigera và probiotics lên tiêu tốn thức ăn,
(g/mái) 46
4.4.5 Ảnh hưởng của Yucca schidigera và probiotics lên tiêu tốn thức ăn,

(g/trứng) 47
4.5 Chất lượng trứng 48
4.5.2 ảnh hưởng của tuần tuổi thí nghiệm lên chất lượng trứng 50
4.5.3 Ảnh hưởng của tuần tuổi và khẩu phần thí nghiệm lên chất lượng trứng
51
4.6 Ảnh hưởng của khẩu phần thí nghiệm lên hiệu quả kinh tế 53
5.1 Kết Luận 54

vi

5.2 Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

PHỤ CHƯƠNG 58

i

DANH SÁCH HÌNH

Hình 2.1 Gà đẻ Hisex Brown 2
Hình 2.2: Yucca schidigera 17
Hình 2.3: Yucca Schidigera Mohave Yucca 19
Hình 2.4: Yucca Schidigera 20
Hình 3.1 Trại Việt Thịnh
31
Hình 3.2: Hệ thống chuồng lồng 32
Hình 3.3 Đèn tại trại
32
Hình 3.4: Hệ thống làm mát 33
Hình 3.5: Hệ thống quạt hút 33

Hình 3.6: Hệ thống máng ăn máng uống 34
Hình 3.7: Hệ thống bồ chứ nước 34
Hình 3.8: Thức ăn của Emivest mà trại sử dụng 35

ii

DANH SÁCH BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ


Bang 2.1 Các chỉ tiêu của giống gà Hisex Brown 3
Bảng 2.2 Tỷ lệ tiêu hóa chất béo của gà 12
Bảng 2.3: Những đặc điểm bên ngoài của gà mái đẻ tốt và đẻ kém 13
Hình 2.4 Bacillus subtilis 25
Hình 2.5 Saccharomyces cerevisiae 26
Bảng 3.1 Thành phần dinh dưỡng (thức ăn hỗn hợp dạng bột 7606) 36
Bảng 3.2 Lịch dùng thuốc và tiêm phòng cho gà Hisex Brown từ 18 – 58 tuần
tuổi 37
Bảng 4.1 Năng suất trứng gà đẻ qua các tuần tuổi
44
Bảng 4.2 Tỷ lệ đẻ của gà qua các tuần tuổi
45
Bảng 4.3 Tỷ lệ đẻ theo chuẩn công ty CPI (2008) và Emivest (2010) 45
Bảng 4.4 Ảnh hưởng của khẩu phần thí nghiệm lên trứng loại 46
Bảng 4.5 Tiêu tốn thức ăn, g/mái của gà đẻ qua các tuần tuổi 47
Bảng 4.6 Tiêu tốn thức ăn, g/trứng của gà đẻ qua các tuần tuổi 48
Bảng 4.7 Ảnh hưởng của khẩu phần thí nghiệm lên chất lượng trứng 49
Bảng 4.8 Ảnh hưởng của tuần tuổi thí nghiệm lên chất lương trứng 51
Bảng 4.9 Ảnh hưởng của tuần tuổi và khẩu phần thí nghiệm lên chất lượng
trứng 52
Bảng 4.10 Ảnh hưởng của tuần tuổi và khẩu phần thí nghiệm lên chất

lượng trứng 53
Bảng 4.11 Ảnh hưởng của khẩu phần thí nghiệm lên hiệu quả kinh tế 54
Danh sách hình
Biểu đồ 4.1 Nhiệt độ và ẩm độ ở trại qua các tuần 41
Biểu đồ 4.2 Nhiệt đồ và ẩm độ buổi sáng cao nhất và thấp nhất ở trại gà qua các
tuần 42
Biểu đồ 4.3 Nhiệt đồ và ẩm độ buổi chiều cao nhất và thấp nhất ở trại gà qua các
tuần 42
Biểu đồ 4.4: Biểu đồ so sánh ảnh thưởng của khẩu phần thí nghiệm lên khối lượng
gà đầu kỳ, khối lượng gà cuối kỳ 43

1

Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc ứng dụng sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên vào lĩnh vực chăn
nuôi và nuôi trồng thủy sản ngày càng được khuyến khích và đã trở thành xu
thế hiện nay vì liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm và hiệu quả sản xuất.
Chiết xuất của Yucca schidigera thường được sử dụng trong ngành công
nghiệp mỹ phẩm và nước giải khác. Nó cũng sử dụng làm phụ gia thức ăn cho
gia súc và gia cầm. Trong những nghiên cứu gần đây, việc sử dụng chiết xuất
Yucca (Yucca schidigera) trong khẩu phần thức ăn gia cầm nhằm duy trì hiệu
quả quá trình trao đổi chất, kiểm soát nồng độ ammonia, cải thiên khối lượng
trứng (Ayasan et al., 2005), hệ số chuyển hóa thức ăn và năng suất trứng
(Guclu, 2003;Ayasan et al, 2005). Saponin là một hoạt chất chính của Yucca
schidigera hiện diện ở dạng steroid, có tính kháng khuẩn (Katsunuma et al,
2000; Wang et al, 2000), kháng nấm, ức chế virus (Ngô Vân Thu, 2011), có thể
kế hợp với các nhóm kháng khuẩn khác như acid caprylic (Wang et al, 2011).
Kaya et al (2003) đã chỉ ra rằng việc bổ sung Yucca schidigera trong chế độ ăn
uống một cách thích hợp giúp làm hạ cholesterol trong máu và trong lòng đỏ
trứng gà.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, probiotics có những ảnh hưởng tích
cực lên trên con gà đẻ và năng suất của chúng

(Mateova et al, 2009). Probiotics
được định nghĩa là chế phẩm sinh học, nó bao gồm các tế bào sống hoạt chất
chuyển hóa giúp ổn định các thành phần vi sinh vật đường ruột trên cả gia súc
và con người, đồng thời kích thích hệ tiêu hóa cũng như hệ miễn dịch (Fuller,
1992). khi bổ sung các vi sinh vật sống nầy vào trong khẩu phần thì người ta đã
tìm thấy chúng có khả năng điều chỉnh sự cân bằng của các vi sinh vật hoạt
động đường ruột (Chaucheyras-Durand and Durand, 2010), tăng cường khả
năng miễn dịch không đặc hiệu (Placha et al, 2010). Bên cạnh đó, probiotics
còn cải thiện hệ số chuyến hóa thức ăn, giảm tỷ lệ mắc bệnh và chết, đồng thời
có lợi cho người tiêu dùng thông qua cải thiện chất lượng sản phẩm (Mohan et
al, 1995;. Tortuero và Fernandez, 1995; Yesilbag và Colpan, 2006), ức chế khả
năng bám dính của các mầm bệnh Escherichia coli (Coconnier et al., 1993).
Tuy nhiên, có rất là ít nghiên cứu về việc sử dụng probiotic kết hợp với Yucca
schidigera lên trên năng suất và chất lượng trứng của gà. Chính vì vậy, mà tôi
đã thực hiện đề tài nầy, nhằm đánh giá tiềm năng kết hợp của Yucca schidigera
và probiotics để có thể ứng dụng vào điều kiện sức khẻo cũng như là chất lượng
trứng của gà đẻ do đó thí nghiệm “Ảnh hưởng bổ sung chế phần của cây
Yucca (Yucca schidigera) và Probiotic trong khẩu phần ăn của gà Hisex
Brown trong giai đoan 25 – 34 tuần tuổi” được thực hiện.


2

Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Giới thiệu sơ lược về giống gà Hisex Brown
2.1.1 Nguồn gốc
Theo Nguyễn Thị Mai (2009) Hisex brown là giống gà đẻ trứng cao sản,

có lông màu nâu, và có nguồn gốc từ nguồn gốc từ hãng Euribreed - Hà Lan.
Gà hậu bị Hisex Brown được nhập vào Việt Nam 1997, được công ty Emivest
nhập giống gà bố mẹ về nuôi nhân giống. Gà con sản xuất ra dùng để thả nuôi
ở các trang trại nuôi gia công cho công ty và một số để bán ra thị trường
2.1.2 Đặc điểm và ngoại hình
Theo Nguyễn Thị Mai (2009) Hisex brown là giống gà đẻ trứng cao sản,
có lông màu nâu, và có nguồn gốc từ nguồn gốc từ hãng Euribreed - Hà Lan.
Gà giống bố mẹ có khối lượng cơ thể đến 17 tuần 1400g; tỉ lệ nuôi sống
97%. Lượng thức ăn tiêu thụ từ 18 - 20 tuần 5,5 kg/con. Tuổi đạt tỷ lệ đẻ 50%
ở 152 ngày. Sản lượng trứng đến 78 tuần tuổi 315 quả/mái, khối lượng trứng
63g. Lượng thức ăn tiêu thụ từ 140 ngày tuổi là 116 g/con/ngày. Tiêu tốn thức
ăn cho 1 kg trứng là 2,36 kg và cho 10 quả trứng là 1,49 kg. Khối lượng cơ thể
vào cuối thời kì đẻ là 2150 g/mái. Gà mái đẻ thương phẩm đạt tỷ lệ đẻ 5% ở
20 tuần tuổi, đỉnh cao tỷ lệ đẻ khoảng 92%.
Thời gian đạt tỷ lệ đẻ cao trên 90% kéo dài khoảng 10 tuần. Khối lượng
trứng trong tuần đẻ đầu là 46g và tăng dần cho đến khi kết thúc là 67 g. Sản
lượng trứng đến 78 tuần tuổi là 307 quả/mái. Tỉ lệ chết trong thời kỳ đẻ trứng
là 5,8%. Khối lượng gà mái khi kết thúc đẻ khoảng 2,15kg/con. Lượng thức ăn
tiêu thụ đến hết 78 tuần tuổi là 47 kg/con.

(Nguồn: Công ty TNHH Emivest Việt Nam, 2011)

Hình 2.1 Gà đẻ Hisex Brown


3

Bảng 2.1 Các chỉ tiêu về tỷ lệ đẻ và khối lượng của giống gà Hisex Brown
Tuần tuổi Tỷ lệ đẻ (%)


Khối lượng trứng (g)

18 6,0

42,8

19 16,0

45,3

20 36,0

47,8

21 66,0

50,8

22 88,0

53,8

23 93,0

56,0

24 94,0

58,2


25 95,0

59,2

26 95,0

59,6

27 95,0

59,8

28 95,0

60,0

29 94,7

60,2

30 94,5

60,4

31 94,3

60,6

32 94,1


60,9

33 93,9

61,2

34 93,6

61,5

35 93,3

61,8

36 93,0

62

37 92,7

62,2

38 92,5

62,4

39 92,2

62,6


40 91,9

62,7

(Nguồn: Công ty TNHH Emivest Việt Nam, 2011)

4

2.2 Nhu cầu dinh dưỡng của gà đẻ
Do gà được nuôi theo phương pháp công nghiệp nên về mặt dinh dưỡng
phụ thuộc hoàn toàn vào tác động của người nuôi. Gà phải ăn đầy đủ dưỡng
chất để đảm bảo gà không bị mập mỡ. Nếu cho gà ăn thiếu chất sẽ không đáp
ứng được nhu cầu cơ thể dẫn đến gà giảm đẻ, giảm khối lượng trứng, ảnh
hưởng đến độ bền và năng suất của toàn đàng. Nếu cho gà ăn vượt quá tiêu
chuẩn về lượng và chất thì sẽ gây lãng phí thức ăn, gà dễ bị mập mỡ, giảm đẻ.
(Võ Bá Thọ, 1995).
Nuôi gà đẻ mục tiêu là để lấy trứng hoặc ấp. Càng kéo dài thời gian khai
thác trứng thì càng có lợi. Muốn đạt được mục tiêu trên không có cách nào
hơn là đảm bảo sức khỏe và đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất trứng của gà
(Dương Thanh Liêm, 2003). Tùy theo giống gà, tuổi gà, các phương thức chăn
nuôi mà nhu cầu dinh dưỡng khác nhau.

2.2.1 Nhu cầu vitamin
Với nồng độ thấp nhưng vitamin có vai trò quyết định sự tồn tại của tất
cả quá trình sống, đồng thời tham gia vào quá trình sinh lý, sinh hóa, quyết
định tới việc sinh trưởng, sinh sản và tính kháng bệnh của gia cầm. (Vũ Duy
Giảng, 1997)
Nhu cầu vitamin thay đổi theo tuổi, thể trạng và chức năng sinh lí của gà.
Gà con cần lượng vitamin cao hơn gà trưởng thành.
Đối với gà nuôi nhốt tập trung toàn bộ thức ăn là do người nuôi cung cấp

thì việc bổ sung vitamin là rất cần thiết.
Thiết vitamin sẽ dẫn đến rối loạn hoạt đông của cơ thể, dẫn đến bệnh tật
phát sinh (Nguyễn Văn Thưởng, 1992).
Vitamin có hai nhóm: Nhóm hòa tan trong dầu mỡ là vitamin A, D, E, K
và nhóm hòa tan trong nước bao gồm các vitamin nhóm B và C.
Nhóm hòa tang trong dầu và mỡ :
Vitamin K (Phylloquinone) được tổng hợp trong manh tràng của gà nhờ
microflora, đóng vai trò đông máu. Được sử dụng trong thức ăn cho gà con và
gà đẻ đề phòng chống xuất huyết khi bị bệnh cầu trùng và bệnh Gumboro.
Nhu cầu vitamin K cho gà: gà con dưới 7 tuần tuổi 8,8 mg, gà 8 - 17 tuần tuổi
2,2 mg, gà đẻ 2,2 mg/kg thức ăn.
Vitamin D (Cholecalciferol) đóng vai trò quan trọng trong việc chống còi
xương, trong đó vitamin D
3
có hoạt tính cao nhất trong việc chuyển hóa calci

5

và phosphor, làm tăng hấp ở ruột non dưới dang D
+
Ca
2+
, tăng tích lũy ở xương
và vỏ trứng.
Thiếu vitamin D gà bị còi xương, châm lớn, gà đẻ bị bệnh xốp xương,
xương dễ gẫy, bại liệt chân, lòng trắng trứng loãng, vỏ trứng mỏng, dễ vỡ, tỷ
lệ ấp nở thấp, phôi chết nhiều ở ngày ấp thứ 19 - 20. Nhu cầu vitamin D cho
gà: gà con 2000 - 2200 UI, gà đẻ 1500 UI/kg thức ăn.
Vitamin E (Tocofero) có vai trò lớn cho khả năng sinh sản của gia cầm,
Vitamin E giúp ngăn cản quá trình oxy hóa, bảo vệ các hợp chất sinh học và

các acid béo chưa no.
Thiếu vitamin E sẽ gây tình trạng gà bị ngẹo đầu, mỏ trút xuống, mất
thăng bằng, đi đứng loạng choạng, đi thụt lùi, hoại tử cơ trắng vùng cơ ức và
cơ đùi (giống như tình trạng thiếu Selen). Ở gia cầm sinh sản sẽ giảm tỷ lệ thụ
tinh, giảm tỷ lệ đẻ, trứng đã thụ tinh có phôi phát triển kém, phôi chết nên tỷ lệ
ấp nở thấp. Nhu cầu vitamin E cho gà: gà con 15 - 20 UI, gà đẻ 20 - 30 UI/kg
thức ăn.
Vitamin A (Retinol) cần cho việc bảo vê niêm mạc cơ thể chống lại sự
xâm nhập của mầm bệnh. Tham gia vào qua trình trao đổi chất protein, lipid,
glucid, cần thiết cho sự hoạt động bình thường của tuyến giáp trạng, các tế bào
biểu mô, là nguyên liệu tạo rodopxin của thị giác.
Thiếu vitamin A gà có biểu hiên khô lông, khô da, viêm kết mạc mắt, gà còi
cọc, rối loạn thần kinh, gà chết ồ ạt như bị dịch. Gà mái đẻ giảm, trứng ấp nở
kém.
Nhu cầu vitamin A ở gia cầm phụ thuộc vào tuổi và sức sản xuất của chúng:
gia cầm non đang sinh trưởng nhanh cần khoảng 12000 - 15000 IU/kg thức ăn,
gà đẻ trứng cần 10000 - 12000 IU/kg.
Nhóm hòa tan trong nước
Vitamin B1 (Thiamin) có vai trò quan trọng cho trao đổi glucid và
decarboxyl, hoạt động của các men tiêu hóa, tăng hấp thu đường ở ruột.
Đồng thời Vitamin B1 là tác nhân chính chống phù thủng, viêm thân kinh,
trong trao đổi chất bột đường. Nhu cầu vitamin B1 cho gà: gà con 2,2 mg; gà
lớn, gà đẻ 1,8-2,0 mg/kg thức ăn.
Vitamin B2 (Riboflavin) là tác nhân ảnh hưởng lớn đến quá trình oxy
hóa vật chất của tế bào, chống rối loan thần kinh, trao đổi hydratcarbon và
năng lượng, đảm bảo tỷ lệ đẻ, duy trì hoạt động bình thường của tuyến sinh
dục.

6


Thiếu vitamin B2 gà con sẽ bị còi cọc, chậm lớn, lông xù, viêm quanh
khóe mắt, chân bị liệt ngón co quắp, di chuyển khó khăn, mắt nhắm, ghèn dính
làm mắt mở khó khăn. Gà đẻ giống sẽ giảm tỷ lệ ấp nở, phôi chết nhiều ở ngày
ấp thứ 12 - 18, gà con mới nở bị liệt chân. Nhu cầu vitamin B2 cho gà: gà con
3,5 - 4,0 mg; gà đẻ trứng thương phẩm 2,2 - 2,5 mg/kg thức ăn.
Vitamin B3 (Acid pantothenic) Thiếu sẽ gây hiện tượng viêm da ở góc
mắt và miệng, viêm nứt các ngón chân, rụng lông, sinh trưởng chậm, giảm sức
kháng bệnh, gà đẻ giảm năng suất, tỷ lệ ấp nở giảm. Vitamin B3 có nhiều
trong các loại thức ăn hạt, nấm men, nghèo trong các loại củ quả. Nhu cầu đối
với gia cầm là 20 mg/kg thức ăn hỗn hợp.
Vitamin B5 (PP) có vai trò chủ đạo trong trao đổi năng lượng, protein và
cần cho tế bào cơ quan hô hấp. Khi thiếu vitamin B5 làm các lớp biểu bì của
da và niêm mạc đường tiêu hóa và hô hấp bị tổn thương, tỷ lệ ấp nở kém. Nhu
cầu B5 cho gà: gà con dưới 8 tuần tuổi 20 - 55 mg, gà đẻ 10 - 15 mg/kg thức
ăn.
Vitamin B6 (Pyridoxine) cần cho quá trình trao đổi chất đạm, chất béo đề phát
triển cơ thể, chống viêm da. Thiếu vitamin B6 sẽ dẫn đến tình trạng giảm tính
thèm ăn, ăn ít, chậm lớn, gây thiếu máu. Nhu cầu đối với gà thịt là 4,5 mg/kg
thức ăn, gà đẻ là 3,5 mg/kg thức ăn, khi tỷ lệ protein trong thức ăn tăng thì nhu
cầu vitamin B6 cũng tăng lên.
Vitamin B9 (Folacin) Khi thiếu sẽ gây thiếu máu, số lượng hồng cầu
giảm, gà con giảm tăng trọng, còi cọc, xuất hiện sự rối loạn sắc tố như trên
lông đen, vàng có những đốm trắng. Gà sinh sản cho trứng tỷ lệ ấp nở thấp.
Nhu cầu vitamin B9 cho gà: gà con là 1 mg/kg thức ăn, gà đẻ là 0,7 mg/kg
thức ăn.
Vitamin B12 (Cyanocobalamin) có vai trò quan trọng trong việc cấu tạo
máu, tổng hợp các protein tế bào, thúc đẩy quá trình sinh trưởng bình thường
của cơ thể, đảm bảo tỷ lệ ấp nở trứng.
Khi thiếu B12 gây hiện tượng thiếu máu, giảm tăng trọng, sức kháng bệnh
kém, gà đẻ giảm tỉ lệ ấp nở, phôi chết nhiều. Nhu cầu vitamin B12 cho gà: gà

con dưới 8 tuần tuổi 12-20 mg; gà mái đẻ 10-15 mg/kg thức ăn.
Vitamin K (phylloquinone) nhân tố làm đông máu, chống chảy máu.
Vitamin C (acid ascorbic) tăng sức đề kháng của gia cầm, giảm yếu tố
stress, bênh, tránh tình trạng võ trứng bị mõng (Võ Bá Thọ, 1995).

7

2.2.2 Nhu cầu protein
Protein tham gia cấu tạo tế bào là thành phần quan trọng của sự sống,
chiếm đến khoảng 1/5 khối lượng cơ thể gia cầm, 1/7-1/8 khối lượng trứng.
Protein là hợp chất hữu cơ quan trọng không có chất dinh dưỡng nào thay thế
vai trò của protein trong tế bào sống vì phân tử protid ngoài cacbon, hydro,
oxy còn có nitơ, lưu huỳnh, phospho mà ở các phân tử mỡ, bột đường không
có.
Sự tổng hợp Protein trong tổ chức tế bào, ngoài viêc ảnh hưởng của acid
amin, còn bị giới hạn bởi cung cấp năng lượng. Do đó khẩu phần không đủ
năng lượng sẽ làm giảm năng suất tổng hợp protein. Trong cơ thể động vật nói
chung và gia cầm nói riêng, không thể tổng hợp protein từ gluxid và lipid, mà
bắc buộc phải lấy từ thức ăn đưa vào hằng ngày một cách đều đặng, theo tỷ lệ
thích hợp, dư hay thiếu đều không tốt.
Theo Bùi Xuân Mến (2007), protein cần thiết cho sự duy trì là tương đối
thấp, vì thế yêu cầu protein trước hết tùy thuộc vào mục đích sản xuất. Trong
thực tế sản xuất, protein luôn là thành phần thức ăn đắt nhất của một khẩu
phần, sẽ không kinh tế khi nuôi vật nuôi quá mức protein, vì lí do nầy mà mức
protein trong khẩu phần ăn cho vật nuôi luôn phải giữ mức gần nhu cầu tối
thiểu hơn các chất dinh dưỡng khác. Một khi lượng protein tối thiểu được yêu
cầu cung cấp cho sinh trưởng hoặc sản xuất trứng tối đa thì cần phải tính đến
lượng protein cần cộng thêm do bị oxy hóa thành năng. Protein cũng không
được dữ trữ trong cơ thể theo số lượng có thể đánh giá được.
Với gia cầm non đang sinh trưởng nhu cầu protein và các acid amin là

cực kì quan trọng. Phần lớn vật chất khô tăng lên với sự sinh trưởng của
protein. Sự thiếu hụt của protein tổng số hoặc một acid amin thiết yếu nào đó
đều làm giảm tốc độ tăng trưởng (Dương Thanh Liêm, 2003).
Theo Bùi Xuân Mến (2007), Đối với gà đẻ trứng nhu cầu protein đóng
vai trò rất quan trọng. Nếu thiếu protein trong khẩu phần ăn thì đó là một trong
những nguyên nhân chủ chốt làm cho sản lượng trứng thấp. Trong bất cứ
nghiên cứu nào về nhu cầu protein của gà mái đang đẻ phải thừa nhận một sự
cân đối hợp lý các acid amin trong protein của khẩu phần. Thiếu hục một acid
amin thiết yếu sẽ làm giảm khả năng sản xuất trứng, giảm độ lớn của trứng và
giảm mức protein tổng số. Tỷ lệ các acid amin thiết yêu trong protein của khẩu
phần phải đi gần với tỉ lệ các acid amin được tạo thành trong trứng.
Trong thời gian đẻ trứng cần cung cấp cho gia cầm đầy đủ protein để giữu cho
cơ thể luôn luôn có sự trao đổi chất cao đồng thời đảm cho cho hoạt động nội

8

tiết bình thường như tuyến yên, tuyến giáp trang Những tuyến ảnh hưởng
lớn đến sức sản xuất của gia cầm.
Nhu cầu protein trong khẩu phần cho gà đẻ trứng tùy thuộc sản lượng
trứng, phẩm chất protein trong thức ăn, giá trị dinh dưỡng của thức ăn, điều
kiện chăm sóc, khối lượng trứng và khối lượng cơ thể gà. Thiếu protein gà
chậm lớn, còi cọc, gà đẻ kém, sinh bệnh tật,… cần cân đối protein theo nhu
cầu của gà con, gà thịt, gà đẻ,… Các loại thức ăn giàu protein là bột cá, bột
thịt, bột sữa, đậu tương, khô lạc. Thường bổ sung vào thức ăn hai loại acid
amin hay thiếu là lysine và methionine tổng hợp với tỉ lệ thấp (Bùi Đức Lũng
và Lê Hồng Mận, 2001).
Dư thừa protein dẫn đến nồng độ đạm cặn, acid amin trong máu tăng cao
làm giảm tính thèm ăn của gia cầm, từ đó không cải thiện được tăng trọng,
thậm chí còn giảm tăng trọng so với khẩu phần bình thường. Cơ thể tiêu hóa
không hết protein sẽ lên men thối ở ruột già, manh tràng và dẫn đến tình trạng

viêm ruột tiêu chảy,… Đồng thời gây tác hay xấu đến hiệu quả kinh tế trong
chăn nuôi.
2.2.3 Nhu cầu chất khoáng
Người ta phát hiện trong cơ thể động vật có tới 70 nguyên tố của bảng hệ
thống tuần hoàng. Trong cơ thể các nguyên tố đa lương gồm Ca, P, K, Cl, Mg,
S chiếm 1,01%. Các nguyên tốt vi lượng như Fe, Cu, Co, Zn,… chiếm 10
-3
-
10
6
% (Melekhin et al, 1977).
Chất khoáng là thành phần chủ yếu của bộ xương, tham gia cấu tạo tế bào
dưới dạng muối. Chất khoáng cần thiết cho gia cầm là Ca, P, Na, K, Mg, Cl, I,
Fe, Mn, Cu, Mo, Zn và Se. Coban cần có chỉ như một thành phần của vitamin
B12, vì gia cầm không thể tổng hợp vitamin B12 từ nguồn coban. Ca, P, Na,
Mg, Cl là khoáng được bổ sung chủ yếu vì chúng phải có trong khẩu phần với
những lượng tương đối lớn (đa lượng). Những khoáng còn lại chỉ được bổ sung
với lượng rất nhỏ, thường được tính bằng milligram hoặc ppm (phần triệu)
trong 1 kg thức ăn. Tuy được yêu cầu ở mức vi lượng, nhưng thiếu một loại
khoáng nào trong khẩu phần đều có thể gây ra bất lợi đối với vật nuôi cũng như
thiếu một trong các khoáng đa lượng (Bùi Xuân Mến, 2007).
Calci và phospho giữu vai trò dinh dưỡng khoáng quan trọng, khẩu phần
bị thiếu calci hay phospho sẽ làm giảm khoáng hóa của xương. Trước hết nó là
thành phần cấu trúc của xương, răng. Phospho có trong thành phần của acid
nucleic, phospholipid tham gia vào phản ứng phosphoryl hóa và những phản
ứng chuyển hóa năng lượng (Vũ Duy Giảng, 1997).

9

Calci cần thiết cho điều hòa tính thẩm thấu của màng tế bào, cho sự đông

máu, hoạt động thần kình và sự co bóp ở tim. Thiếu calci gà bị run rẩy, co giật,
còi xương, thể hiện ở gà đẻ là võ trứng mỏng, xốp và sẽ ngưng sản xuất trứng
hoặc trứng không vỏ( Bùi Xuân Mến, 2007).
Phospho cân bằng tính thẩm thấu ở màng tế bào, tham gia vào thành phần
của tế bào. Thiếu phospho làm giảm tính thèm ăn gây còi xương, gà mái đẻ
trứng mỏng vỏ, gà trống đạp mái kém.
Magie (Mg) : Magie có liên quan mật thiết đến trao đổi Ca và P, tham gia
cấu tạo xương, thiếu Magie làm gà sinh trưởng chậm, không điều chỉnh được
hoạt động cơ bắp, giảm sử dụng Ca, P làm đẻ trứng giảm.
Natri, Kali và Clo: Những nguyên tố khoáng này có dạng là các ion vô
cơ, có ý nghĩa quan trọng trong thể dịch của cơ thể, là các chất điện giải. Natri
được thấy chủ yếu trong các dịch ngoài tế bào như máu, bạc huyết. Kali lại
được thấy chủ yếu bên trong tế bào. Đây là hai yếu tố quan trọng việc duy trì
acid-bazo và sự cân bằng thể dịch trong các mô cơ thể. Clo cũng là thành phần
của acid hydrochloric được tiết ra trong dạ dày tuyến của gia cầm. Nếu có sự
thiếu hụt nào của một trong các khoáng này đều làm cho gia cầm sinh trưởng
kém, cơ thể mất nước và dẫn đến chết khi bị thiếu hụt trầm trọng.
Sắt (Fe): sắt tham gia cấu tạo hồng cầu, là thành phần của hemoglobin,
một chất chuyên chở oxy trong máu và cũng là thành phần của các hợp chất
liên quan có trong cơ thể và trong các hệ enzyme, tham gia thành phần các
acid amin chứa lưu huỳnh, acid béo, tham gia tạo cơ, da, lông. Thiếu sắt trong
cơ thể gây ra chứng thiếu máu, mỏ gà con nhợt nhạt, gà mái lông xù, mào tái,
đẻ giảm.
Mangan (Mn): ảnh hưởng đến trao đổi calci, phospho. Cần cho sự phát
triền của bộ xương, cấu tạo vỏ trứng, trao đổi protein, hoạt hóa các enzyme. .
Thiếu mangan sẽ dẫn đến bệnh trẹo gân khớp xương (perosis) và ở những mái
giống sẽ cho trứng có tỉ lệ nở thấp và phôi bị biến dạng.
Kẽm (Zn): tham gia quá trình trao đổi lipid, hydratcarbon, điều hòa chức
năng sinh dục và tạo máu. Zn cần cho sức đẻ trứng, tăng tỷ lệ có phôi, phát
triển lông, hình thành sớm enzyme. Thiếu kẽm sẽ gây ra chứng phình khớp

chân, xương bị co ngắn và lông phát triển kém.
Selen (Se): có vai trò trong trao đổi và hấp thụ vitamin E, phòng bệnh
tiêu chảy. Thiếu Se dẫn đến tạng bị rỉ dịch, tụy tạng bị thoái hóa ở gà con và
cũng gây ra sự loạn dưỡng ở cơ mề và cơ tim của gà tây (Bùi Xuân Mến,
2007).

10

Đồng (Cu): Cu tham gia tạo các enzyme oxy hóa, có quan hệ đến quá
trình hô hấp của mô bào. Cu làm tăng hấp thụ Fe để tạo ra hemoglobin của
hông cầu. Cu tham gia tạo sắc tố đen, thiếu Cu da gà nhợt nhạt, lông biến màu,
làm giảm sức hấp thụ sắc, rối loạn về xương, lớn chậm, rụng lông, vỏ trứng
mỏng.
Iod (I): Iod duy trì chức năng tuyến giáp trạng, điều hòa quá trình sinh
trưởng, sinh sản và trao đổi chất trong cơ thể. Thiếu Iod trong thức ăn làm
giảm tỷ lệ đẻ, tỷ lệ ấp nở (Lê Hông Mận. 2003)
Lưu huỳnh (S): lưu huỳnh cần thiết cho chuyển hóa protein, sản sinh
hormone, thiếu S trong khẩu phần khó có thể thấy được, nhưng khi dùng thuốc
cầu trùng liều cao sẽ gây thiếu S làm ảnh hưởng đến trao đổi phospho gà sẽ bị
còi xương.
Coban (Co): Coban là nguyên tố rất quan trọng cho cấu tạo vitamin B12
cho nên có vai trò kích thích tạo máu. Thiếu Co dẫn đến thiếu vitamin B12,
làm giảm đồng hóa protein, giảm trao đổi năng lượng, giảm tính thèm ăn.
2.2.4

Nhu cầu năng lượng
Nhu cầu năng lượng cho gà bao gồm năng lượng duy trì sự sống, năng
lượng sinh trưởng, năng lượng cho quá trình sản xuất trứng, tích lũy tăng trọng
thịt và mỡ. Yêu cầu năng lượng đối với gà con tương đối cao, nhất là gà thịt
3000-3300 kcal/kg thức ăn hỗn hợp, đồng thời phải có protein, khoáng và

vitamin thích hợp. Năng lượng thấp, gà gầy, chậm lớn (Lê Hồng Mận, 2001).

Các chất hữu cơ trong thức ăn bao gồm: protein, lipid, cacbohydrate,
trong đó carbohydrate chiếm tỉ lệ lớn nhất 40-60%, cung cấp năng lượng cho
cơ thể phát triển, duy trì các hoạt động sống bình thường, duy trì nhiệt độ, sản
xuất thịt trứng…Khi năng lượng dư thừa sẽ được tích lũy thành mỡ mà không
bị thải ra ngoài (Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận, 2001).
Khi nhiệt độ tăng cao gà phản ứng tự nhiên để chống lại là điều tiết thân
nhiệt bằng cách tăng dần tần số hô hấp, ăn ít và uống nhiều nước. Khi đó việc
tăng năng lượng và protein trong khẩu phần là rất cần thiết để bù đắp hao tổn
nói trên, nhưng khi nhiệt độ tiếp tục tăng quá 27% thì cơ thể gà bắt đầu rối
loạn, nếu nhiệt độ tiếp tục tăng nữa thì cơ thể gà không bị mất năng lượng như
trên mà lúc này ta phải biết giảm năng lượng trong thức ăn một cách hợp lý
(Trần Thị Kim Oanh, 1998). Cơ thể gà chỉ đồng hóa được 70-90% năng lượng
toàn phần, phần còn lại bị loại thải qua nước tiểu, phân, thải nhiệt.
Xây dựng khẩu phần cho gia cầm, năng lượng là yếu tố đầu tiên được
quan tâm. Một mức năng lượng thích hợp sẽ giúp tiết kiệm được chi phí thức

11

ăn cho mỗi đơn vị đơn sản phẩm. Xây dựng khẩu phần ăn cho gia cầm được
dựa trên khái niệm là gia cầm có xu hướng ăn để đáp ứng nhu cầu năng lượng
của chúng, giả định rằng khẩu phần đầy đủ chất dinh dưỡng thiết yếu (Hill et
al, 1956; Scott et al, 1982).
2.2.5 Vai trò của nước
Nước là thành phần cơ bản của sự sống. Nước rất quan trọng trong cấu
tạo cơ thể và mọi hoạt động sống của gà, chiếm 60-70% khối lượng cơ thể
sống, ở gia súc non tỉ lệ này còn cao hơn. Gà sống được khi thiếu ăn hàng
tuần, nhưng nước thiếu 1-2 ngày thì gà chết (Lê Hồng Mận, 2002). Nước là
môi trường cần thiết cho quá trình lên men của trao đổi chất trong cơ thể cũng

như đối với sự thẩm thấu và khuếch tán các chất (Melekhin et al, 1997).
Chất lượng nước ảnh hưởng đến sự tiêu thụ thức ăn, nếu chất lượng nước
giảm, sự tiêu thụ nước giảm kéo theo sự tiêu thụ thức ăn giảm và con vật bị
giảm năng suất (Lưu Hữu Mãnh et al, 1999). Nước rất quan trọng, chiếm 60-
70% khối lượng cơ thể gà.
Phương pháp cung cấp nước tốt nhất cho gà là cho chúng tiếp xúc trực
tiếp với nguồn nước để chúng được uống thỏa thích. Tuy nhiên cần đảm bảo
các chỉ tiêu vệ sinh nước uống, nồng độ chất hòa tan không vượt quá 15 g/1 lít.
Nước tốt chứa 2,5 g chất hòa tan/1 lít. NaCl không vượt quá 10 g/1 lít, muối
sulfate không quá một 1 g/1 lít, muối natri tối đa 50 - 100 ppm. Không cho vật
uống nước có chứa các tác nhân gây bệnh ký sinh trùng, truyền nhiễm hoặc
các chất độc hại (Vũ Duy Giảng, 1997).
2.2.6 Nhu cầu chất béo
Lipid (hay còn gọi chất béo) là chất dinh dưỡng cung cấp năng lượng cao
cấp hơn 2 lần so với glucid. Đối với gia cầm, lipid tạo một phần năng lượng và
chủ yếu tạo mỡ. Nhu cầu chất béo trong cơ thể gia cầm rất ít (Lê Hồng Mận,
2003).
Bảng 2.2 Tỷ lệ tiêu hóa chất béo của gà
Các loại chất béo Khả năng tiêu hóa (%)

kcal/kg thức ăn

Dầu đậu nành 95

9,168

Dầu mầm bắp 92

7,378


Mở heo 89

8,785

Mở bò 73

7,208

Tinh bột 90

420

(Kakuk và Schmidt, 1998)

12

Với mức độ chất béo thích hợp thì chất lượng hay số lượng các loại sản
phẩm gia cầm tạo ra không bị ảnh hưởng bất lợi, nhiều nghiên cứu về dinh
dưỡng gia cầm cho thấy thì ở mức độ thích hợp thì bổ sung chất béo luôn là
nguồn năng lương có ích, vừa làm tăng hiệu quả sử dụng protein cũng như
lysine và methionine trong thức ăn. Do quá trình diễn ra theo chiều hướng này
sẽ vừa có lợi và an toàn cho vật nuôi cũng như người tiêu dùng. Tuy nhiên nếu
vượt giới hạn nầy thì sẽ gây ra các rối loạn chuyển hóa chất béo, ảnh hưởng đến
năng suất, và sức khỏe người tiêu dùng.
Theo nghiên cứu của Haug et al (2007) thì khẩu phần ăn của gà thịt được
bổ sung acid béo omega-3 và selenium nguồn gốc hữu cơ sẽ giúp thân thịt gà
chứa nhiều acid béo omega-3 và selenium là nguồn cung cấp dưỡng chất lại cho
con người, giúp cải thiện sức khỏe và phòng ngừa các bệnh tim mạch.
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng trứng gà
2.3.1 Chuồng trại

Trong chăn nuôi hiện đại, vật nuôi bị nhốt hoàn toàn nên kỹ thuật chuồng
trại đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng năng suất của vật nuôi. Chuồng
trại quyết định điều kiện khí hậu và vệ sinh môi trường xung quanh vật nuôi.
Chuồng nuôi tốt sẽ tạo điều kiện tốt cho vật nuôi và cho năng suất tối đa.
Ngoài vật nuôi, người chăn nuôi cũng làm việc trong môi trường chăn
nuôi và chuồng nuôi chính là phương tiện quyết định đến điều kiện làm việc
của người lao động. Các thiết kế khác nhau của chuồng nuôi sẽ quyết định
năng suất lao động của người chăn nuôi (Võ Văn Sơn, 2002).
2.3.2 Giống
Các giống gà khác nhau thì có khối lượng, tốc độ tăng trưởng và khả năng
sử dụng thức ăn khác nhau. Theo Dương Thanh Liêm (2003) giống gà chuyên
trứng có tầm vóc nhỏ, sinh trưởng chậm nhưng thành thục sinh dục sớm.
2.3.3 Chọn lọc gà mái đẻ
Trước khi đẻ khoảng 20 – 22 tuần tuổi phải chọn những con quá nhỏ so
với trọng lượng bình quân để loại bỏ (trong lượng bình quân 1,65 – 1,7 kg/con).
Ngoài ra những con dị tật, thần kinh, mào không phát triển và trắng bệch,…
đều phải loại thải ( Nguyễn Xuân Bình, 2000).




13

Bảng 2.3: Những đặc điểm bên ngoài của gà mái đẻ tốt và đẻ kém
Các bộ phận cơ thể Gà mái đẻ tốt Gà mái đẻ xấu
Mào và tích tay To, mềm, màu đỏ tươi
, phát
triển tốt có nhiều mau mạch

Nhỏ, Nhợt nhạt, khô

Khoảng cách giữu x
ương
háng
Rộng, Đặt lọt 3 -
4 ngón
tay
Hẹp, chỉ đặt được 1 –
2
ngón tay
Khoảng cách giữu m
õm
xương lưỡi hái v
à xương
háng
R
ộng mềm, đặt lọt 3 ngón
tay
Hẹp, chỉ đẻ lọt 1 –
2
ngón tay
Lỗ huyệt Ướt, to, cử động, màu nhạt

Khô, bé, ít c
ử đông,
màu đậm
Bộ Lông Mềm, sáng, phát tri
ển tốt,
Không thay bộ lông cán
h
hàng thứ nhất

Xù, kém phát triển, Đ
ã
thay 5 ho
ặc nhiều lông
cánh hàng thứ nhất
Tính tình Ưu hoạt động Dữ tợn hoặc uể oải
Thân Dài, sâu, rộng Hẹp, ngắn, nông
Mỏ Ngắn, chắc Dài, mảnh
Mắt To, lồi, màu da cam Nhỏ, màu nâu xanh
Đầu Rông, sâu Hẹp, dài
Chân
Màu vàng, bóng, ngón
chân ngắn
Màu nhợt
, ngón chân
dài
Bụng Phát tri
ển tốt, khoang
cách giữa xương lườn v
à
xương háng rộng
Kém phát tri
ển, khoảng
cách giữa x
ương háng
và xương lườn hẹp
(Nguồn: Bùi Hữu Đoàn, 2009)
2.3.4 Điều kiện tiểu khí hậu
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do sự chênh
lệch về vĩ độ và có những đặc điểm kháu nhau về địa lý nên từng vùng có

những đăc trưng riêng (Đào Đức Long, 2004).
Môi trường sống ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của vật nuôi,
gia cầm cũng chiệu tác động tương tự như vậy.
2.3.4.1 Nhiệt độ
Theo Võ Bá Thọ (1996) Nhiệt độ trong chuồng nuôi là điều kiện quan
trong nhất. Ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và năng xuất trứng. Sự thay đổi
nhiệt độ môi trường sẽ ảnh hưởng đến việc chuyển hóa thức ăn, sự thay đổi
hoạt động của tuyến giáp trạng. Nhiệt độ cao hoặc thấp đều có tác động trức

14

tiếp đến gia cầm về chất lượng và sản lượng trứng thông qua mức tiêu tốn thức
ăn, khả năng hấp thụ dinh dưỡng. Nhiệt độ lý tưởng trong chuồng là 20 – 25
0
C.
Gia cầm trưởng thành chịu nhiệt độ thấp tốt hơn nhiệt độ cao, ở nhiệt độ
thấp 20
0
C thì mức tiêu thụ năng lượng của gia cầm là thấp nhất. Ở nhiệt độ
thấp, mức tiêu thụ thức ăn cao, lượng thức ăn nầy được sử dụng cho việc sưởi
ấm cơ thể, do vậy tiêu tốn thức ăn cho việc sản xuất ra một quả trứng là cao.
Trong khi ở nhiệt độ cao sẽ làm giảm mức tiêu thụ thức ăn, lượng thức ăn ăn
vào không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và như vậy sản lượng trứng sẽ giảm đi.
2.3.4.2 Ẩm độ
Theo Nguyễn Đức Hưng (2006) Ẩm độ chuồng gà sinh sản thích hợp là
60 - 70%.
Hơi nước trong chuồng nuôi có khoảng 75% được sản sinh từ cơ thể gia
súc, 20 – 25% từ mặt đất ( thức ăn, nước uống, …), 10 - 15% do không khí bên
ngoài chuồng trại đưa vào (Lê Việt Ly, 1995).
Sự biến đổi của độ ẩm vầ nhiệt độ không khí chuồng nuôi tương đối thích

ứng với nhau. Ban đêm ẩm độ tăng, buổi sáng và ban ngày giảm. Càng gần mái
chuồng, độ ẩm tuyệt đối càng lớn do phần lớn hơi nước tích tụ trên cao, nơi
nhiệt độ cao. Mặt khác lại thêm hơi thở của gia súc cũng góp phần đẩy không
khí nóng lên cao. Do vậy, dễ xuất hiện các giọt nước đọng lại ở mái chuồng gây
mất vệ sinh, ảnh hưởng tới sức khỏe gia súc.
Ẩm độ tương đối trong chuồng nuôi phụ thuộc hoàn toàn vào kỹ thuật
nuôi, mật độ nuôi, phương pháp cho uống và thể thức lưu thông khí của chuồng
nuôi. Khi ẩm độ cao gà có biểu hiện có thở dễ bị các bệnh đường hô hấp, ảnh
hưởng đến cơ chế điều tiết thân nhiệt của gà. Ẩm độ cao còn gây bất lợi gián
tiếp là tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển như: vi khuẩn, nấm mốc….đặc
biệt là cầu trùng. Mật độ nuôi càng cao thì ẩm dộ càng cao (Võ Bá Thọ, 1996).
Theo Lê Việt Ly (1995), ẩm độ tương đối từ 55 – 85%, mức độ ảnh
hưởng đến cơ thể chưa rõ rệt nhưng khi độ ẩm > 99% sẽ gây ảnh hưởng rất lớn.
Bất kỳ không khi cao hay thấp nhiệt độ ẩm ướt đều không tốt. Khi nhiệt độ
thấp, ẩm độ cao làm tăng sự tỏa nhiệt, gia súc bị lạnh khi nhiệt độ cao, ẩm độ
cao sẽ gây trở ngại sự tỏa nhiệt, nhiệt lượng thừa ở lại trong cơ thể gây rối loạn
chức năng sinh ly cơ thể.
Ẩm độ khô nhu cầu về nước uống của gà tăng lên đồng thời nhu cầu về
thức ăn sẽ giảm, gà dễ bị mất nước, da khô, chuồng bụi… Giữa nhiệt và ẩm độ
tương đối có mối tương quan nghịch nhau. Thông thường ẩm độ tốt nhất với gà
là từ 65 – 75% (Dương Thanh Liêm, 1999).

×