TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
HUỲNH HỒNG NGHI
THÀNH PHẦN ĐỘNG VẬT ĐÁY (Zoobenthos) TRÊN SÔNG HẬU
THUỘC VEN BỜ SÔNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀO MÙA
KHÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
HUỲNH HỒNG NGHI
THÀNH PHẦN ĐỘNG VẬT ĐÁY (Zoobenthos) TRÊN SÔNG HẬU
THUỘC VEN BỜ SÔNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀO MÙA
KHÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
THS. NGUYỄN VĂN THƯỜNG
2014
1
THÀNH PHẦN ĐỘNG VẬT ĐÁY (Zoobenthos) TRÊN SÔNG HẬU THUỘC
VEN BỜ SÔNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀO MÙA KHÔ
Huỳnh Hồng Nghi
Email:
ABSTRACT
The objective of research was to determine the diversity of zoobenthos and
database supply to build bioassessment program in Hau river. The study was
conducted at 14 sites of sampling consisted of 5 sites in the Hau river and 9
sites in its tributaries with two sampling times (12/2013 and 03/2014) in dry
season period at Can Tho City. The results showed that there were 68 species
of benthic macroinvertebrate belonging of 6 classes: Oligochaeta, Polychaeta,
Gastropoda, Bivalvia, Crustacea and Insecta. Among them, the species
number of Gastropoda and Bivalvia classes was higher than that of others
with 34 species (50%) and 16 species (24%), respectively. The different of
zoobenthos species between Hau river (53 species) and its tributaries (57
species) was not found. The average of density of benthic organisms on Hau
river (783±49 ind.m
-2
) was lower than that on its tributaries (930±96 ind.m
-2
).
Common species in study area was Branchiura sowerbyi, Limnodrilus
hoffmoisteri (Oligochaeta), Clea helena (Gastropoda), Corbicula fluminea
(Bivalvia). The Sorencen’s similarity index between Hau river and its
tributaries is 0.7. The Shannon–Weiner mean diversity index on major river
(2.04
0.34) was higher than that on its tributaries (1.87±0.38). In general,
benthic macroinvertebrate was quite diversity and they could be indicator
organisms to appreciate organic pollution of research area.
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tính đa dạng thành phần loài động
vật đáy, cung cấp nguồn dữ liệu cơ bản cho việc xây dựng các chương trình quan
trắc sinh học trên sông Hậu. Nghiên cứu được thực hiện gồm 2 đợt thu mẫu vào mùa
khô với đợt 1 vào tháng 12/2013 và đợt 2 là tháng 3/2014 tại Thành phố Cần Thơ.
Tổng số điểm thu mẫu gồm 14 điểm với 5 điểm trên sông chính và 9 điểm trên sông
nhánh. Kết quả đã tìm thấy được 68 loài động vật đáy thuộc 6 lớp: Oligochaeta,
Polychaeta, Gastropoda, Bivalvia, Crustacea và Insecta. Trong đó lớp Gastropoda
và Bivalvia có thành phần loài cao hơn các lớp khác lần lượt là 34 loài (50%) và 16
loài (24%). Không có sự khác biệt về thành phần loài động vật đáy giữa sông chính
(53 loài) và sông nhánh (57 loài). Mật độ động vật đáy trung bình trên tuyến sông
chính (783
49 cá thể/m
2
) thấp hơn so với các sông nhánh (930
96 cá thể/m
2
). Các
loài thường gặp là Branchiura sowerbyi, Limnodrilus hoffmoisteri (Oligochaeta),
2
Clea helena (Gastropoda), Corbicula fluminea (Bivalvia). Thành phần động vật đáy
trên sông chính và sông nhánh ở mức tương đồng 0,7. Chỉ số đa dạng Shannon-
Weiner (H’) trung bình trên các sông chính (2,04
0,34) cao hơn so với tuyến sông
nhánh (1,87
0,38). Nhìn chung, thành phần động vật đáy khá đa dạng và chúng có
thể được xem là sinh vật chỉ thị để đánh giá chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu.
1 GIỚI THIỆU
Sông Hậu có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho các hoạt động sinh
hoạt, công nghiệp, nông nghiệp cho Thành phố Cần Thơ. Cần Thơ còn là trung tâm
công nghiệp của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng là nơi có mật độ dân cư
đông đúc, đã làm gia tăng một lượng lớn chất thải đổ vào các con sông. Do đó chất
thải là nguyên nhân dẫn đến chất lượng nước suy giảm, theo Hellawell (1968) (trích
dẫn bởi Lê Công Quyền, 2009) chất thải hữu cơ đi vào trong nước đã làm giảm hàm
lượng oxy hòa tan, gia tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước, làm thay đổi
vật chất nền đáy gây nên sự thay đổi thành phần loài và sự phân bố của sinh vật trong
quần xã sinh vật trong hệ thống sông ngòi. Hiện nay, việc nghiên cứu và sử dụng các
sinh vật để đánh giá, kiểm soát và cải thiện chất lượng môi trường đã đạt được nhiều
thành tựu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới (Lê Văn
Khoa và ctv., 2007). Một trong những phương pháp đánh giá nhanh là quan trắc môi
trường thông qua nhóm sinh vật chỉ thị, nhóm sinh vật này phản ứng với toàn bộ tác
động của môi trường nước (Nguyễn Dương Thạo và ctv., 2007). Do đó trường hợp
đánh giá tác động của ô nhiễm nước từ chất thải sinh hoạt đến hệ sinh thái nước thì
nhóm động vật đáy thường được chọn (Lê Văn Khoa và ctv., 2007). Ngoài ra, động
vật đáy là nhóm sinh vật có vai trò quan trọng trong thủy vực như là mắc xích rất
quan trọng trong mạng lưới thức ăn, có khả năng lọc sạch nước và làm sinh vật chỉ
thị cho môi trường (Thái Trần Bái, 2010). Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thành phần
loài động vật đáy trong quan trắc chất lượng nước trên tuyến sông Hậu thuộc Thành
phố Cần Thơ còn rất hạn chế. Do đó đề tài “Thành phần động vật đáy (Zoobenthos)
trên sông Hậu thuộc ven bờ sông Thành phố Cần Thơ vào mùa khô” được thực
hiện nhằm xác định tính đa dạng thành phần loài động vật đáy để đánh giá nguồn
thức ăn tự nhiên ở khu vực nghiên cứu; đồng thời cung cấp dữ liệu cơ bản làm cơ sở
cho việc xây dựng các chương trình quan trắc sinh học trên tuyến sông Hậu.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện gồm 2 đợt thu mẫu vào mùa khô với đợt 1 vào tháng
12/2013 và đợt 2 là tháng 3/2014 trên sông Hậu thuộc đoạn sông của Thành phố Cần
Thơ. Tổng cộng có 14 điểm thu mẫu bao gồm 5 điểm trên sông chính và 9 điểm trên
sông nhánh (Bảng 1). Mẫu động vật đáy được thu bằng gàu đáy Pertersen có diện
tích miệng gàu 0,03 m², trọng lượng 14kg. Mỗi điểm thu 10 gàu theo mặt cắt ngang
của sông, cách bờ 10-20 m đối với sông chính và 5-10 m đối với sông nhánh. Sau khi
thu, lọc sơ bộ mẫu qua sàng đáy có kích thước mắt lưới 0,5 mm để loại bỏ bớt bùn,
rác, sau đó cho mẫu vào bọc nylon và cố định bằng formol với nồng độ 8-10%, sau
3
đó mẫu được làm sạch bằng cách dùng pel gắp những cá thể động vật đáy có trong
mẫu thu cho vào chai nhựa và trữ mẫu bằng cồn 90
o
. Tiến hành định danh tên các
giống loài động vật đáy theo tài liệu đã được công bố của Bouchard (2004), Đặng
Ngọc Thanh và ctv. (1980) và Sangpradub and Boonsoong (2006). Ngoài ra, nghiên
cứu còn tính toán chỉ số đa dạng Shannon-Weiner (H’) (1963) và chỉ số tương đồng
Sorensen (1948) để xác định tính đa dạng và sự tương đồng thành phần loài động vật
đáy giữa khu vực khảo sát. Số liệu được thống kê theo từng điểm thu và từng đợt thu
mẫu bằng phần mềm Excel.
Bảng 1: Các điểm thu mẫu của khu vực khảo sát
Sinh thái
sông
Điểm thu
mẫu
Đặc điểm
Sông
chính
Thốt Nốt
Chịu ảnh hưởng nước thải sinh hoạt của cư dân hai bên bờ,
buôn bán cây xăng, lò rượu và nhiều tàu bè qua lại .
Ô Môn
Có tàu lớn qua lại, ít nhà dân.
Bình Thủy
Ảnh hưởng bởi nước và nhiều rác thải sinh hoạt của cư dân hai
bên bờ sông, nhiều tàu bè và nhiều váng dầu trên mặt sông.
Trà Nóc
Thủy vực chịu ảnh hưởng từ khu công nghiệp và thủy sản, có
nhiều tàu lớn qua lại.
Ninh Kiều
Ít chịu ảnh hưởng nước thải.
Sông
nhánh
Bò Ót
Có nhiều nhà dân ở hai bên bờ và nhiều lò sấy.
K. Thắng
Lợi 1
Dân cư hai bờ thưa thớt, chịu ảnh hưởng từ nước thải từ ao
nuôi cá tra.
K. Thắng
Lợi 2
Có nhiều nhà dân, gần trường học, nhiều ghe lúa đậu ở ven
sông và chịu ảnh hưởng từ khu thủy sản cá tra.
Thốt Nốt
Chịu ảnh hưởng nước thải sinh hoạt từ khu dân cư, có nhà máy
gạo và nhiều tàu bè qua lại.
NT Sông
Hậu 1
Có nhiều nhà dân và chịu ảnh hưởng bởi nước thải từ sản xuất
nông nghiệp.
NT Sông
Hậu 2
Ô Môn
Ảnh hưởng bởi nước thải sinh hoạt từ khu dân cư, rác trên
sông nhiều. Có công ty vật liệu xây dựng và cây xăng.
Trà Nóc
Chịu ảnh hưởng từ nước và rác thải sinh hoạt của khu dân cư.
Cái Răng
Thủy vực chịu ảnh hưởng nước thải sinh hoạt từ khu dân cư,
hoạt động của xuồng ghe, cây xăng, nước đục phù sa.
Hình 1: Bản đồ Thành Phố Cần Thơ
4
3. KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Thành phần động vật đáy trên sông Hậu
Qua hai đợt thu mẫu, thành phần loài động vật đáy trên tuyến sông Hậu thuộc Thành
phố Cần Thơ đã tìm thấy được tổng số 68 loài thuộc 6 lớp: giun ít tơ (Oligochaeta),
giun nhiều tơ (Polychaeta), chân bụng (Gastropoda), hai mảnh vỏ (Bivalvia), giáp
xác (Crustacea) và ấu trùng côn trùng (Insecta). Trong đó, Gastropoda đa dạng nhất
và chiếm ưu thế tại các khu vực khảo sát với 34 loài (50%); kế tiếp là Bivalvia có 16
loài (24%); các lớp còn lại có số lượng ít hơn dao động từ 2 đến 6 loài (3%-9%)
(Hình 2).
Oligochaeta
6 loài,
9%
Insecta
5 loài
7%
Crustacea
5 loài,
7%
Polychaeta
2 loài
3%
Gastropoda
34 loài
50%
Bivalvia
16 loài
24%
Hình 2: Thành phần loài động vật đáy trên sông Hậu
Qua Hình 2 cho thấy kết quả của nghiên cứu này có thành phần loài động vật đáy (68
loài) cao hơn so với kết quả khảo sát thành phần loài động vật đáy trên tuyến sông
hậu thuộc tỉnh An Giang và Thành Phố Cần Thơ của Nguyễn Thị Mai Thuy (2013),
với 5 đợt khảo sát tìm thấy 38 loài động vật đáy thuộc 6 lớp, trong đó lớp Gastropoda
có số lượng loài nhiều nhất với 13 loài (33%), ít nhất là lớp polychaeta với 3 loài
(8%). Điều này cho thấy ở khu vực khảo sát có thành phần loài động vật đáy thu
được khá phong phú. Lớp Gastropoda và Bivalvia có thành phần loài phong phú hơn
so với các lớp khác, do các thủy vực được khảo sát là thủy vực nước chảy, cấu trúc
nền đáy mềm phần lớn là bùn-cát đến bùn nên thuận lợi cho chúng phát triển. Theo
nghiên cứu của Đặng Ngọc Thanh và ctv., (2002) cấu trúc nền đáy có tác động đến
sự phân bố cũng như cấu trúc thành phần loài động vật không xương sống, các thủy
vực nước nông, nền đáy mềm bùn-cát, cát-bùn thuận lợi cho sinh vật đáy phát triển.
Qua hai đợt thu mẫu, những loài động vật đáy có số lượng lớn và chiếm ưu thế như:
Branchiura sowerbyi, Limnodrilus hoffmeisteri, Tubifex sp. (Oligochaeta);
Namalycastis logiciris, Tylorhynchus heterochaetus (Polychaeta); Clea helena,
Filopadulina sumatrensis (Gastropoda); Corbicula fluminea, Limnoperna fortunei
(Bivalvia).
5
3.2 Thành phần động vật đáy qua các đợt thu mẫu
Thành phần loài động vật đáy qua 2 đợt thu mẫu không có sự chênh lệch lớn, trong
đó thành phần loài đợt 1 (51 loài) thấp hơn đợt 2 (54 loài). Trong đó lớp Gastropoda
có thành phần loài cao nhất (21-26 loài) và lớp Bivalvia có thành phần loài cao thứ 2
(13-15 loài). Các lớp còn lại có số loài ít hơn, lớp Polychaeta là lớp có số loài ít nhất
(2 loài) (Hình 3).
0
10
20
30
40
50
60
Đợt 1 Đợt 2
Số loài
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda Bivalvia Crustacea Insecta Tổng
Hình 3: Cấu trúc thành phần loài động vật đáy qua hai đợt khảo sát
Sự biến động số loài giữa hai đợt chủ yếu là do sự phân bố của một số loài chỉ xuất
hiện trong đợt 1 mà không thấy xuất hiện trong đợt 2 như: Aulodrilus sp,,
Lumbrilculus sp. (Oligochaeta); Angulyagra polyzonata, Bellamya quadrata,
Bythiospeum clessini, Clea scalarina, Filopadulina martensi, Gyraulus
convexiusculus, Melanoides turbeculata, Pomacea canaliculata (Gastropoda);
Corbicula leviuscula (Bivalvia); Caridina sp. (Crustacea); Ablabesmyia sp. (Insecta).
Và ngược lại, số loài xuất hiện trong đợt 2 mà không có trong đợt 1 như: Bellamya
angularis, Brotia friniana, Gyraulus sp., Lymnae sp., Melanoides maculata,
Morrisonietta siamensis, Oncomelania hupensis, Pomacea sp., Radix ovata, Sermyla
venustula, Stenothyra moussoni, Volvarina sp., Wattebledia sp. (Gastropoda);
Anodonta sp., Corbicula moreletiana, Scabies sp. (Bivalvia); Corophium sp.
(Crustacea). Qua hai đợt khảo sát loài Limnodrilus hoffmeisteri và Branchiura
sowerbyi luôn xuất hiện ở hầu hết các điểm do chúng là loài có khả năng tồn tại trong
môi trường có hàm lượng vật chất hữu cơ cao và thích hợp với tất cả các loại nền đáy
ở thủy vực. Ngoài ra, ấu trùng của lớp Insecta luôn có số loài rất thấp cũng được tìm
thấy ở một số điểm thu mẫu do chúng chủ yếu phân bố tại các thủy vực có nhiều cây
cỏ thủy sinh và nước tĩnh như đồng ruộng, ao, hồ, đầm Ở các thủy vực đã bị nhiễm
bẩn nặng thành phần động vật đáy ấu trùng muỗi Chironomus sp. chiếm ưu thế so
với Oligochaeta. Khi ở thủy vực bẩn vừa thì Oligochaeta và Chironomus sp. thay
phiên nhau giữ vai trò ưu thế nhưng ở những thủy vực bẩn vừa loại α Oligochaeta
luôn chiếm ưu thế (Nguyễn Xuân Quýnh và ctv., 2004; trích dẫn bởi Nguyễn Thị
Mai Thuy, 2013).
3.3 Biến động thành phần và mật độ động vật đáy trên sông chính
6
Thành phần loài động vật đáy trên tuyến sông Hậu tại các điểm thu mẫu dao động từ
11-21 loài. Phần lớn các điểm thu mẫu đều có thành phần loài ở đợt 2 cao hơn so với
đợt 1, tuy nhiên điểm thu tại sông Ô Môn thì ngược lại, riêng sông Bình Thủy có số
loài (Hình 4) không thay đổi qua hai đợt khảo sát. Mật độ động vật đáy tại các điểm
thu mẫu dao động từ 160-2.543 cá thể/m
2
. Mật độ động vật đáy cao nhất là sông Trà
Nóc (2.543 cá thể/m
2
) và thấp nhất sông Bình Thủy (160 cá thể/m
2
). Mật độ cao tại
sông Trà Nóc là do vào mùa khô hàm lượng dinh dưỡng trong môi trường nước tăng
cao đồng thời sự tích tụ hàm lượng vật chất hữu cơ trên nền đáy cao, điều này thể
hiện thông qua chỉ số TOM trung bình dao động 6,3-6,1 mg/g đã tạo điều kiện thuận
lợi cho động vật đáy phát triển. Mật độ động vật đáy tại các điểm thu mẫu trên tuyến
sông chính được thể hiện ở Hình 5.
0
5
10
15
20
25
1 2 1 2 1 2 1 2 1 2
Thốt Nốt Ô Môn Bình Thủy Trà Nóc Ninh Kiều
Số loài
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda Bivalvia Crusacea Insecta
Hình 4: Thành phần loài động vật đáy tại các điểm thu qua hai đợt khảo sát
trên tuyến sông chính
Tại các điểm thu mẫu bị ảnh hưởng bởi nước thải sinh hoạt như sông Thốt Nốt, sông
Ô Môn và Bình Thủy, trong đó sông Bình Thủy có thành phần loài động vật đáy kém
đa dạng hơn các điểm còn lại (14 loài) với mật độ biến động từ 160 đến 280 cá
thể/m
2
. Điều này là do nền đáy tại thủy vực chủ yếu là bùn-cát và có nhiều váng dầu
trên mặt nước từ tàu thuyền neo đậu thải ra và rất nhiều rác thải sinh hoạt tích tụ ở
nền đáy và phân hủy yếm khí gây độc cho sinh vật nên hạn chế sự phát triển của các
loài động vật đáy. Điểm thu mẫu tại sông Ô Môn có thành phần loài biến động từ 14-
17 loài (197-383 cá thể/m
2
) thấp hơn so với sông Thốt Nốt với 15-21 loài (627-1.327
cá thể/m²) có sự xuất hiện ưu thế của loài Limnodrilus hoffmeisteri (417 cá thể/m
2
)
cho thấy thủy vực bị ô nhiễm hữu cơ, mật độ động vật đáy ở Thốt Nốt tăng cao vào
đợt 2 là do vào thời điểm này hàm lượng TOM đạt khá cao (7,56 mg/g) với nền đáy
là bùn cát thuận lợi cho động vật đáy phát triển.
Sông Ninh Kiều cũng có số loài động vật đáy khá đa dạng từ 11-17 loài với mật độ
biến động 213-273 cá thể/m², trong đợt 2 không thấy sự xuất hiện của Polychaeta,
Crustacea và Insecta và số loài của Gastropoda tăng lên 10 loài chiếm ưu thế về mật
7
độ 160 cá thể/m². Nền đáy tại thủy vực là bùn-cát TOM (4,12-4,24 mg/g) thích hợp
cho Gastropoda và Bivalvia phát triển
Đối với điểm thu sông Trà Nóc, nơi chịu ảnh hưởng của nước thải công nghiệp có
thành phần loài khá phong phú (17-18 loài) và mật độ đạt cao nhất trong số các điểm
thu trên sông chính, hàm lượng TOM biến động 4,66-6,62 mg/g, nền đáy cát-bùn.
Trong đó, lớp Gastropoda có thành phần loài đa dạng và mật độ đạt khá cao và biến
động từ 1.410-1.733 cá thể/m² (55-95%) với sự ưu thế của loài Filopadudina
sumatrensis (980 cá thể/m
2
), ngoài ra mật độ của Oligochaeta cũng đạt khá cao vào
đợt 1 (1.100 cá thể/m²) với sự ưu thế của loài Limnodrilus hoffmeisteri (757 cá
thể/m
2
) do điểm thu tiếp nhận lượng nước thải từ công ty chế biến thủy sản và các
nhà máy sản xuất khác, lượng vật chất hữu cơ trong nước thải khi phân hủy đã tạo
điều kiện thuận lợi cho lớp giun ít tơ phát triển. Kết quả này cũng phù hợp với kết
quả nghiên cứu của Smiljkov et al. (2005) (được trích bởi Mai Đức Long, 2011), đối
với nền đáy có cấu trúc là cát, cát-bùn, bùn-cát và bùn thì nhóm động vật thân mềm
chiếm đa số. Qua khảo sát thì Gastropoda xuất hiện với mật độ cao và Oligochaeta ở
đợt 2 giảm chỉ còn 20 cá thể/m², cho thấy chất lượng nước và nền đáy của thủy vực
đang được cải thiện, mặc dù vẫn trong tình trạng ô nhiễm.
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
1 2 1 2 1 2 1 2 1 2
Thốt Nốt Ô Môn Bình Thủy Trà Nóc Ninh Kiều
Cá thể/m2
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda Bivalvia Crusacea Insecta
Hình 5: Mật độ động vật đáy trên tuyến sông chính tại các điểm thu
3.4 Biến động thành phần và mật độ động vật đáy trên các sông nhánh
Nhìn chung, thành phần loài động vật đáy phát hiện được ở hầu hết các điểm thu
sông nhánh đều có đợt 2 cao hơn so với đợt 1, ngoại trừ điểm thu ở kênh Thắng Lợi
1 và sông Ô Môn, riêng điểm thu ở sông Thốt Nốt có số loài không thay đổi qua các
đợt khảo sát Thành phần động vật đáy tại các điểm thu trên các sông nhánh dao
động từ 10-25 loài. Trong đó, lớp Gastropoda và Bivalvia có thành phần loài phong
phú hơn các lớp khác ở hầu hết các điểm khảo sát (Hình 6). Mật độ động vật đáy trên
các sông nhánh từ 260-2.679 cá thể/m
2
ở đợt 1 và 270-1.977 cá thể/m
2
ở đợt 2. Mật
độ động vật đáy trên các sông nhánh cao nhất ở kênh Thắng Lợi 1 với 2.679 cá
8
thể/m
2
và thấp nhất ở kênh Nông trường sông Hậu 2 với 260 cá thể/m
2
. Mật độ động
vật đáy tại các điểm thu mẫu được thể hiện ở Hình 7.
0
5
10
15
20
25
30
1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2
Bò Ót Thắng Lợi
1
Thắng Lợi
2
NT sông
Hậu (1)
NT sông
Hậu (2)
Thốt Nốt Ô Môn Trà Nóc Cái Răng
Số loài
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda Bivalvia Crustacea Insecta
Hình 6: Thành phần loài động vật đáy trên sông nhánh tại các điểm thu
Các điểm chịu ảnh hưởng bởi nguồn nước thải sinh hoạt như Thốt Nốt, Ô Môn, Trà
Nóc và Cái Răng có thành phần loài dao động từ 10-18 loài với mật độ trung bình
384-1.092 cá thể/m
2
. Trong đó, sông Thốt Nốt có thành phần loài khá đa dạng từ 18
loài, mật độ qua 2 đợt khảo sát khá cao từ 787-1.397 cá thể/m
2
. Do đây là thủy vực bị
ảnh hưởng bởi nguồn nước thải sinh hoạt và rác thải ven bờ, hàm lượng TOM 6,2-
5,37 mg/g và nền đáy là bùn-cát, cát-bùn nên tạo điều kiện thuận lợi cho sinh vật đáy
phát triển. Tại sông Cái Răng có thành phần loài dao động 10-11 loài với mật độ
537-679 cá thể/m
2
và nền đáy chủ yếu là bùn nên thích hợp cho sự phát triển với các
loài Branchiura sowerbyi (83 cá thể/m²), Limnodrilus hoffmeisteri (337 cá thể/m²)
thuộc lớp Oligochaeta; Namalycastis logiciris (33 cá thể/m
2
) và Tylorhynchus
heterochaetus (200 cá thể/m
2
) thuộc lớp Polychaeta. Do chịu ảnh hưởng bởi nguồn
nước thải hữu cơ từ khu dân cư sinh sống ven sông và chợ nổi trên sông đã tác động
đến chất lượng nguồn nước gây ô nhiễm hữu cơ cho thủy vực Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của Lê Văn Thọ và Đỗ Thị Bích Lộc (2009), vào mùa khô giun nhiều
tơ Namalycastis logiciris phát triển mạnh và chiếm ưu thế ở khu vực có nền đáy bùn
nhuyễn màu đen, mùi hôi với nhiều xác bã hữu cơ nơi hợp lưu của rạch và sông.
Điểm thu tại nhánh sông Ô Môn có thành phần loài và mật độ dao động (17-16 loài,
714-667 cá thể/m²) cho thấy thành phần loài, mật độ của Ô Môn dao động không
đáng kể, trong đợt 2 xuất hiện loài Tubifex sp. (Oligochaeta) với mật độ khá cao so
với các điểm khác và là một trong hai loài chiếm ưu thế tại điểm thu này. Theo
Dương Trí Dũng và ctv. (2008), giun ít tơ thuộc họ Tubificidae luôn xuất hiện trên
các điểm khảo sát đã chứng tỏ sự ô nhiễm của môi trường nước. Đối với sông Trà
Nóc có số loài và mật độ tăng lên 11-13 loài, 347-420 cá thể/m², trong đó mật độ của
Gastropoda và Bivalvia chiếm ưu thế, chứng tỏ mức độ ô nhiễm hữu cơ có xu hướng
giảm đi vào đợt 2.
Điểm thu tại sông Bò Ót có thành phần loài động vật đáy dao động từ 19-25 loài với
mật độ 1.170-1.159 cá thể/m
2
, hàm lượng TOM cũng khá cao và biến động từ 5,14-
5,5 mg/g với tính chất nền đáy là sét-bùn, sét-cát-bùn là điều kiện thuận lợi cho các
9
loài thuộc lớp Gastropoda phát triển với sự ưu thế của loài Filopadulina sumatrensis
(193 cá thể/m
2
) và Clea helena (147 cá thể/m
2
). Vị trí thu ở kênh Thắng Lợi 1 có
mật độ động vật đáy ở đợt 2 thấp hơn đợt 1, đây là điểm thu gần cống xả của ao nuôi
cá tra có mật độ động vật đáy đạt khá cao và biến động 611-2.679 cá thể/m² với sự
ứu thế của loài hến sông Corbicula fluminea (1.393 cá thể/m
2
) vào đợt 1, khi thu mẫu
ở đợt 2 thì hai mảnh vỏ chết rất nhiều và các ao cá tra đang trong thời gian cải tạo, có
thể bị ảnh hưởng do hóa chất xử lý quá nhiều gây độc cho động vật đáy nơi đây đặc
biệt là hai mảnh vỏ. Còn kênh Thắng Lợi 2, có mật độ tăng lên khi qua 2 đợt khảo sát
(527-1.977 cá thể/m²) và hàm lượng hữu cơ tạo điều kiện cho Bivalvia và các loài
động vật đáy phát triển.
Điểm thu tại kênh Nông trường sông Hậu 1 tìm thấy 17-24 loài, trong đó lớp
Gastropoda, Bivalvia và Oligochaeta luôn có thành phần loài và mật độ cao nhất qua
hai đợt thu mẫu, mật độ động vật đáy biến động từ 740-1.797 cá thể/m
2
với sự ưu thế
của loài ốc đinh Melanoides erythrozona (560 cá thể/m
2
), đây là loài ốc có vỏ dày và
có khả năng chịu đựng tốt trong điều kiện môi trường bị ô nhiễm. Mặc khác, hàm
lượng TOM cũng đạt rất cao ( 7,8-8,38 mg/g), tính chất nền đáy chủ yếu là bùn-cát
nên thích hợp cho lớp Oligochaeta, Gastropoda và Bivalvia phát triển. Tại kênh
Nông trường sông Hậu 2 có thành phần loài biến động 17-13 loài và mật độ 260-270
cá thể/m², số loài ở đợt 2 thấp hơn đợt 1 là 4 loài; do thủy vực chịu ảnh hưởng bởi
nguồn nước thải từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp thải trực tiếp ra sông gây ô
nhiễm nguồn nước là điều kiện thuận lợi cho động vật đáy phát triển.
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2
Bò Ót Thắng
Lợi 1
Thắng
Lợi 2
NT sông
Hậu (1)
NT sông
Hậu (2)
Thốt Nốt Ô Môn Trà Nóc Cái
Răng
Cá thể/m2
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda Bivalvia Crustacea Insecta
Hình 7: Mật độ động vật đáy các sông nhánh tại các điểm thu
3.5 So sánh biến động thành phần loài và mật độ động vật đáy trên tuyến sông
chính và các sông nhánh
Thành phần loài động vật đáy trên tuyến sông chính và sông nhánh không có sự khác
biệt lớn với số loài động vật đáy trên sông chính là 53 loài và sông nhánh là 57 loài
thuộc 6 lớp: Oligochaeta, Polychaeta, Gastropoda, Bivalvia, Crustacea và Insecta
(Hình 8a). Xét về thành phần loài động vật đáy trung bình trên tuyến sông chính và
trên các sông nhánh, kết quả khảo sát cho thấy không có sự khác biệt về số loài trung
10
bình giữa hai khu vực với 16±1 loài. Trong đó lớp Gastropoda có số loài trung bình
cao nhất so với các lớp khác trên sông chính và sông nhánh lần lượt là (8±2 loài) và
(7±1 loài).
Mật độ động vật đáy trên các sông chính (783±49 cá thể/m²) không có sự chênh lệch
lớn so với các điểm thu trên sông nhánh (930±96 cá thể/m²). Trên tuyến sông chính,
mật độ trung bình của lớp Gastropoda đạt cao nhất (397±113 cá thể/m²), kế đến là
Oligochaeta (258±78 cá thể/m²), thấp nhất là Crustacea (3±4 cá thể/m²) và các lớp
còn lại dao động từ 23±13 đến 56±37 cá thể/m². Trên các sông nhánh, Oligochaeta
có mật độ cao nhất (354±133 cá thể/m²), kế đến là Gastropoda (262±174 cá thể/m²),
thấp nhất là Crustacea (3±1 cá thể/m²) và các lớp còn lại dao động từ 16±16 đến
223±153 cá thể/m² (Hình 8b). Trong đó, mật độ trung bình lớp Gastropoda cao hơn
sông nhánh nhưng Oligochaeta lại thấp hơn sông nhánh, cho thấy mức độ nhiễm
nước trên sông nhánh cao hơn sông chính với sự xuất hiện với mật độ cao của loài
Branchiura sowerbyi và Limnodrilus hoffmeisteri.
Qua 2 đợt khảo sát đã tìm thấy tổng cộng 41 loài động vật đáy xuất hiện ở cả sông
chính và sông nhánh, chỉ số tương đồng Sorensen ghi nhận được là 0,7. Do các sông
nhánh là chi lưu của tuyến sông chính nên sự phân bố của các loài động vật đáy giữa
hai khu vực này có tính chất giao thoa rõ rệt. Theo Phạm Anh Đức (2004) khi chỉ số
S nằm trong khoảng từ 0,5 đến 0,7 thì thành phần loài động vật đáy có sự tương đồng
về thành phần loài giữa hai khu vực khảo sát. Như vậy, với chỉ số S =0,7 ở nghiên
cứu này thì thành phần loài động vật đáy có sự tương đồng khá cao giữa sông chính
và sông nhánh.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
1 2 1 2
Sông chính Sông nhánh
(a)
Số loài
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda
Bivalvia Crustacea Insecta
0
200
400
600
800
1000
1200
1 2 1 2
Sông chính Sông nhánh
(b)
Cá thể/m2
Oligochaeta Polychaeta Gastropoda
Bivalvia Crustacea Insecta
Hình 8: Thành phần loài (a) và mật độ động vật đáy (b) trung bình trên sông
chính và sông nhánh
3.6 Đánh giá tính đa dạng thành phần loài động vật đáy
Chỉ số đa dạng động vật đáy trên sông Hậu thuộc Thành phố Cần Thơ tại các điểm
thu biến động trong khoảng từ 1,14-2,47 (Hình 9). Tại các điểm thu trên sông chính,
chỉ số đa dạng H’ dao động từ 1,39-2,47, trong đó sông Ninh Kiều có H’ cao nhất
(2,47) thể hiện tính đa dạng thành phần với số loài phát hiện được là 17 loài và mật
11
độ là 273 cá thể/m
2
. Đây là thủy vực này ít chịu ảnh hưởng bởi các nguồn nước thải,
nền đáy chủ yếu là bùn-cát thích hợp cho các loài động vật đáy phát triển nhất là lớp
gastropoda. Điểm thu tại Thốt Nốt, Ô Môn và Bình Thủy có chỉ số H’ dao động từ
1,93-2,37 thuộc mức hơi ô nhiễm tới ô nhiễm. Thốt Nốt và Ô Môn có tính đa dạng
thành phần loài ở mức tương đối cao (14-21 loài), còn Bình Thủy có thành phần loài
thấp hơn (14 loài). Các thủy vực này chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi nước thải sinh hoạt
nên các chất thải lắng tụ ở nền đáy làm hạn chế tính đa dạng của quần thể động vật
đáy, riêng Bình Thủy có số loài thấp so với các điểm khác trên sông chính có thể là
do nơi này có nhiều tàu, thuyền lớn neo đậu những phương tiện này thường xuyên
thải trực tiếp ra sông một lượng dầu lớn ra sông và rất nhiều rác thải sinh hoạt gây
hạn chế thành phần loài. Bên cạnh đó, điểm thu ở Trà Nóc theo đợt 1 và 2 thì chỉ số
H’ thấp nhất so với các điểm trên sông chính có sự chênh lệch giữa 2 đợt khảo sát
với H’=1,63 và H’=1,39 tương ứng với số loài phát hiện được là 17 loài và 18 loài.
Do đây là thủy vực bị ảnh hưởng nặng nhất trong tuyến sông chính bởi rác và nước
thải chưa được xử lý được thải trực tiếp từ khu công nghiệp Trà Nóc như công ty chế
biến thủy sản và các công ty sản xuất khác, gây ô nhiễm vừa, nền đáy chủ yếu là cát
và có mùi hôi. Với mật độ động vật đáy chủ yếu là của lớp giun ít tơ, chỉ thị đặc
trưng cho thủy vực bị ô nhiễm hữu cơ.
Tại các điểm thu trên các sông nhánh, chỉ số đa dạng H’ qua 2 đợt khảo sát biến động
lớn từ 1,14-2,38. Các điểm thu tại sông Bò Ót, nhánh sông Thốt Nốt, Nông trường
sông Hậu 1, Nông trường sông Hậu 2 và nhánh sông Trà Nóc có chỉ số đa dạng từ
1,98-2,38 từ mức hơi ô nhiễm đến ô nhiễm, với mật độ dao động (265-1.269 cá
thể/m²). Còn điểm thu ở kênh Thắng Lợi 1, kênh Thắng Lợi 2, nhánh sông Ô Môn và
Cái Răng có chỉ số đa dạng từ 1,14-1,75 với mức ô nhiễm vừa (608-1.645 cá thể/m²).
Nhìn chung, các sông nhánh có chỉ số H’ trung bình (1,870,38) thấp hơn so với các
điểm thu trên sông chính (2,040,34). Kết quả này ngược với kết quả của Nguyễn
Thị Mai Thuy (2013) khi khảo sát thành phần động vật đáy trên tuyến sông Hậu
thuộc tỉnh An Giang và Thành phố Cần Thơ, trong đó sông chính có chỉ số đa dạng
trung bình (1,69±0,08) thấp hơn so với sông nhánh (1,83±0,31).
Mặc dù có sự biến động về chỉ số H’ tại các điểm thu trên sông chính và sông nhánh
nhưng nhìn chung giá trị H’ tại các điểm thu đều lớn hơn 1, trung bình 1,930,37.
Cho thấy kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lê Văn Thọ, (2011) đa dạng sinh
học động vật đáy không xương sống cỡ lớn và chất lượng nước sinh học nền đáy tại
sông Vàm Cỏ Đông, tỉnh Long An có độ đa dạng (H’) vào mùa khô (1,0-2,2) có xu
hướng cao hơn mùa mưa (0,6-2,0). So với kết quả xếp hạng chất lượng nước dựa trên
chỉ số đa dạng của Stau et al. (1970) (trích dẫn bởi Đặng Ngọc Thanh và ctv., 2002)
thì chỉ số đa dạng trên sông Hậu tương đối thấp và nằm trong khoảng từ 1-2,5 và
tương ứng với chất lượng nước đang ở mức ô nhiễm nhẹ đến ô nhiễm vừa.
12
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
Thốt
Nốt
Ô Môn Bình
Thủy
Trà
Nóc
Ninh
Kiều
Bò Ót K
Thắng
Lợi 1
K
Thắng
Lợi 2
Nông
Trường
SH 1
Nông
Trường
SH 2
NS
Thốt
Nốt
NS Ô
Môn
NS Trà
Nóc
Cái
Răng
Sông chính Sông nhánh
H'
ĐỢT 1 ĐỢT 2
Hình 9: Chỉ số đa dạng động vật đáy tại các điểm thu qua hai đợt khảo sát
4 KẾT LUẬN
- Kết quả đã tìm thấy 68 loài động vật đáy thuộc 6 lớp: Oligochaeta, Polychaeta,
Gastropoda, Bivalvia, Crustacea và Insecta. Trong đó lớp Gastropoda có thành phần
loài cao nhất với 34 loài, thấp nhất lớp Polychaeta với 2 loài.
- Ở sông chính đã tìm thấy 53 loài thuộc 6 lớp. Trong đó, lớp Gastropoda có thành
phần loài nhiều nhất với 26 loài, thấp nhất là lớp Polychaeta với 2 loài. Mật độ động
vật đáy trung bình cao nhất ở sông Trà Nóc (2185506 cá thể/m
2
)
,
thấp nhất ở sông
Bình Thủy (22085 cá thể/m
2
).
- Trên sông nhánh đã tìm thấy 57 loài thuộc 6 lớp. Trong lớp Gastropoda có thành
phần loài cao nhất với 26 loài, thấp nhất là lớp Polychaeta với 2 loài. Kênh Thắng
Lợi 1 có mật độ trung bình cao nhất (16451462 cá thể/m
2
), thấp nhất là kênh Nông
Trường Sông Hậu 2 (2657 cá thể/m
2
).
- Qua 2 đợt khảo sát thì tuyến sông chính (53 loài) có thành phần loài thấp hơn các
sông nhánh (57 loài). Mật độ động vật đáy trung bình trên tuyến sông chính (78349
cá thể/m
2
) thấp hơn so với sông nhánh (93096 cá thể/m
2
). Chỉ số S=0,7 cho thấy có
sự tương đồng cao thành phần loài giữa sông chính và sông nhánh.
- Qua nghiên cứu, hai loài giun thuộc lớp Oligochaeta thường xuyên được tìm thấy
hầu hết ở các điểm là Branchiura sowerbyi và Limnodrilus hoffmeisteri.
- Chỉ số H’ tại các điểm thu biến động từ 1,14 đến 2,47 cho thấy thành phần loài
động vật đáy tương đối phong phú và chúng có thể được xem là sinh vật chỉ thị để
đánh giá chất lượng nước bị ô nhiễm hữu cơ.
5 ĐỀ XUẤT
Tiếp tục thực hiện những nghiên cứu về khảo sát thành phần động vật đáy cùng với
các chỉ tiêu thủy lý-hóa của môi trường để xác định mối tương quan giữa chúng và
có nhận định chi tiết hơn về nguồn gốc của sự ô nhiễm thủy vực trên tuyến sông Hậu,
nhằm cung cấp dữ liệu cho những nghiên cứu sau này và đề ra những biện pháp để
giảm bớt các tác động gây ra sự ô nhiễm.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. APHA, AWWA, WEF. 1999. Standard moethods for the examination of the
examination of water and wastewater, 19
th
edition. American Public Health
Association 1015 Fifteenth Street, NW Washington, DC 20005.
2. Bouchard R. W. 2004. Guide to Aquatic Invertebrates of the Upper Midwest.
3. Dương Trí Dũng, Nguyễn Công Thuận và Nguyễn Thành Công Thiện, 2008. Nghiên
cứu phân vùng thủy vực dựa vào quần thể động vật đáy. Tạp chí khoa học 2008 (1),
Trường Đại học Cần Thơ. Trang 61- 66.
4. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, Dương Đức Tiến và Mai Đình Yên, 2002. Thủy
sinh học các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học và kỹ
thuật Hà Nội. 390 trang.
5. Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái và Phạm Văn Miên, 1980. Định loại động vật
không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà
Nội.
6. Lê Công Quyền, 2009. Khảo sát sự phân bố động vật đáy với các yếu tố môi trường,
nền đáy ở rạch Tầm Bót, Thành phố Long Xuyên. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường Đai Học An Giang. 73 trang.
7. Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Quýnh và Nguyễn Quốc Việt, 2007. Chỉ thị sinh học
môi trường, NXB Giáo Dục. Trang 1-123.
8. Mai Đức Long, 2011. Khảo sát sự phân bố và đa dạng thành phần loài của lớp hai
mảnh vỏ (bivalvia) và lớp chân bụng (gastropoda) ở vùng ven biển Hà Tiên-Kiên
Giang.
9. Nguyễn Dương Thạo, Nguyễn Công Thành, 2007. Sinh vật chỉ thị cho chất lượng
môi trường các thủy vực nuôi thủy sản vùng ven biển. Tạp chí thủy sản. Trang 15-
17.
10. Nguyễn Thị Mai Thuy, 2013. Khảo sát thành phần loài động vật đáy (Zoobenthos)
trên tuyến sông Hậu thuộc tỉnh An Giang và Thành Phố Cần Thơ.
11. Nguyễn Văn Đua, 2013. Thành phần loài động vật đáy (Zoobenthos) trên tuyến sông
Hậu thuộc tỉnh Hậu Giang và thành phố CầnThơ. Luận văn tốt nghiệp đại học
nghành nuôi trồng thủy sản. Đại học Cần Thơ. Cần Thơ.
12. Phạm Anh Đức, 2004. Nghiên cứu sử dụng động vật không sống cỡ lớn ở đáy phục
vụ công tác giám sát chất lượng nước hệ thống sông rạch huyện Cần Giờ–Tp.Hồ Chí
Minh. Luận văn thạc sỹ kỹ thuật môi trường, viện môi trường và tài nguyên–Đại học
quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh.
13. Sangpradub N. and B. Boonsoong, 2006. Identification of freshwater invertebrates
of the Mekong river and tributaries. Vientiane: Mekong river commission.
14. Sorensen T. 1948. A method of establishing groups of equal amplitude in
plant sociology based on similarity of species content and its application to analyses
of the vegetation on Danish commons. Videnski Selsk. Biol. Skr. 5: 1-34.
15. Thái Trần Bái, 2010. Động vật học không xương sống. NXB Giáo Dục Việt Nam.
379 trang.