Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT: Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.96 KB, 18 trang )

A. MỞ ĐẦU

Vấn đề con người là chủ đề trọng tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
hiện đại. Từ xa xưa từ khi triết học chưa được hình thành thì vấn đề con
người đã được nhiều nhà tư tưởng bàn đến. Tuy nhiên chỉ đến khi triết
học Mác-Lê Nin xuất hiện< vào những năm 40 của thế kỉ XIX > thì vấn
đề này mới được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, triệt để khoa
học nhất.
Trong hệ tư tưởng Đức, Các Mác và Angghen đã khẳng định:”
tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống”. Chính vì vậy mà mục tiêu cao cả nhất
mà triết học Mác- Lênin hướng tới đó chính là giải phóng con người,
hướng tới mục đích vì con người - chủ thể của lịch sử xã hội.
Hiện nay nước ta đang trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Con người là một trong những động lực quan trọng nhất trong quá trình
xây dựng Chủ nghĩa xã hội, muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì trước
hết phải có con người của Chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy chúng ta phải có
định hướng nghiên cứu đúng đắn về con người.
Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước ta đang
được tiến hành trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa cùng với sự phát
triển của kinh tế tri thức. Cơ hội phát triển thực sự lớn lao nhưng thử
thách cũng không kém phần khắc nghiệt. Các nhà nghiên cứu đã khẳng
định rằng nâng cao chất lượng nhân lực, phát triển nguồn lực con người
là con đường ngắn nhất để tạo ra sức mạnh cạnh tranh trong môi trường
kinh doanh quốc tế đặc biệt là kinh tế tri thức. Do đó nếu không nghiên
1
cứu một cách có hệ thống và đúng đắn về vấn đề con người thì chúng ta
sẽ không thể có được những chính sách đúng đắn để phát triển con người.
Để hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh cần xây dựng được con người mới “ Phát triển cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo


đức.”
Vì tất cả những lí do nêu trên nên em mới chọn đề tài này làm đề
tài nghiên cứu khoa học của mình.

2
B. NỘI DUNG
I.QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI
1.Quan điểm về con người trong triết học trước Mác
1.1 Quan điểm vể con người trong triết học phương Đông
Từ thời cổ đại, các trường phái triết học đều tìm cách lí giải vấn đề
bản chất của con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung
quanh. Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông như Phật giáo,
Hội giáo nhận thức bản chất của con người trên cơ sở thế giới quan duy
tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận. Theo triết học Phất giáo con người là
sự kết hợp giữa danh và sắc< vật chất và tinh thần>. Đời sống con người
trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Khổng Tử cho bản chất của con người
do” thiên mệnh” chi phối quyết định, đức nhân chính là giá trị cao nhất
của con người. Mạnh Tử lại quy tính thiện của caon người vào năng lực
bẩn sinh do phong tục tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu xa rời
cái tốt. Ngựoc lại với Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng bản chất của con
người khi sinh ra là cái ác nhưng có thể cải biến được. Lại có quan điểm
cho rằng trời và con người có thể hòa hơp được với nhau, quy cuộc đời
của con người vào vai trò quyết định của” thiên mệnh”. Lão Tử cho rằng
con người sinh ra từ “Đạo”. Do vậy, con người phải sống vô ơn theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không hành động một cách giả tạo trái với tự nhiên.
Triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn
đề con người trong mối quan hệ với đạo đức. Con người trong triết học
Phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, pha trộn tính chất duy vật chất
phác ngây thơ trong mối qua hệ với Tự nhiên xă hội.
3

1.2 Quan điểm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây đặc biệt là Kitôg
các nhận thức con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí: con
người được quan niệm là kẻ có thể xác. Linh hồn là giá trị cao nhất trong
con người.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại con người được xem là điểm khởi đầu của
tư duy triết học. Theo Arixtôt con người là “một động vật chính trị”, chỉ
có linh hồn tư duy trí nhớ, ý chí năng khiếu nghệ thuật là làm cho con
người nổi bật lên. Triết học Hy Lạp cổ đại bướoc đầu đã có sự phân biệt
con người với tự nhiên nhưng chỉ là biểu hiện bên ngoài về tồn tại con
người.
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của thượng
đế sang tạo ra. Triết học thời kì phục hưng cận đại đặc biệt đề cao vai trò
của trí tuệ, lí tính của con người xem con người là một thực thể có trí tuệ.
Tuy nhiên con người chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ về
mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, Cantơ và Heghen đã phát triển quan
niệm về con người theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm. Heghen
với chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng con người là hiện thân của “ý
niệm tuyệt đối”. Heghen là người đặt vấn đề xem xét cơ chế hoạt động
của đời sống tinh thần. Heghen phát hiện ra quy luật về sự phát triển của
đời sống tinh thần cá nhân. Quy luật đó là: trong sự phát triển của đời
sống tinh thần cá nhân cần thiết và tất yếu phải lặp lại trong hình thái rút
ngắn và cô đọng những trình độ cơ bản mà đời sống tinh thần xã hôị phải
trải qua. Heghen là người khẳng định vai trò chủ thể của con người đối
với lịch sử, đồng thời là kết quả của sự phát triển lịch sử.
4
Phoiơbắc- nhà triết học duy vật phê phán tính chất siêu tự nhiên,
phi vật chất, phi thể xác về bản chất con người trong triết học Hêghen,
đồng thời khẳng định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo

nên. Con người là kết quả sự phát triển của thế giới tự nhiên. Con người
và tự nhiên là thống nhất không tách rời. Con người theo quan niệm của
Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
Tóm lại các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù
đứn trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật
siêu hình đều không phản ánh đúng bản chất con người. Các quan niệm
đều xem xét con người một cách trừu tượng tuyệt đối hóa mặt tinh thần
hoặc thể xác con người. Tuy nhiên bên cạnh sai lầm đó thì một số trường
phái triết học vẫn đạt được những thành tựu trong việc phân tích quan sát
con người, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng tới con người tự
do.
2. Quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con người
2.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội
Triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất
các yếu tố sinh học và yếu tố xă hội. Con người tự nhiên là con người
mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học là yếu tố đầu tiên
quy định sự tồn tại của con người. Con người là một bộ phận của giới tự
nhiên.
Con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những
cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ
phát triển của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm
sinh học, quá trình tâm sinh lí, các giai đoạn khác nhau nói lên bản chất
sinh học của cá nhân con người. Tuy nhên mặt tự nhiên không phải là
5
yếu tố duy vật quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác
biệt giữa con người với thế giới loại vật là mặt xã hội. Như chúng ta đã
biết, tự nhiên là cái có trước con người, sinh ra con người. Con người
muốn tồn tại và phát triển thì phải biết sống vào tự nhiên, phải biết tác
động cải tạo tự nhiên đem lại sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Còn

xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Nhưng nó lại đóng
vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành con người. Xã hội
chính là đặc trưng biểu hiện con người là con người. Công cụ lao động,
ngôn ngữ, ý thức… đều là sản phẩm xã hội mang lại. Tóm lại trong con
người có hai mặt không thể tách rời: mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện cụ
thể trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao
động sản xuất ra của cải vật chất. Chính hoạt động sản xuất< lao động>
đã tạo nên sự khác biệt giữa người và động vật, là cơ sở để hình thành
nên mặt xã hội trong con người. Chính trong qúa trình lao động mà con
người đã sản xuất ra đời sống vật chất của chính mình. Thông qua hoạt
động sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi cải biến toàn bộ thế
giới tự nhiên” con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái xản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Cũng chính trong quá trình lao
động mà con người mới được hoạt động có ý thức, có mục đích, mới hình
thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy
lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người,
đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị
quyết định bởi ba hệ thống qui luật khác nhau nhưng thống nhất với
nhau< Hệ thống các qui luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của
con người, hệ thống các quy luật tâm lí, ý thức hình thành và vận động
6
trên nền tảng sinh học của con người, hệ thống các quy luật xã hội quy
định quan hệ xã hội giữa ngưòi với người>. Ba hệ thống quy luật trên
cùng tác động, tạo nên một thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con
người bao gồm cả mặt sinh học và xã hội. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu
tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt
con người với loại vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào
nhau để tạo nên con người.

2.2 Con ngưòi là tổng hòa những mối quan hệ xã hội
Nếu các nhà triết học trước Mác khi nghiên cứu bản chất con
người chỉ nghiên cứu một mặt, một mối quan hệ cụ thể nào đó của con
người mà không đặt chúng trong một chỉnh thể, một hệ thống. Còn các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lại không xem xét con người một cách phiến
diện cô lập như vậy mà đặt chúng trong mối quan hệ với tự nhiên và xã
hội. Con người vượt lên thế giới loại vật trên cả ba phương diện khác
nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản
thân con người. Cả ba mối quan hệ đó suy cho cùng đều mang tính xã
hội.
Các Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc “
Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
2.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh nhưng quan trọng hơn cả con người là chủ thể của lịch sử và xã
hội. Với tư cách là thực thể của xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn con người
7
làm phong phú thêm thế giới tự nhiên tái tạo lại một thiên nhiên thứ hai
theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên con người
cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử đồng
thời là chủ thể sang tạo ra lịch sử của chính bản thân con người.
Khi đề cập đến vấn đề con người Mác không chỉ xem xét nó trong
hoạt động thực tiễn mà còn xem xét nó trong thời đại lịch sử, trong môi
trường xã hội nhất định. Ở mỗi thời đại khác nhau bản chất con người là
khác nhau. Vì xã hội loại người luôn vận động từ hình thái kinh tế xã hội
thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao nên con người cũng phải biến đổi

cho phù hợp. Như vậy bản chất của con người không phải hệ thống đóng
kín mà là hệ thống mở tương ứng với điều kiện của con người. Con
người không phải là cái gì chung chung trừu tượng mà mang tính lịch sử
cụ thể, mang dấu ấn của hoàn cảnh, của văn hóa, của tư tưởng của một
thời đại nhất định. Mặc dù là”tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, con
người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể
sang tạo. Thông qua đó bản chất của con người cũng vận động biến đổi
cho phù hợp. Tóm lại bản chất của con người không phải nhất thành bất
biến không phải trừu tượng mà có sự vận động, biến đổi phát triển phù
hợp với sự biến đổi của hoàn cảnh thời đại. Do vậy muốn xem xét vấn đề
con người một cách khoa học và đúng đắn thì phải nghiên cứu con người
trong tính thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mỗi mặt đó có
một chức năng khác nhau không thể thay thế cho nhau, trong đó mặt xã
hội chi phối sự hình thành bản chất con người.
3. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
3.1 Khái niệm cá nhân
Cá nhân vừa là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt vừa
mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động của mọi quan hệ xã hội và
8
của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội.
Mỗi cá nhân là thành viên của xã hội và mang bản chất xã hội.
Trong quan hệ với xã hội, cá nhân được phân biệt với các đặc
trưng: cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của loại người một cách trực
tiếp cảm tính. Không có con người nói chung mà chỉ có con người cụ
thể-cá nhân- của giống loài. Cá nhân là phần tử đơn nhất riêng lẻ tạo
thành cộng đồng xã hội, là cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài người
đồng thời là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong phẩm
chất sinh lí và tâm lí riêng biệt của mỗi người.
Cá nhân trong mối quan hệ với xã hội là một hiện tượng lịch sử vận
động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định.

3.2 Khái niệm nhân cách
Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội –sinh
tâm lí của cá nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự
đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Nhân
cách không phải là phẩm sinh, sẵn có mà đựoc hình thành và phát triển
phụ thuộc vào ba yếu tố. Cụ thể là: nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh
học và tư chất di truyền, một cá thể sống phát triển cao nhất của giới hữu
sinh. Môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển
của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường
và xã hội với mỗi cá nhân. Hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá
nhân bao gồm quan điểm, lý luận, niềm tin…Yếu tố quyết định để hình
thành thế giới quan cá nhân là tính chất của thời đại, lợi ích, vai trò địa vị
cá nhân trong xã hội, khả năng thẩm định giá trị đạo đức, nhân văn và
kinh nghiệm của mỗi cá nhân.
9
Nhân cách là thế giới quan bên trong của mỗi cá nhân. Sự hình
thành và phát triển của nhân cách là sự thống nhất của các yếu tố sinh
học, tâm lí và xã hội để xác lập “cái tôi” cá nhân.
3.3 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể
Tập thể là phần tử tạo thành xã hội. Nó là hình thức liên kết các cá
nhân thành từng nhóm xã hội xuất phát từ lợi ích nhu cầu về kinh tế,
chính trị, đạo đức thẩm mĩ, khoa học, tư tưởng, nghề nghiệp…
Cá nhân tồn tại trong tập thể với tư cách là đơn vị cấu thành của
cái toàn thể, biểu hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể
nhưng không hòa tan vào tập thể
Thực chất mối quan hệ cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Sự
thống nhất biện chứng giữa cá nhân và tập thể là điều kiện cơ bản đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân cũng như tập thể. Thông qua

lợi ích hình thành nên sự liên kết giữa cá nhân và tập thể, quy định
phương hướng hoạt động của tập thể nhằm làm cho tập thể vừa đảm bảo
lợi ích cá nhân. Từ đó mỗi cá nhân lại thúc đẩy tập thể phát triển.
Sự liên kết giữa cá nhân và tập thể được qui định bởi các mối quan
hệ khách quan và chủ quan.Tính khách quan bắt nguồn từ bản chất xã hội
của mọi thành viên.Tính chủ quan là năng lực tự tiếp nhận điều chỉnh
mọi suy nghĩ và hành vi của cá nhân .Sự thống nhất giữa tính khách quan
và chủ quan trong quan hệ cá nhân tập thể là điều kiện cần thiết để tập
thể phát triển lành mạnh.tuy nhiên trong điều kiện hiện thực của tập
thể,không thể đáp ứng mọi yêu cầu của cá nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa
cá nhân với tập thể . Đây là mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình
vận động và phát triển của cá nhân và tập thể .

10
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào ,cá nhân cũng không tách rời
khỏi xã hội .Là một hiện tượng lịch sửcá nhân –xã hội luôn luôn vận
động biến đổi vá phát triển trong đó sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có
sự thay thế hìng thái kinh tế -xã hội này bằng hình thái kinh tế khác
.Trong giai đoạn cộnh sản nguyên thủy lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là
thống nhất. Đến xã hội phân chia giai cấp quan hệ cá nhân và quan hệ xã
hội vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn.Trong CNXH,những
điều kiện của xã hội mới tạo tiền đè cho cá nhân phát huy năng lực vá
bản sắc riêng của mình phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội
mới .Vì vậy xã hội XHCN và cá nhân là thống nhất biện chứng là tiền đề
lá điều kiện của nhau .
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự qui định
do sự qui định của mặt khách quan và mặt chủ quan .Mặt khách quan
biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã hội.Mặt chủ quan
thể hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với
mục đích của con người .

4.Vai trò của vĩ nhân lãnh tụ và vĩ nhân lịch sử
4.1.Khái niệm
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trưởng thành từ trong phong
trào của quần chúng ,nắm bắt đượ những vấn đề căn bản nhất trong một
lĩnh vực nhất của hoạt động hoạt động thực tiễn và lí luận. Đó là những
cá nhân kiệt xuất trong những lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học…
Lãnh tụ là người có những phẩm chất cơ bản sau:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của
dân tộc, quốc tế và thời đại
11
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân thống nhất ý chí và
hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế
và thời đại
Ba là gắn bó mật thiết với quàn chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi
ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.
4.2 Vai trò của lãnh tụ
Lãnh vụ có nhiệm vụ chủ yếu sau: thứ nhất nắm bắt xu thế của dân
tộc quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của
các quá trình kinh tế, chính tri, xã hội. Thứ hai định hướng chiến lược và
hoạch định chương trình hoạch định cách mạng. Thứ ba tổ chức lực
lượng giáo dục thuyết phục quần chúng nhằm hướng vào giải quyết
những mục tiêu cách mạng đề ra.
Lãnh tụ có vai trò lớn đối với phong trào của quần chúng: Một là
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Hai là lãnh tụ là người sang
lập ra các tổ chức chính trị xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. Vì vậy
lãnh tụ là người tổ chức, điều khiển và quản lí các tổ chức chính trị, xã
hội có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển và hoạt động của
các tổ chức ấy. Ba là lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành
những nhiệm vụ đặt ra của thời đại. Sauk hi hoàn thành vai trò của mình,
lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần mãi mãi trong tình cảm và niềm tin

của quần chúng nhân dân
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀO
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CNH-HĐH Ở NƯỚC TA
1.Yếu tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
12
Tầm quan trọng của việc phát triển yếu tố con người-nguồn nhân
lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định” Nguồn
lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững”. Con người và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định
sự phát triển đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Nguồn lục con người là điểm cốt yếu nhất của nội lực đất nước, do đó
phải bằng mọi cách phát huy yếu tố con người và năng cao chất lượng
nguồn lực.
Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng rất quan tâm đầuv tư phát
triển nhân tố con người một cách toàn diện tức là phát triển con người
không chỉ về mặt trí tuệ, thẩm mĩ tinh thần mà còn phát triển cả về thể
lực, sức khỏe của con người.
Đảng nhà nước ta coi con người là động lực là mục tiêu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa vì xét đến cùng con người là động lực quan trọng
nhất thúc đẩy sự phát triển của xã hội
2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
Nguồn nhân lực nước ta đang ở trình độ của các nước đã phát triển
cao trong thời kì cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, cách mạng công
nghiệp lần thứ hai và thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức. Chúng
ta phải đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực để chuyển từ một nền kinh tế
lạc hậu sang một nền kinh tế công nghiệp trong ngữ cảnh xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối hội nhập
mở cửa. Tức là phải chú ý tới đội ngũ lao động, đại bộ phận là lao động

nông nghiệp, cả đội ngũ lao động phục vụ cơ khí hóa, điện tử hóa. Chúng
13
ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực phục vụ cả ba nền kinh tế: kinh tế
công nghiệp, kinh tế nông nghiệp và kinh tế tri thức.
Lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sang
tạo, tiếp thu nhanh những kĩ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển
giao từ bên ngoài. Tuy vậy những yếu kém của nó thể hiện ra ngoài rất rõ
trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất mang tính chuyên
nghiệp, đó là sự dồi dào về số lượng lao động nhưng lại thiếu trầm trọng
nguồn lao động có chất lượng.
Ở nước ta lao động nông nghiệp chiếm phần lớn lực lượng lao
động. Cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tăng lao động công
nghiệp, lao động dịch vụ, lao động tri thức nhằm đáp ứng được chuyển
dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu trình độ đào tạo của đội ngũ lao động tính theo tỷ lệ giữa
người lao động trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân
kĩ thuật là: 1: 1,75: 2.3 vẫn là một cơ cấu bất hợp lí và để kéo dài sẽ dẫn
đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, kĩ sư làm công việc của cán bộ trung
cấp kĩ thuật. Trong đội ngũ cơ cấu lao động ở các cơ sở sản xuất của
nước ta thì đội ngũ công nhân đã qua đào tạo, nhà kĩ thuật quản lý phát
minh chiếm 18%. Trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ đó tương ứng là
28%-72%. Trên thị trường lao động hiện tại luôn xảy ra tình trạng khan
hiếm nguồn nhân lực quản trị kinh doanh, lập trình viên, kĩ thuật viên…
Nhưng những gì đáp ứng được trên thị trường lại là một số lượng đông
đảo các cử nhân với kiến thức que quặt và thiếu kinh nghiệm thức tế.
Chính vì vậy có tới 70% sinh viên ra trường không có việc làm.
Công tác bồi dưỡng và sử dụng nhân tài như là đầu tầu của đội ngũ nhân
lực chưa được quan tâm đúng mức “ thiếu cơ chế chính sách để trọng
dụng cán bộ khoa học và nhà giáo có trình độ cao”
14

Tất cả những điều nêu trên là những bất hợp lý nổi cộm, bức xúc
nhiều năm nay và cần sớm giải quyết để đưa nước ta trở thành nước phát
triển
3. Vấn đề xây dựng nhân lực con người-Phương hướng và giải pháp
Đảng và nhà nước ta rất coi trọng vấn đề con người, coi con người
là trung tâm của chính sách , đường lối, chủ trương phát triển xã hội.
Hiện nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, công nghệ
hiện đại và tương ứng với nó là sự phát triển của nền kinh tế tri thức trên
toàn thế giới. Nó đòi hỏi con người cũng phải phát triển tương ứng với sự
phát triển đó. Hội nghi Trung ương lần thứ II- khóa VIII Đảng ta đã
khẳng định:” Những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sang, ý chí kiên
cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, có khả năng
tiếp thu văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam có ý thức cộng đồng và phát huy tích cực của cá nhân, làm chủ
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tác dụng sang tạo, có kĩ năng
thực hành giỏi, có tác phong công ngiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có sức
khỏe là những người thừa kế xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội như lời Bác
dạy”
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ qua trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Phát triển thể năng của con người để có khả năng lao động, làm
việc với nhịp độ cao, chính xác.
Mỗi người là một cá nhân độ lập làm chủ quá trình lao động của
mình. Lấy lợi ích của người lac động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý
lao động nhằm tăng năng suất lao động
15
Bảo đảm môi trương dân chủ thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng
thuận, tạo cơ hội thăng tiến cho tất cả mọi người.

Có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng của người lao
động, bảo đảm hiệu quả công việc.
Phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trường lao động. Có hệ
thống chính sách sử dụng phù hợp nguồn nhân lực< tuyển dụng, phân
công, tiền lương>
Chăm lo phát huy bồi dưỡng nguồn lực con người là bộ phận quan
trọng trong chiến lược con người, là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp
giáo dục nước ta trong những năm tới nhằm tạo ra những điều kiện cơ
bản để tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa làm cho dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
16
C. KẾT LUẬN
Vấn đề con người là một đề tài được nhiều bộ môn khoa học khác
nhau nghiên cứu nhưng chỉ trong triết học vấn đề này mới được nghiên
cứu đầy đủ và toàn diện.
Tiếp thu chọn lọc tinh hoa tư tưởng của nhân loại, triết học Mác ra
đời với những quan điểm hết sức khoa học về con người. Triết học Mác
xuất phát từ con người và trở về với con người vì mục đích cao nhất của
triết học Mác là xem xét con người để khắc phục sự tha hóa con người
đồng thời tìm ra biện pháp để giải phóng và phát triển con người. Triết
học Mác Lênin trở thành cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho hành động, là
ánh sang chỉ đường để đi tới giải quyết đúng đắn triệt để về vấn đề con
người. Đất nước ta đang trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Muốn xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trước bối cảnh đầy biến
động của nền kinh tế thị trường chúng ta phải luôn luôn quán triệt tư
tưởng của chủ nghĩa Mác về vấn đề con người.
Vấn đề con người và những đột phá nhằm phát triển nguồn nhân
lực đã đang và sẽ tiếp tục được nghiên cứu bởi con người chính là chủ
thể của lịch sử, của xã hội, là động lực quan trọng nhất trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội

Với độ dài chưa đến mười ba trang đây chỉ mới là những nội dung
cơ bản sơ qua về vấn đề con người và nguồn nhân lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tin chắc rằng với những
đường lối đúng đắn của Đảng và nhà nước ta thì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người, mọi nhà ấm no,
hạnh phúc “ sẽ sớm được hoàn thành”.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình triết học Mác Lênin
Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
Lý luận chính trị 4-2005
Trang web: HTTP:// www.vienkinhtehochiminhcity.gov.vn
18

×