Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

ảnh hưởng của khoảng cách bón phân viên nén nhả chậm đến sinh trưởng và năng suất ngô tại diễn châu nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.42 MB, 133 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





THÁI THỊ VÂN



ẢNH HƯỞNG CỦA KHOẢNG CÁCH BÓN PHÂN VIÊN NÉN
NHẢ CHẬM ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT NGÔ TẠI
DIỄN CHÂU - NGHỆ AN



CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ : 60.62.01.10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN TẤT CẢNH





HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu trong luận văn là kết quả lao động của chính tác giả. Các số liệu
và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Tác giả luận văn


Thái Thị Vân





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài tốt nghiệp, ngoài sự nỗ
lực cố gắng của bản thân tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS.TS. Nguyễn Tất Cảnh là người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo,
đóng góp những ý kiến vô cùng quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.

Tập thể các thấy cô giáo Khoa Nông học, đặc biệt là các thầy cô giáo
trong bộ môn Canh tác học – Học viện Nông Nghiệp Việt Nam đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã giúp đỡ
động viên khích lệ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Sinh viên



Thái Thị Vân


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC


Lời cam ĐOAN i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục viết tắt ix
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục đích và yêu cầu 2
1.2.1 Mục đích 2
1.2.2 Yêu cầu 2

1.3 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
1.3.1 Ý nghĩa khoa học 2
1.3.2 Ý nghĩa thực tiễn 2
2 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 3
2.1 Vai trò của cây ngô 3
2.2 Tình hình sản xuất và sử dụng ngô trên thế giới 4
2.3 Tình hình sản xuất và sử dụng ngô tại Việt Nam 9
2.4 Một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho ngô trên thế giới 12
2.5 Một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho ngô tại Việt Nam 22
2.6 Tình hình cơ bản huyện Diễn Châu trong mối quan hệ với kỹ
thuật bón phân cho ngô 29
2.6.1 Chế độ mưa, lượng bốc hơi, độ ẩm không khí: 29
2.6.2 Đặc điểm đất đai 30
2.6.3 Tình hình sản xuất và kỹ thuật thâm canh ngô 32
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
3.1 Vật liệu nghiên cứu 36
3.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 36
3.2.1 Địa điểm nghiên cứu 36
3.2.2 Thời gian nghiên cứu 36
3.3 Nội dung nghiên cứu 37
3.4 Phương pháp nghiên cứu 37
3.4.1 Phân tích thành phần dinh dưỡng đất trước lúc bố trí thí nghiệm. 37
3.4.2 Bố trí thí nghiệm 37
3.4.3 Các biện pháp kỹ thuật áp dụng 39
3.4.4 Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu. 40
3.5 Xử lý số liệu 44
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 45

4.1 Tính chất đất thí nghiệm 45
4.2 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến các giai
đoạn sinh trưởng của giống ngô C919 và NK6326. 45
4.3 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến động thái
tăng trưởng chiều cao cây. 49
4.4 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến động thái
ra lá. 52
4.5 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến diện tích
lá và chỉ số diện tích lá (LAI) . 55
4.6 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến chiều cao
cây và chiều cao đóng bắp của giống ngô C919 và NK6326. 60
4.7 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến khả năng
tích luỹ chất khô. 65
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

4.8 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến khả năng
chống chịu của giống ngô C919 và NK6326. 70
4.9 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến hình thái
bắp ngô. 72
4.10 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến các yếu
tố cấu thành năng suất. 74
4.11 Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến năng suất
của các giống ngô 80
4.12 Hiệu suất sử dụng đạm của giống ngô C919 và NK6326 84
5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 86
5.1 Kết luận 86
5.2 Đề nghị 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 95


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

2.1 Diện tích, năng suất, sản lượng ngô, lúa mì, lúa nước của thế giới
giai đoạn 2000 - 2010 4
2.2 Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020 7
2.3 Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010 11
2.4 Lượng dinh dưỡng cây hút đất và phân bón(kg/ha) 13
4.1 Tính chất nông hóa đất thí nghiệm 45
4.2.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến các giai
đoạn sinh trưởng của giống ngô C919 và NK6326 vụ Đông 2013. 46
4.2.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến các giai
đoạn sinh trưởng của giống ngô C919 và NK6326 vụ Xuân 2014. 48
4.3.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến động thái
tăng trưởng chiều cao cây ngô C919 và NK6326 vụ Đông 2013. 49
4.3.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến động thái
tăng trưởng chiều cao cây ngô C919 và NK6326 vụ Xuân 2014. 51
4.4.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến động thái
ra lá của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Đông 2013. 53
4.4.b. Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến động thái
ra lá của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Xuân 2014. 54
4.5.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến diện tích
lá và chỉ số diện tích lá(LAI) của giống ngô C919 và NK6326 ở
vụ Đông 2013 56
4.5.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC diện tích lá và

chỉ số diện tích lá(LAI) của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ
Xuân 2014 57
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

4.5.c Ảnh hưởng của giống đến chỉ số diện tích lá(LAI) 59
4.5.d Ảnh hưởng khoảng cách bón PVNNC đến chỉ số diện tích lá (LAI )
và số lá xanh sau trỗ 30 ngày 59
4.6.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến chiều cao
cây và chiều cao đóng bắp ở vụ Đông 2013 60
4.6.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến chiều cao
cây và chiều cao đóng bắp ở vụ Xuân 2014 62
4.6.c Ảnh hưởng của giống đến chiều cao cây cuối cùng và chiều cao
đóng bắp trong vụ Đông 2013 và vụ Xuân 2014 63
4.6.d Ảnh hưởng của khoảng cách bón PVNNC đến chiều cao cây cuối
cùng và chiều cao đóng bắp trong vụ Đông 2013 và vụ Xuân 2014 64
4.7.a :Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến khả năng
luỹ chất khô của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Đông 2013 65
4.7.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến khả năng
tích luỹ chất khô của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Xuân. 67
4.7.c Ảnh hưởng của giống đến khả năng tích luỹ chất khô. 68
4.7.d Ảnh hưởng của khoảng cách bón PVNNC đến khả năng tích luỹ
chất khô. 68
4.8.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến khả năng
chống chịu của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Đông 2013. 70
4.8.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến khả năng
chống chịu của giống ngô C919 và NK6326 vụ Xuân 2014. 71
4.9.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến hình thái
bắp của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Đông 2013 72
4.9.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến hình thái

bắp của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Xuân 2014 73
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

4.10.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến các yếu
tố cấu thành năng suất của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ
Đông 2013. 74
4.10.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến các yếu
tố cấu thành năng suất của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ
Xuân 2014. 76
4.10.c Ảnh hưởng của giống đến các yếu tố cấu thành năng suất. 78
4.10.d Ảnh hưởng khoảng cách bón PVNNC đến các yếu tố cấu thành
năng suất. 79
4.11.a Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến năng
suất của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Đông 2013 80
4.11.b Ảnh hưởng của giống và khoảng cách bón PVNNC đến năng suất
của giống ngô C919 và NK6326 ở vụ Xuân 2014 81
4.11.c Ảnh hưởng của giống đến năng suất ngô. 82
4.11.d Ảnh hưởng của khoảng cách bón PVNNC đến năng suất của các
giống ngô. 83
4.12.a Hiệu suất sử dụng đạm của giống ngô C919 và NK6326 trong vụ
Đông 2013 84
4.12.b Hiệu suất sử dụng đạm của giống ngô C919 và NK6326 trong vụ
Xuân 2014 84
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ix

DANH MỤC VIẾT TẮT

Bộ NN & PTNN : Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

BHH : bắp hữu hiệu
CCCCC : chiều cao cây cuối cùng
CCĐB : chiều cao đóng bắp
CDB : chiều dài bắp
CDBHH : chiều dài bắp hữu hiệu
CIMMYT : Trung tâm cải tạo Ngô và Lúa mì Quốc tế
DKB : đường kính bắp
G - M : gieo đến mọc
G - PR : gieo đến phun râu
G - T : gieo đến trỗ
G - TP : gieo đến tung phấn
LAI : chỉ số diện tích lá
NSLT : năng suất lý thuyết
NSTT : năng suất thực thu

P
1000
hạt : khối lượng 1000 hạt
S lá : diện tích lá
TĐBP : thời điểm bón phân
TGST : thời gian sinh trưởng
TLBHH : tỷ lệ bắp hữu hiệu
TLMM : tỷ lệ mọc mầm
TP - PR : tung phấn đến phun râu
TSM : tuần sau mọc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

1. MỞ ĐẦU


1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ngô có tên khoa học là Zea mays L thuộc họ hoà thảo Poaceae. Có
nguồn gốc từ Mêhicô.
Cây ngô là cây lương thực rất quan trọng, xếp thứ 2 sau cây lúa ở Việt
Nam và xếp thứ 3 trên thế giới sau cây lúa mì và lúa nước. Cây ngô được sử
dụng với ba mục đích chính: làm lương thực cho người, thức ăn gia súc và
làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Ngô cũng là cây trồng chủ lực
mang lại hiệu quả kinh tế cao trong vụ đông, cây ngô thực sự là cây trồng đã
và đang được người sản xuất rất quan tâm.
Diễn Châu là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Nghệ An, có truyền
thống trồng ngô từ rất lâu đời. Năm 2013, diện tích trồng ngô toàn huyện là
là 3.005,84 ha (chiếm 16,8% diện tích đất nông nghiệp), năng suất trung bình
đạt 50,7 tạ/ha, cao hơn năng suất trung bình của toàn tỉnh. Song, so với tiềm
năng năng suất của cây ngô, thì năng suất đạt được vẫn còn ở mức thấp.
Trong hệ thống dinh dưỡng của cây ngô, đạm là yếu tố dinh dưỡng thiết yếu
có ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh
và các điều kiện ngoại cảnh bất lợi, từ đó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng,
hiệu quả sản xuất ngô. Thực tế sản xuất cho thấy, để tăng năng suất ngô thường
phải tăng liều lượng đạm, song khi bón liều lượng đạm cao hoặc bón thừa so với
nhu cầu của cây, năng suất không tăng mà có xu hướng giảm ngay cả trong
trường hợp bón cân đối đạm với lân và kali. Việc bón phân vô cơ theo phương
pháp bón vãi tuy có làm tăng năng suất, sản lượng nhưng hiệu quả sử dụng phân
bón thấp: đạm 30 - 45%, lân 15 - 25%, kali 40 - 50% (Achim Dobermann,
2000). Bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người. Việc
bón phân theo phương pháp truyền thống thường tốn kém và gây lãng phí do bay
hơi hoặc rửa trôi. Gần đây trên thế giới, các nước tiên tiến sử dụng các loại phân
chậm tan để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón. Các loại phân chậm tan ở Việt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2


Nam ít được sử dụng vì giá thành cao. Trong những năm qua trường Học viện
Nông Nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu và phát triển phân viên nén - là một loại
phân chậm tan được sử dụng ở nhiều nơi cho lúa và ngô.
Nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng phân viên nén, tôi tiến hành
thực hiện đề tài:

Ảnh hưởng của khoảng cách bón phân viên nén nhả
chậm đến sinh trưởng và năng suất ngô tại Diễn Châu - Nghệ An”.
1.2 Mục đích và yêu cầu
1.2.1 Mục đích
Xác định được khoảng cách bón phân viên nén nhả chậm thích hợp
nhất đối với giống ngô C919 và NK6326 trồng tại – Diễn Châu – Nghệ An.
1.2.2 Yêu cầu
Đánh giá tình hình sản xuất ngô và sử dụng phân bón cho ngô hiện nay
tại địa điểm nghiên cứu.
Xác định được ảnh hưởng của khoảng cách bón PVNNC đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất của của 2 giống ngô.
Xác định hiệu quả sử dụng phân bón của 2 giống ngô nghiên cứu.
Xác định khoảng cách bón PVNNC thích hợp cho 2 giống ngô.
1.3 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học về
ảnh hưởng của khoảng cách bón PVNNC đến sinh trưởng và năng suất của
ngô, đề xuất khoảng cách bón PVNNC để nâng cao hiệu quả sử dụng
PVNNC.
Góp phần xây dựng phương pháp sử dụng PVNNC bón cho ngô.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, giảm chi phí, nâng cao năng
suất ngô.
Giảm ô nhiễm môi trường.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

2.1. Vai trò của cây ngô
Ngô là cây ngũ cốc lâu đời và phổ biến trên thế giới, có khả năng thích
ứng rộng, được trồng từ 55
0
vĩ Bắc đên 40
0
vĩ độ Nam, thuộc 69 nước trên thế
giới, đồng thời có khả năng thích ứng tốt với các điều kiện sinh thái khác nhau,
độ cao từ 1 - 2m so với mặt nước biển ở vùng Andet - Peru đến gần 4000m
(Ngô Hữu Tình, 1997). Chính nhờ đặc tính sinh học và nông học quý báu trên
mà cây ngô được coi là cây trồng có nhiều triển vọng, báo hiệu sự no ấm của
thế kỷ 21.
Cây ngô là loài cây vừa có giá trị kinh tế cao vừa có khả năng phát triển
trong tương lai. Trên bình diện cả thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng
cây ngô chủ yếu được sử dụng cho các mục đích sau: sử dụng làm lương thực
cho người, thức ăn cho gia súc và nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến.
Hơn nữa, thành phần dinh dưỡng của hạt ngô có mặt các axit amin không thay
thế quan trọng như: Lơzin, Tryptophan, Methionin…Hằng năm trên thế giới,
lượng ngô xuất nhập khẩu khoảng 70 triệu tấn (Ngô Hữu Tình, 1997).
Cây ngô không chỉ biết đến bởi giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao
mà còn là một cây trồng quan trọng, có khả năng khai thác tốt trên các loại đất
khó khăn, trên các vùng đồi núi, vùng khô hạn, cho nên giai đoạn 2000 - 2002
diện tích trồng ngô trên thế giới đạt 138,4 triệu ha; với năng suất bình quân
đạt 4,93 tấn/ha; sản lượng đạt 614,95 triệu tấn (Javier Erro, Oscar Urrutia,
Sara San Francisco, Jose M, 2007). Nhu cầu của loài người càng tăng lên,

việc tăng năng suất và sản lượng ngô là việc làm vô cùng quan trọng và hết
sức cần thiết. Muốn vậy trong sản xuất ngô phải có sự đầu tư vốn, có sự tập
trung nghiên cứu chọn tạo những giống ngô mới cho năng suất cao, thích nghi
với từng điều kiện sinh thái và chịu được trong điều kiện thâm canh cao. Một
lĩnh vực không thể thiếu đó là phải tiếp thu, áp dụng nhanh chóng những tiến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

bộ khoa học tiên tiến, trong đó tiến bộ về phân bón cũng như tìm hiểu những
giống mới đạt năng suất cao thích ứng rộng đang là vấn đề cần được quan tâm
hàng đầu.
2.2 Tình hình sản xuất và sử dụng ngô trên thế giới
Ngô là cây ngũ cốc lâu đời và phổ biến nhất trên thế giới, không cây
nào có thể sánh kịp với cây ngô về tiềm năng năng suất hạt, về quy mô, hiệu
quả ưu thế lai (Ngô Hữu Tình và cs,1997).
Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học về các
lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hóa, điện khí
hóa, tin học vào công tác nghiên cứu và sản xuất (Ngô Hữu Tình,1997). Do
vậy diện tích và năng suất ngô liên tục tăng trong những năm gần đây.
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô, lúa mì, lúa nước của thế
giới giai đoạn 2000 - 2010
Đơn vị: Diện tích (triệu ha); Năng suất (tấn/ha); Sản lượng (triệu tấn)
Năm
Ngô Lúa mì Lúa nước
Diện
tích
Năng
suất
Sản
lượng

Diện
tích
Năng
suất
Sản
lượng
Diện
tích
Năng
suất
Sản
lượng
2000 137,2 4,3 591,5 218,0 2,7 583,1 151,9 3,9 399,4
2004 145,0 4,9 714,8 217,2 2,9 625,1 150,6 4,0 595,8
2005 145,6 4,8 696,3 218,5 2,8 621,5 152,6 4,1 622,1
2006 148,6 4,7 704,2 212,3 2,8 593,2 153,0 4,1 622,2
2007 159,9 4,95 791,6 217,9 2,8 609,7 154,7 4,2 646,7
2008 156,4 5,03 787,3 224,9 3,03 682,2 155,7 4,3 661,7
2009 155,7 5,19 809,0 225,6 3,01 679,9 155,1 4,3 659,1
2010 162,3 5,06 820,6 222,39 2,91 648,21 158,32 4,3 680,7
Nguồn: FAOSTAT,2010; USDA, 2011
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

Trước đây gần 1/3 dân số trên thế giới đã được nuôi sống bởi sản phẩm
ngô. Tính chung trong giai đoạn 1995 - 1997 con người đã sử dụng lượng ngô
chiếm khoảng 17% (CIMMYT, 2001)
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA,2010) tổng diện tích ngô
trên toàn thế giới năm 2010 là 162,3 triệu ha, năng suất bình quân đạt 5,06
tấn/ha và cho tổng sản lượng 820,6 triệu tấn. Những thành tựu mà ngành ngô

thế giới đạt được trong những năm gần đây có thể nói là đã vượt ngoài mọi dự
đoán lạc quan nhất. Năm 2000 do điều kiện khí hậu khó khăn sản lượng ngô
thế giới đạt 591.5 triệu tấn, vậy mà vào năm 2007 đã đạt tới 791.6 triệu tấn.
Riêng 7 năm gần đây đã tăng thêm gần 300 triệu tấn và giá ngô thế giới vẫn ở
mức cao. Trong khi đó, vào năm 2003, Viện Nghiên cứu Chương trình lương
thực thế giới (IFPRI) dự báo nhu cầu ngô trên thế giới vào năm 2020 chỉ lên
đến 852 triệu tấn (IFPRI, 2003).
Như vậy, từ năm 2000 đến năm 2010 nhìn chung diện tích trồng ngô thế
giới luôn thấp hơn so với diện tích trồng lúa mì và lúa nước, tuy nhiên năm
2001 sản lượng ngô thế giới đã vượt qua sản lượng lúa mì và lúa nước vươn
lên dẫn đầu và tiếp tục giữ vị trí ổn định trong các năm tiếp theo.
Kết quả trên có được, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế
lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Đặc biệt từ hơn 10 năm trở lại đây, cùng với những thành tựu
mới trong chọn tạo giống lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công
nghệ sinh học thì việc ứng dụng công nghệ cao trong kỹ thuật canh tác, phân
bón cho cây ngô đã góp phần đưa sản lượng ngô trên thế giới vượt lên trên lúa
mì và lúa nước.
So với năm 2000 thì tỷ lệ tăng trưởng diện tích qua mỗi năm là 1,17%,
tăng trưởng năng suất/năm đạt 2,06% và tăng trưởng sản lượng/năm là 3,67%.
Trong đó, Mỹ là nước có diện tích ngô lớn nhất thế giới (32,2 triệu ha), chiếm
20,7 % diện tích ngô thế giới và cho sản lượng là 333 triệu tấn (chiếm 41,2 %
sản lượng ngô thế giới), đặc biệt có năng suất cao nhất thế giới 10,34 tấn/ha
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

(cao gấp 1,99 lần so với năng suất ngô thế giới). Tiếp theo Mỹ là Trung Quốc
với 30,4 triệu ha, năng suất đạt 5,1 tấn/ha và sản lượng đạt 155 triệu tấn,
Brazil là nước đứng thứ 3 về diện tích ngô trên thế giới với 13 triệu ha, cho
năng suất bình quân đạt 4,08 tấn/ha và cho sản lượng đạt 53 triệu tấn.

Các nước Đông Nam Á có diện tích ngô là 8,64 triệu ha, năng suất bình
quân đạt 3,12 tấn/ha và cho sản lượng đạt 26,977 triệu tấn. Trong đó nước
Inđônêxia có 3,13 triệu ha, năng suất đạt 2,65 tấn/ha và sản lượng đạt 8,3 triệu
tấn; Philippin có diện tích 2,5 triệu ha, năng suất đạt 2,48 tấn/ha, cho sản
lượng 6,2 triệu tấn; Thái Lan có diện tích trồng ngô đạt 1 triệu ha, năng suất
4,1 tấn/ha, cho sản lượng 4,1 triệu tấn.
Hiện nay sản lượng ngô sản xuất ra ngày càng tăng và châu Á chiếm sản
lượng ngô sản xuất ra lớn nhất thế giới. Đi đầu là Trung Quốc với diện tích
đứng thứ hai trên thế giới chiếm 20% tổng sản lượng ngô trên thế giới và
Đông Nam Á đạt 27 triệu tấn. Năm 2000 Trung Quốc đạt diện tích trồng ngô
là 23,1 triệu ha. Năng suất 4,6 tấn/ha và sản lượng đạt 106,0 triệu tấn (Corn
production in Asian, December 2001). Đến năm 2009, diện tích đã lên tới
30,4 triệu ha, trong đó hơn 90% diện tích trồng ngô là ngô lai và năng suất
bình quân đạt 5,1 tấn/ha.
Trong những năm gần đây, cây trồng biến đổi gen đặc biệt là cây ngô
đã mang lại lợi ích ổn định về kinh tế, môi trường, làm tăng sản lượng nông
nghiệp, cải thiện đời sống người nông dân cho nên ngày càng được nhiều
quốc gia ủng hộ và phát triển. Diện tích trồng cây biến đổi gen trên toàn thế
giới năm 2009 là 134 triệu ha trên tổng số 25 quốc gia, trong đó cây ngô biến
đổi gen chiếm 42.0 triệu ha trên tổng số 16 quốc gia. Từ năm 1996 đến năm
2009 diện tích trồng ngô biến đổi gen trên toàn thế giới liên tục tăng và đạt
26.4% năm 2009 (Jame, 2010).
Toàn thế giới những năm 2007 - 2009 sử dụng khoảng 20% sản lượng
ngô làm lương thực, trong đó các nước đang phát triển là 30%, các nước phát
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

triển là 4% còn các nước Trung Mỹ, Nam Á, châu Phi sử dụng ngô làm lương
thực chính.
Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình lương thực thế giới

(IFPRI, 2003), nhu cầu ngô trên thế giới vào năm 2020 lên tới 852 triệu tấn
(sản lượng năm 2005 chỉ mới đạt 705,3 triệu tấn), tăng 45% so với năm 1997,
chủ yếu ở các nước đang phát triển (72%), riêng Đông Nam Á tăng 70% so
với năm 1997. Xét về nhu cầu địa lý thì nhu cầu tăng trưởng nhanh nhất ở
Châu Á, chủ yếu là Trung Quốc, sau đó đến Châu Mỹ La Tinh (Chiến lược
quốc gia sau thu hoạch lúa, ngô, đậu tương và lạc đến 2020, 2006).
Nhu cầu ngô tăng do dân số phát triển nhanh, thu nhập bình quân đầu
người được cải thiện nên việc tiêu thụ thịt, cá, trứng, sữa tăng mạnh, dẫn đến
lượng ngô dùng cho chăn nuôi tăng. Thách thức đặt ra là 80% nhu cầu ngô
trên thế giới tăng (266 triệu tấn) lại tập trung ở các nước đang phát triển, trong
khi đó chỉ khoảng 10% sản lượng ngô từ các nước công nghiệp có thể xuất
sang các nước này. Vì vậy, các nước đang phát triển phải tự đáp ứng nhu cầu
của mình trên diện tích ngô hầu như không tăng (IFPRI, 2003).
Bảng 2.2: Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Vùng 1997 (Triệu tấn) 2020 (Triệu tấn) % thay đổi
Thế giới 586 852 45
Các nước đang phát triển 295 508 72
Đông Á 136 252 85
Mỹ Latinh 75 118 57
Cận Saha - Châu Phi 29 52 79
Tây và Bắc Phi 18 28 56
Nam Á 14 19 36
Nguồn : (IFPRI, 2003)
Như vậy, nhu cầu về ngô trên thế giới ngày càng tăng từ năm 1997 đến
2020 nhu cầu cần tăng thêm 45%, trong đó số lượng tăng nhiều ở các nước
đang phát triển (năm 1997 nhu cầu 295 triệu tấn lên 508 triệu tấn vào năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

2020), sự thay đổi lớn nhất thuộc về các nước Đông Á với sự tăng thêm 85%

vào năm 2020.
Ngô là cây dùng làm thức ăn chăn nuôi quan trọng nhất hiện nay. Theo
số liệu thống kê của CIMMYT năm 2008, thế giới dùng ngô làm thức ăn chăn
nuôi khoảng 72% chiếm khoảng 600 triệu tấn/năm (CYMMYT, 2008).
Từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây, bắp ngô bao tử còn được sử dụng làm một
loại rau cao cấp. Với đầy đủ giá trị dinh dưỡng thiết yếu của một loại rau
thông thường thì ngô bao tử còn là một loại thức ăn có khẩu vị khá là hấp dẫn
như bất kỳ loại thực phẩm giàu đạm nào. Ở một số nước Mỹ Latinh, châu Phi
và Trung Quốc ngô đường còn được sử dụng dưới dạng huyền phù của bột
ngô làm thức uống hàng ngày. Bên cạnh đó, ngô không chỉ là nguyên liệu
chính cho các nhà máy thức ăn chăn nuôi gia súc tổng hợp mà còn là nguyên
liệu cho các nhà máy sản xuất bánh kẹo, cồn tinh bột dầu…Người ta đã sản
xuất ra khoảng 670 mặt hàng khác nhau của các nghành công nghiệp lương
thực thực phẩm và công nghiệp nhẹ.
Trong những năm gần đây nghành công nghiệp chế biến nhiên liệu
ethanol đang phát triển mạnh và ngô hạt được coi là nguồn nguyên liệu quan
trọng để sản xuất ethanol. Theo thống kê của Bộ Nông Nghiệp Mỹ, nhu cầu
sử dụng ngô cho công nghiệp chế biến ethanol năm 2005 - 2006 là 40,6 triệu
tấn, năm 2008 - 2009 là 50,5 triệu tấn, đến năm 2010 - 2011 là gần 100 triệu
tấn và năm 2012 là khoảng 190,3 triệu tấn cho công nghiệp chế biến ethanol
(USDA, 2010).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

2.3 Tình hình sản xuất và sử dụng ngô tại Việt Nam
Ở Việt Nam, cây ngô là cây lương thực đứng thứ 2 sau lúa nước. Ngô
được đưa vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm (Viện nghiên cứu ngô,
1996). Do có vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội cộng với điều kiện khí
hậu nhiệt đới gió mùa nên ngô đã nhanh chóng được mở rộng, trồng khắp các
vùng miền cả nước.

Năm 1975 đất nước mới được giải phóng những khó khăn chồng chất
lên nhau nên cây ngô chưa được chú trọng phát triển, diện tích trồng ngô chỉ
đạt 267 nghìn ha, năng suất 1,05 tấn/ ha, với tổng sản lượng 280,6 nghìn tấn.
Bên cạnh đó, chúng ta gặp không ít khó khăn về vật liệu khởi đầu, cùng với
việc cơ sở vật chất chưa đáp ứng tốt trong các khâu sản xuất ngô. Ở Việt
Nam, ngô tuy chỉ chiếm 12,9% diện tích cây trồng có hạt, nhưng có ý nghĩa
quan trọng thứ hai sau cây lúa. Gần 30 năm qua, nhất là từ những năm 1990
trở lại đây, sản xuất ngô nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Năm 2008 là năm đạt diện tích (1.125,9 nghìn ha), năng suất (4,02 tấn/ha) và
sản lượng (4,5 triệu tấn) cao nhất từ trước đến nay. So với năm 1990, diện
tích và năng suất tăng 2,6 lần, còn sản lượng tăng 7 lần ( Tổng cục Trồng trọt,
2009). Cho đến năm 1990 diện tích trồng ngô tăng lên 432 nghìn ha, tổng sản
lượng đạt 671 nghìn tấn tăng gấp 3 lần so với năm 1975. Đến năm 2004 diện
tích trồng ngô của Việt Nam là 990,4 nghìn ha, năng suất 3,49 tấn/ha và sản
lượng đạt 3453,6 nghìn tấn (Tổng cục thống kê, 2004). Năm 2006 diện tích
trồng ngô của Việt Nam là 1033,1 nghìn ha, năng suất 3,7 tấn/ha và sản lượng
đạt 3,9 triệu tấn. Trong quá trình phát triển cây ngô lai ở giai đoạn này phải
kể đến hai sự kiện tạo sự chuyển biến quan trọng, đó là: “Cây Ngô Đông trên
đất hai lúa ở Đồng bằng Bắc Bộ” và “Sự bùng nổ ngô lai ở các vùng trồng
ngô trong cả nước” (Ngô Hữu Tình , 1997).
Cùng với sự phát triển ngô trên thế giới và các nước trong khu vực, ngô
lai ở Việt Nam trong những năm gần đây đã không ngừng phát triển. Giai
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

đọan 1990 diện tích ban đầu 5 ha ngô lai, sau đó diện tích đã mở rộng nhanh
chóng. Năm 1991 diện tích đạt 500 ha, đến năm 1996 diện tích ngô lai là 230
nghìn ha, chiếm 40% diện tích và 74% sản lượng (Quách Ngọc Ân, 1997).
Đến năm 2000 diện tích ngô lai đạt 500 nghìn ha, chiếm 65% diện tích trồng
ngô cả nước. Năm 2006 diện tích ngô lai đạt 1033 nghìn ha, chiếm 83%.

Tốc độ phát triển của cây ngô lai ở nước ta được đánh giá là khá nhanh
và có tính chất bền vững rất cao. Năm 2000 cả nước trồng khoảng 730,2
nghìn ha, năm 2005 đạt 1052 nghìn ha và năm 2009 đạt 1200 nghìn ha. Các
giống ngô lai có tiềm năng năng suất cao đã và đang được phát triển ở những
vùng ngô trọng điểm, vùng thâm canh, tưới tiêu chủ động, những vùng đất phì
nhiêu như: Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng
sông Cửu Long.
Ở Việt Nam, những năm gần đây cây ngô chuyển gen cũng được quan
tâm và nghiên cứu, tập trung chủ yếu vào gen kháng sâu đục thân và kháng
thuốc trừ cỏ. Năm 2010, Việt Nam đã chính thức cho phép công ty TNHH
Syngenta Việt Nam và công ty Mosanto Thái Lan được khảo nghiệm hạn chế,
đánh giá rủi ro về đa dạng sinh học và môi trường của cây ngô chuyển gen.
(Bộ nông nghiệp và PTNT, 2010).
Tuy sản lượng ngô hàng năm của nước ta tăng nhưng vẫn không đáp
ứng đủ nguyên liệu phục vụ cho nghành chăn nuôi đang phát triển mạnh mẽ.
Do đó 9 tháng đầu năm 2009 Việt Nam đã nhập hơn 0,8 triệu tấn ngô (Cục
trồng trọt, 2009).
Theo dự báo của Viện khoa học Nông Nghiệp Việt Nam, diện tích ngô
của cả nước phấn đấu đạt 1300 nghìn ha vào năm 2015 (với năng suất bình
quân 5,5 tấn/ha, tổng sản lượng là 7150 nghìn tấn), nhằm đảm bảo cung cấp
đủ nguyên liệu cho chế biến thức ăn cho chăn nuôi và đẩy mạnh các ngành
khác phát triển như công nghiệp chế biến, sản suất rượu cho công
nghiệp…Quan trọng hơn nữa là Việt Nam phải đẩy mạnh sản xuất để từng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

bước tham gia vào thị trường xuất khẩu nhằm thu nguồn ngoại tệ về cho đất
nước. Vào năm 2009, Việt Nam đạt 1200 nghìn ha, năng suất đạt 4,4 tấn/ha
và tổng sản lượng là 5,3 triệu tấn (USDA, 2010). Vậy hiện nay, sản xuất ngô
của nước ta mới đạt 75% so với mục tiêu vào năm 2015 và 60% so với mục

tiêu vào năm 2020.
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Năm
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(Tấn/ha)
Sản lượng
(Triệu tấn)
Diện tích
Ngô lai (%)
2000 730,2 2,5 2,0 65
2005 1052,6 3,6 3,8 90
2006 1033,1 3,7 3,9 90
2007 1096,1 3,9 4,3 >90
2008 1125,9 4,0 4,5 >90
2009 1200,0 4,4 5,3 >90
2010 1200,0 4,58 5,5 >90
Nguồn: USDA (2010)
Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy rằng, với những thành tựu đã đạt được
có thể nói đây là một bước tiến vượt bậc của nền nông nghiệp Việt Nam. Kết
quả trên đã được CYMMYT và nhiều nước trên thế giới đánh giá cao. Bên
cạnh những thành tựu về giống, các tiến bộ kỹ thuật về canh tác cũng đã đóng
góp quan trọng cho sự phát triển của cây ngô trong những năm gần đây.
Trong hệ thống cây trồng nước ta, cây ngô giữ vị trí rất quan trọng, nó đã
có mặt trên mọi vùng đất, phù hợp với mọi điều kiện canh tác, tham gia vào
các công thức luân canh xen canh, gối vụ đã dần góp phần xóa hết thế động
canh của cây lúa đa dạng hóa cây trồng và cải thiện hệ sinh thái nông nghiệp
Như vậy, ở nước ta năng suất ngô còn thấp so với các nước có nghề
trồng ngô phát triển. Để đạt được năng suất ngô cao hơn nữa trong thời gian

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

tới, ngoài công tác giống còn phải đầu tư đồng bộ hơn trong thâm canh, đặc
biệt là bón phân để phát huy tiềm năng của giống.
Mặc dù đã đạt được những kết quả rất quan trọng nhưng sản xuất ngô
nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra:
- Thứ nhất: Năng suất vẫn thấp hơn so với trung bình thế giới (đạt
khoảng 82%) và rất thấp so với năng suất thí nghiệm.
- Thứ 2: Giá thành sản xuất còn cao.
- Thứ 3: Sản lượng chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước đang
tăng lên rất nhanh và những năm gần đây phải nhập từ 500 - 700 nghìn tấn
ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi (Theo số liệu của Cục trồng trọt, năm 2004
theo con đường chính thức nhập 564,488 tấn ngô, năm 2007 là 585,221 tấn).
- Thứ 4: Sản phẩm từ ngô còn đơn điệu.
- Thứ 5: Công nghệ sau thu hoạch chưa được chú ý đúng mức
Hiện nay, nhiều vấn đề đặt ra cho ngành sản xuất ngô thế giới nói
chung và nước ta nói riêng như: khí hậu toàn cầu đang biến đổi phức tạp, đặc
biệt là hạn hán, lũ lụt ngày càng nặng nề hơn, nhiều đối tượng sâu, bệnh hại
mới xuất hiện, sản xuất ngô ở nhiều nơi đang gây nên tình trạng xói mòn đất,
rửa trôi dinh dưỡng, giá nhân công ngày càng cao, cạnh tranh gay gắt giữa
ngô và các cây trồng khác.
Với công tác tạo giống, bộ giống ngô thực sự chịu hạn và các điều kiện
bất thuận khác như đất xấu, chua phèn, kháng sâu bệnh, có thời gian sinh
trưởng ngắn đồng thời cho năng suất cao ổn định, nhằm nâng cao năng suất
và hiệu quả cho người sản xuất vẫn chưa nhiều. Đặc biệt. các biện pháp kỹ
thuật canh tác, mặc dù đã được cải thiện nhiều song vẫn chưa đáp ứng được
đòi hỏi của giống mới. Trong đó, một số vấn đề đáng chú ý như khoảng cách,
mật độ, phân bón, thời vụ, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại, bảo quản sau thu
hoạch chưa được quan tâm đúng mức .

2.4 Một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho ngô trên thế giới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Cây ngô là cây có tiềm năng năng suất to lớn. Trong các biện pháp thâm
canh năng suất ngô phân bón giữ vai trò quan trọng nhất. Theo Berzenyi. Z,
Gyorffy. B.(Berenyi và cs,1996) thì phân bón ảnh hưởng tới 30,7 % năng suất
ngô còn các yếu tố khác như mật độ cây, phòng trừ cỏ dại, đất trồng có ảnh
hưởng ít hơn. Theo kết quả của viện Lân, Kali (Mỹ) cho thấy để tạo ra 10 tấn
ngô hạt/ha, cây ngô lấy đi một lượng dinh dưỡng như sau(kg/ha).
Bảng 2.4. Lượng dinh dưỡng cây hút đất và phân bón(kg/ha)
Chỉ tiêu N P
2
O
5
K
2
O Mg S
Năng suất
chất khô
%
Hạt (10 tấn) 190 78 54 18 16 9.769 52.0
Thân, lá, cùi 79 33 215 38 18 8.955 48.0
Tổng số 269 111 269 56 34 18.724 100.0
Nguồn: Ngô Hữu Tình, 1997 .
Phân đạm (N) được coi là yếu tố tăng năng suất cây trồng quan trọng
và có hiệu quả cao nhất. Đạm là yếu tố phân bón đầu tiên cần chú ý bón
cho cây trồng vì: Cây cần với lượng nhiều mà đất không cung cấp đủ, nhất
là đạm dễ tiêu. Trong các cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng đạm
tham gia vào các thành phần axit amin, protein, các enzim, các chất kích

thích sinh trưởng, chất diệp lục - chất quyết định khâu chính của quá trình
quang hợp,… Cây trồng được cung cấp đủ đạm sinh trưởng nhanh, lá phát
triển mạnh, nâng cao khả năng tổng hợp các chất để tạo nên sinh khối lớn
và sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, đạm là yếu tố quyết định năng suất cây
trồng, đặc biệt là cây ngô.
Theo Chudry G.A., và cộng sự (CS) ( Chudry G.A.) đạm là yếu tố dinh
dưỡng quan trọng của ngô, nó tham gia vào thành phần cấu tạo tất cả các chất
Protein, các axit Nucleotid - là chất giữ vai trò quan trọng trong quá trình tổng
hợp Protein và trao đổi các chất trong cơ thể. Phân đạm thúc đẩy quá trình
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

sinh trưởng phát triển của cây, nâng cao hàm lượng protein trong sảm phẩm,
khi thiếu đạm lá kém xanh. Tất cả các loại đất trồng trọt cần phải bón thêm
đạm đặc biệt trên các loại đất tưới.
Theo Smith (De.Geus,1973), trong trường hợp không bón đạm năng
suất ngô chỉ đạt 1.192 kg/ha, khi bón đạm (N) năng suất tăng 7.338kg/ha.
Theo Velly và CS (De.Geus,1973) khi bón cho ngô với liều lượng
40kg N/ha năng suất thu được 12,11tạ/ha
80kg N/ha năng suất thu được 16,61tạ/ha
120kg N/ha năng suất thu được 32,12 tạ/ha
160kg N/ha năng suất thu được 41,47 tạ/ha
200kg N/ha năng suất thu được 52,18 tạ/ha
Qua các số liệu trên cho thấy đạm (N) đóng vai trò quyết định trong việc
tăng năng suất ngô và trong một khoảng liều lượng nhất định năng suất ngô tỷ
lệ thuận với liều lượng đạm bón. Tuy nhiên, cần phân biệt năng suất tối đa và
năng suất kinh tế tối đa.
Theo Ramirez và Laird ( De.Geus,1973) ở Toluca valley - Mehicô cho
rằng với mật độ 5 vạn cây/ha bón đạm với mức 120 kg/ha đem lại hiệu quả
kinh tế nhất.

Theo Sinclair and Muchow, (1995), hàng thập kỷ gần đây năng suất ngô
tăng lên có liên quan chặt chẽ với mức cung cấp N cho ngô. Đạm được cây
ngô hút với một lượng lớn và đạm có ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự cân
bằng cation và anion ở trong cây. Khi cây hút N - NH
4
+
sự hút các cation khác
chẳng hạn như K
+
, Ca
2+
, Mg
2+
sẽ giảm trong khi sự hút anion đặc biệt là
Phosphorus sẽ thuận lợi. xảy ra chiều hướng ngược lại, khi cây hút N nitrat
(Mengel, 1968)(dẫn theo Arnon, 1974). Tùy thuộc vào tuổi của cây với các
cây ngô non sự hút amonium-N nhanh hơn sự hút đạm nitrat, trái lại các cây
ngô già dạng đạm hút chủ yếu là đạm nitrat và có thể chiếm tới hơn 90% tổng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

lượng đạm cây hút (Coic, 1964)(dẫn theo Arnon, 1974). Đạm cũng là thành
phần cấu trúc của vách tế bào (Schrader, 1984), William Bennet, (1993). Đạm
là yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần của tất cả các
Prôtêin. Đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất ngô.
Khi thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ hoàn toàn, sự phân chia
tế bào ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả làm giảm diện tích lá, kích
thước của cây và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá
hiệu quả ngay từ đầu vụ và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để
quá trình đồng hóa quang hợp đạt cực đại (dẫn theo Patrick Loo, 2001), (

Wolfe và cộng sự, 1988).
Mức đạm thấp làm giảm số hạt và năng suất hạt (Barbieri và cộng sự
2000), điều mà ai cũng biết là các giống ngô lai khác nhau có thể sử dụng
phân đạm ở mức độ khác nhau, năng suất cây trồng cao cần phải cung cấp
một lượng lớn phân bón, đặc biệt là đạm (Debreczen, 2000).
Đất càng màu mỡ thì đất càng có tác dụng lớn trong việc cung cấp đạm
cho cây, cây trồng sử dụng được rất ít đạm amôn liên kết do một phần đạm
này bị khoáng sét của đất giữ chặt, số lượng đạm amôn bị giữ chặt này từ 134
- 344 kg/ha ( Moxolov, 1979) (Peterburgxki và CTV,1965,1966).
Năng suất ngô Nhiệt đới thường thấp hơn năng suất ngô vùng Ôn đới
bởi số hạt/diện tích đất và chỉ số thu hoạch (HI) của ngô nhiệt đới thấp hơn
ngô vùng Ôn đới (Goldsworthy và cộng sự, 1974; Fisher and Palmer, 1983
(dẫn theo Mitsuru Osaki, 1994; 1995), đã chỉ ra rằng sức chứa có thể hạn chế
năng suất ngô Nhiệt đới. Nhìn chung, cây ngô quang hợp theo chu trình C4 và
phù hợp với nhiệt độ cao, người ta công nhận ngô có thể đạt năng suất chất
khô cao ở vùng Nhiệt đới (Evan, 1985) Mitsuru Osaki (1994).
Để đạt được năng suất cao một lượng đạm hữu hiệu phải được cây hút
(Osaki và cộng sự 1991a; 1992; 1994, dẫn theo Mitsuru Osaki (1994). 50 -
60% đạm trong hạt đã được lấy từ đạm đồng hóa ở trong lá và thân, trước thời
kỳ ra hoa (Crowford và cộng sự 1982; Osaki và cộng sự 1991b, dẫn theo

×