Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
220 Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường
DIỄN BIẾN MẶN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Trần Thanh Xuân, Hoàng Minh Tuyển,
Lương Hữu Dũng, Ngô Thị Thủy
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
Trên cơ sở phân tích số liệu đo mặn thu thập được tại các trạm đo mặn cơ bản do Bộ
Tài nguyên và Môi trường quản lý và một số trạm đo mặn do một số ngành và địa phương
quản lý, đồng thời tham khảo kết quả nghiên cứu, đánh giá diễn biến mặn của một số đề tài
nghiên cứu khoa học và dự án trong thời gian qua, báo cáo trình bày kết quả phân tích, tổng
hợp tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL trong những năm gần đây.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng châu thổ rộng lớn nhất nước ta
với diện tích 3,96 triệu ha, chiếm khoảng 79 % diện tích châu thổ sông Mê Kông.
ĐBSCL bao gồm địa phận của 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp,
An Giang, Cần Thơ,Vĩnh Long, Hậu Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Kiên Giang và Cà Mau.
Do tiếp giáp với biển Đông và biển Tây và trong điều kiện địa hình khá bằng
phẳng và thấp, mạng lưới sông, kênh rạch chằng chịt nên mặn theo thủy triều từ biển
xâm nhập vào trong sông và nội đồng, đặc biệt là trong mùa khô làm ảnh hưởng lớn
đến sản xuất và đời sống của người dân vùng ĐBSCL.
Trên cơ sở phân tích số liệu đo mặn thu thập được tại các trạm đo mặn cơ bản
do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý và một số trạm đo mặn do một số ngành và
địa phương quản lý, đồng thời tham khảo kết quả nghiên cứu, đánh giá diễn biến mặn
của một số đề tài nghiên cứu khoa học và dự án trong thời gian qua, bài báo giới thiệu
một cách khái quát tình hình xâm nhập măn ở ĐBSCL trong những năm gần đây.
1. Diễn biến độ mặn theo thời gian và theo không gian
Sự xâm nhập mặn vào trong sông, kênh, rạch và nội đồng phụ thuộc vào các
yếu tố như sau:
Các yếu tố thủy văn, thủy lực: Lưu lượng nước từ thượng nguồn đổ về, thủy
triều, nhiệt độ nước, đặc điểm thủy lực lòng dẫn, độ mặn nước biển và nước
sông;
Các yếu địa hình (lòng sông, cửa sông, kênh, rạch ), các yếu tố khí tượng
(mưa, bốc hơi, sóng, gió, nhiệt độ không khí );
Hoạt động của con người: Các công trình xây dựng trên sông (đập dâng,
cống lấy nước, ngăn mặn ), khai thác, sử dụng nước.
Do các yếu tố ảnh hưởng này luôn biến đổi nên sự xâm nhập mặn trong sông
ngòi, kênh rạch vùng ven biển luôn luôn biến đổi theo thời gian và không gian.
1.1. Diễn biến theo thời gian
Sự biến đổi của độ mặn theo thời gian phụ thuộc chủ yếu vào lượng nước từ
thượng nguồn đổ về, thủy triều từ biển xâm nhập vào. Hàng năm, về cơ bản, mặn biến
đổi theo mùa tương ứng với chế độ của dòng chảy sông. Vào mùa lũ, do lượng nước từ
thượng nguồn đổ về lớn, thủy triều không thể hoặc khó xâm nhập sâu vào trong mạng
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường 221
lưới kênh rạch, đồng ruộng và bị nước sông “ngọt hóa”, nên nhìn chung mặn không
thể xâm nhập sâu vào trong sông ngòi, kênh rạch. Trái lại, trong mùa cạn nước sông từ
thượng lưu chảy về giảm đáng kể, nhỏ và tương đối ổn định, nên mặn theo thủy triều
xâm nhập sâu vào trong mạng lưới sông ngòi, kênh rạch và đồng ruộng vùng ven biển.
Mặn xâm nhập sâu nhất xảy ra vào thời kỳ nước sông cạn kiệt nhất và thủy triều mạnh
nhất. Ở ĐBSCL, các tháng II-IV là giai đoạn nước sông ngòi kênh rạch cạn kiệt nên
mặn xâm nhập mạnh và sâu nhất. Vào giai đoạn này, nước sông cạn kiệt không chỉ do
lượng nước từ thượng lưu chảy về nhỏ mà còn có thể do lấy nước sử dụng cho các nhu
cầu, nhất là cho tưới.
Thủy triều đưa nước biển vào trong sông nên độ mặn cũng như ranh giới xâm
nhập mặn biến đổi theo từng con triều, đặc biệt là vào giai đoạn nước sông cạn kiệt
trong mùa cạn. Sự biến đổi trong ngày của độ mặn phụ thuộc chủ yếu vào sự biến đổi
của thủy triều và do đó, chế độ mặn phụ thuộc chủ yếu vào chế độ triều biển Đông và
từ biển Tây (vịnh Thái Lan).
1.2. Diễn biến theo không gian
Độ mặn cũng biến đổi theo chiều dài dòng chảy và độ sâu dòng nước. Độ mặn
khác nhau giữa các vị trí trong cùng mặt cắt ngang sông và giảm dần từ biển vào trong
sông ngòi, kênh rạch do sóng triều càng vào sâu trong sông càng biến dạng và biên độ
giảm dần. Mặn xâm nhập vào trong sông dưới dạng khuếch tán – thường có dạng hình
“nêm”, không đồng nhất trên cùng thủy trực (chiều sâu dòng nước) và trong cùng mặt
cắt ngang sông. Sự phân bố của độ mặn theo độ sâu dòng nước tại các mặt cắt ngang
sông, tốc độ xâm nhập và độ dài xâm nhập phụ thuộc vào các yếu tố như lượng nước
từ thượng nguồn đổ về, độ lớn của thủy triều, đặc điểm thủy lực, địa hình lòng sông,
cửa sông và các yếu tố khí tượng thủy văn khác, đặc biệt là gió, sóng biển. Độ mặn lớp
nước sát đáy sông có thể lớn hơn khoảng (5-10) lần so với lớp nước mặt.
2. Xâm nhập mặn trong các vùng
2.1. Sông Vàm Cỏ
Sông Vàm Cỏ là một nhánh của hệ thống sông Đồng Nai, do hai sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây hợp thành, cả hai nhánh sông này đều bắt nguồn từ lãnh thổ
Campuchia. Do mưa và dòng chảy trên lưu vực sông Vàm Cỏ khá nhỏ, nhất là ở sông
Vàm Cỏ Tây, hơn nữa sông uốn khúc quanh co, độ dốc lòng sông nhỏ nên mặn từ biển
Đông xâm nhập sâu vào trong mạng lưới sông ngòi, kênh rạch và nội đồng.
1) Độ mặn lớn nhất hàng năm thường xuất hiện vào các tháng III, IV có thể
sớm vào tháng II và muộn vào tháng V tùy thuộc vào lượng nước thượng nguồn và
mưa, độ lớn của thủy triều, gió chướng và sử dụng nước trong đoạn sông. Theo số liệu
quan trắc mặn trong giai đoạn cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ 20 [1],
có thể nhận thấy rằng, giá trị độ mặn trung bình tháng lớn nhất thường xuất hiện vào
tháng IV, nhưng độ mặn lớn nhất tháng (S
max
) có thể xuất hiện vào tháng III hoặc
tháng V (Hình 1).
2) Diễn biến của độ mặn lớn nhất trong tháng III và tháng IV trên sông Vàm Cỏ
như sau:
Giá trị S
max
hàng năm thường xuất hiện vào tháng III hay tháng IV;
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
222 Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường
Nhìn chung, tại cùng vị trí trên sông, giá trị Smax trong hai tháng III và IV
chênh lệch nhau không nhiều;
Trong thời kỳ 1991-2010, giá trị lớn nhất của S
max
đã xuất hiện vào các năm
2005, 1994, 1993, 1998, 2008, 2004 ; còn giá trị nhỏ nhất củaS
max
đã xuất
hiện vào năm 2000 và 2006.
Hình 1. Diễn biến của độ mặn trung bình tháng và lớn nhất tháng tại sông Vàm Cỏ
3) Càng xâm nhập vào sâu trong sông, độ mặn lớn nhất giảm dần; thí dụ trong
năm 2005, S
max
trong tháng III từ 21,5 g/l tại Cầu Nổi giảm còn 12,9 g/l tại Bến Lức,
10,2 g/l tại Tân An, 2,9 g/l tại Tuyên Nhơn, còn S
max
trong tháng IV tại các vị trí trên
tương ứng là: 22,5 g/l, 15,4 g/l, 15,7 g/l và 2,8 g/l.
4) Thời gian mặn lên trên sông Vàm Cỏ Tây kéo dài hơn nhưng rút nhanh hơn
so với sông Vàm Cỏ Đông[2, 3].
2.2. Diễn biến mặn vùng cửa sông Tiền – sông Hậu
2.2.1. Diễn biến mặn ở vùng cửa sông
Độ mặn lớn nhất trên các sông vùng cửa sông lớn nhất có thể đạt tới 30- 33 g/l.
Độ mặn lớn nhất S
max
trong tháng III và tháng IV xấp xỉ nhau, tùy thuộc vào lượng
nước thượng nguồn đổ về và thủy triều và các yếu tố khác. Sự khác nhau giữa độ mặn
ở các cửa sông không thể hiện rõ xu thế mà chỉ thể hiện trong từng giai đoạn, ví dụ
trong giai đoạn 1993-1998, S
max
trong tháng IV ở cửa sông cửa Tiểu (tại Vàm Kênh)
và Cổ Chiên (Bến Trại) lớn hơn so với các cửa sông khác. S
max
nhỏ nhất tại các vị trí
theo số liệu quan trắc khoảng 13-17 g/l. Diễn biến độ mặn lớn nhất trong tháng III và
IV tại các vị trí ở vùng cửa sông được thể hiện như trong Bảng 1.
Bảng 1. Diễn biến độ mặn lớn nhất tại các vị trí thuộc vùng cửa sông ĐBSCL
Sông
Vị trí
Khoảng
cách
đến
biển
(km)
Độ mặn lớn nhất S
max
trong tháng III (g/l)
Độ mặn lớn nhất S
max
trong tháng IV (g/l)
Lớn
nhất
Năm
Nhỏ
nhất
Năm
Lớn
nhất
Năm
Nhỏ
nhất
Năm
Cửa
Tiểu
Vàm
Kênh
2
32,4
1993
15,0
1992
30,9
1998
15,6
1992
Trạm Bến Lức - sông Vàm Cỏ ĐÔng
0
5
10
15
20
25
30
I II III IV V VI
Tháng
Độ mặn (g/l)
Trung bình
Lớn nhất
Trạm Tân An - sông Vàm Cỏ Tây
0
5
10
15
20
25
I II III IV V VI
Tháng
Độ mặn (g/l)
Trung bình
Lớn nhất
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường 223
Sông
Vị trí
Khoảng
cách
đến
biển
(km)
Độ mặn lớn nhất S
max
trong tháng III (g/l)
Độ mặn lớn nhất S
max
trong tháng IV (g/l)
Lớn
nhất
Năm
Nhỏ
nhất
Năm
Lớn
nhất
Năm
Nhỏ
nhất
Năm
Cửa
Đại
Bình
Đại
4
30,6
1992
9,3
2000
29,4
2005
15,8
1997
Cổ
Chiên
Bến
Trại
10
31,8
1994
13,8
2000
29,9
1994
17,5
2007
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, các năm có độ mặn lớn nhất trong các tháng
III và IV thời kỳ 1991-2010 đạt lớn nhất vào những năm 2005,1992, 1993,1994 và
đạt nhỏ nhất vào năm 2000 trên phần lớn các cửa sông.
2.2.2. Diễn biến mặn ở sâu trong sông
Khi xâm nhập vào trong sông, độ mặn giảm dần, nhưng do lượng nước thượng
nguồn đổ về cũng như sự truyền triều và các điều kiện thủy lực, thủy văn, địa hình
khác nhau, nên mức độ giảm của độ mặn cũng như ranh giới mà mặn có thể xâm nhập
sâu nhất vào trong sông cũng khác nhau và luôn thay đổi. Bảng 2 đưa ra mức độ triết
giảm của S
max
trong tháng III và tháng IV năm 2005 trên sông cửa Tiểu, Mỹ Tho và
sông Cổ Chiên.
Bảng 2. Diễn biến độ mặn dọc theo các sông năm 2005
Sông
Vị trí
Khoảng cách
đến biển
(km)
S
max
tháng
III
S
max
tháng
IV
Cửa Tiểu
Vàm
Kênh
2
28,8
29,7
Hòa Bình
18
17,3
17,3
Mỹ Tho
Bình Đài
4
29,1
29,4
Lộc
Thuận
48
5,8
21,2
Mỹ Tho
55
3,5
3,7
Cổ Chiên
Bến Trại
10
24,5
27,3
Hưng Mỹ
17
17,4
16,7
Hương
Mỹ
25
10,1
11,3
Trà Vinh
28
10,8
9,5
So sánh sự triết giảm độ mặn trên các sông vào năm 2005 có thể nhận thấy rằng,
trên sông Cửa Tiểu – Mỹ Tho – Tiền, mức độ triết giảm độ mặn khoảng 0,5 g/l trên 1
km vào tháng III và IV trong khi đó trên sông Cổ Chiên độ triết giảm là khoảng 0,76
g/l vào tháng III và trên 1 g/l vào tháng IV (lớn gấp đôi so với trên sông cửa Tiểu-Mỹ
Tho-Tiền). Những nhận định nêu trên có thể khác so với những năm khác khi lượng
nước thượng nguồn, thủy triều và các yếu tố ảnh hưởng khác thay đổi.
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
224 Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường
2.2.3. Quan hệ giữa độ mặn và khoảng cách xâm nhập mặn
Để sơ bộ nhận định sự triết giảm của mặn khi xâm nhập vào trong sông, tác giả
đã xây dựng quan hệ giữa độ mặn lớn nhất trong tháng III,IV năm 2005 trên các sông:
Cửa Tiểu-Mỹ Tho-Tiền, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên và năm 2007 trên sông Hậu
(do năm 2005 không có số liệu tại Mỹ Hóa).
Bảng 3. Phương trình quan hệ độ mặn lớn nhất trong tháng IV trên các phân lưu
của sông Cửu Long
Sông
S
max
IV
= aL + b
Mức độ giảm trên
trung bình trên 1
km (g/l)
Ghi chú
A
B
IV-2005
Tiền
-0.4807
29.733
0.43
IV-2005
Hàm Luông
-0.3554
26.718
0.37
IV-2005
Cổ Chiên
-0.9626
35.453
0.99
IV-2005
Hậu
-0.5287
20.831
0.57
IV- 2007
Trong Hình 2 đưa ra quan hệ S
max
tháng III, IV với khoảng cách đến biển trên
các sông (L, km). Từ quan hệ này cho thấy, quan hệ của S
max
với L có xu thế gần tuyến
tính; các điểm quan hệ của tháng IV tuy có xu thế ở phía trên các điểm quan hệ của
tháng III (với cùng L) nhưng có thể coi là điểm quan hệ của hai tháng này nằm sát
nhau. Phương trình quan hệ S
max
, IV với L trên các sông như trong Bảng 3.
Hình 2. Quan hệ S
max
tháng III, tháng IV năm 2005 với khoảng cách xa biển trên sông
Tiền (Cửa Tiểu, Cửa Đại, Hàm Luông, Cổ Chiên) vào năm 2007 trên sông Hậu
Chiều dài xâm nhập mặn tương ứng với độ mặn 1 g/l và 4 g/l trong các tháng
II-V trên các sông Cửa Tiểu, Hàm Luông, Cổ Chiên và sông Hậu được đưa ra trong
Bảng 4. Từ bảng này cho thấy, chiều dài xâm nhập mặn nhiều nhất vào hai tháng IV,
III , khoảng 50-60 km đối với nêm mặn 1 g/l và 30-40 km đối với nêm 4 g/l, chủ yếu
là do trong hai tháng này lượng nước sông Tiền và Hậu thường nhỏ nhất trong năm.
y = -0.962x + 35.45
0
5
10
15
20
25
30
5 10 15 20 25 30
Độ mặn (g/l)
Khỏng cách tới biển (km)
Quan hệ độ mặn lớn nhất với khoảng cách
xa biển trong tháng III,IV năm 2005 trên
sông Cổ Chiên
Tháng III
Tháng IV
y = -0.528x + 20.83
0
5
10
15
20
25
0 10 20 30 40
Dộ mặn (g/l)
Khoảng cách tới biển (km)
Quan hệ độ mặn lớn nhất với khoảng
cách xa biển trong tháng III,IV năm 2007
trên sông Hậu
Tháng III
Tháng IV
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường 225
Sang tháng V, khi có mưa đầu mùa trên lưu vực, lượng nước sông Mê Kông tăng lên
làm cho mặn không xâm nhập sâu như hai tháng III, IV; trong tháng II, lượng nước
trong sông lớn nên mặn 1 g/l xâm nhập chỉ khoảng 40-46 km và mặn 4 g/l 20-25
km[5].
Bảng 4: Chiều dài xâm nhập mặn trên các sông [5]
Sông
Chiều dài Xâm nhập mặn (km)
Độ mặn 1 g/l
Độ mặn 4 g/l
II
III
IV
V
II
III
IV
V
Cửa Tiều
43
51
59
38
23
32
37
32
Hàm Luông
46
51
57
54
23
30
34
26
Cổ Chiên
44
58
55
51
22
31
35
27
Hậu
44
54
58
51
25
32
33
26
2.3. Diễn biến mặn vùng biển Tây
Vùng ven biển Tây gồm địa phận hai tỉnh Kiên Giang và Cà Mau. Mặn theo
triều từ biển Tây (vịnh Thái Lan) xâm nhập vào theo mạng lưới sông ngòi kênh rạch
như các sông Cái Lớn, Cái Bé, Ông Đốc, Bảy Háp, Cửa Lớn và các kênh rạch trực tiếp
chảy ra biển Tây. Đặc biệt, trong vùng này còn có hệ thống kênh rạch nối liền sông
Hâu với biển Tây (hoặc nối với kênh Rạch Giá – Hà Tiên rồi đổ ra biển), như các kênh
Vĩnh Tế, Giang Thành, Tri Tôn, Tám Ngà, Mỹ Thái, Ba Thê, Mười Châu Phú, Cái Sắn
(Rạch Sòi - Vàm Cống – Cái Sắn) và các kênh đào để chuyển lũ ra biển Tây (T1, T2-
T6). Ngoài ra, còn có các kênh rạch theo hướng tây bắc – đông nam nối liền các kênh
rạch theo trục đông bắc – tây nam và các sông Cái Lớn, sông Ông Đốc
Theo có thể chia vùng này ra làm ba khu vực [5]:
Khu vực từ Hà Tiên đến kênh Cái Sắn;
Khu vực từ kênh Cái Sắn đến sông Ông Đốc;
Khu vực từ sông Ông Đốc đến sông Cửa Lớn.
Sự xâm nhập mặn ở vùng biển Tây còn bị ảnh hưởng của nước ngọt từ sông
Hậu chuyển qua hệ thống kênh rạch và ở khu vực sông Ông Đóc – sông Cái Lớn còn
chịu ảnh hưởng gián tiếp mặn theo triều từ biển Đông truyền vào từ sông Mỹ Thanh,
Gành Hào và qua hệ thống kênh rạch nối với sông Hậu.
Diễn biến của độ mặn trong các năm
Từ số liệu đo đạc độ mặn tại một số trạm trên các sông trong tháng III và IV
thời kỳ 1991 – 2010 có thể rút ra một số nhận xét dưới đây:
Độ mặn lớn nhất hàng năm thường xuất hiện trong tháng III và tháng IV,
xấp xỉ nhau, nhưng có xu thế S
max
tháng IV lớn hơn tháng III .
Độ mặn lớn nhất trong hai tháng III và IV tương đối lớn ở hai khu vực Hà
Tiên – Cái Sắn và khu vực sông Ông Đốc – sông Cửa Lớn, tương đối nhỏ ở
khu vực Cái Sắn – sông Ông Đốc, trừ tại Gò Quao trên sông Cái Lớn, có
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
226 Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường
thể là các kênh rạch ở khu vực này được cung cấp nước ngọt từ sông Hậu.
Từ năm 1997 độ mặn tại Tám Ngàn giảm đáng kể.
Từ năm 1999 trở về sau, độ mặn có xu thế giảm đáng kể ở khu vực sông
Ông Đốc – sông Cái Lớn, có thể là do được bổ sung nước ngọt từ sông Hậu
qua các kênh rạch.
Trong thời kỳ từ 1991-2010, độ mặn lớn nhất xuất hiện vào một số năm
như: 2005, 2004, 2010, 1994, 1998 trong khi năm 2007, 2000, 2003 có độ
mặn nhỏ nhất.
Ở khu vực Hà Tiên – Cái Sắn, diện tích bị mhiễm mặn thu hẹp đáng kể so
với những năm trước là do có hệ thống đê và cống ngăn mặm trên kênh
Rạch Giá – Long Xuyên; đồng thời có nguồn nước ngọt được bổ sung cho
kênh Rạch Giá – Hà Tiên qua kênh Tám Ngàn.
Ở khu vực Cái Sắn – sông Ông Đốc, mùa cạn hai năm 1999 và 2000 có
mưa và nguồn nước ngọt từ sông Hậu cung cấp, nên mặn bị đẩy lùi, nhưng
năm 2003 mặn tặng bất thường.
Ở khu vực sông Ông Đốc – sông Cái Lớn, ngoài mặn theo triều từ biển Tây
xâm nhập vào còn có mặn theo triều từ biển Đông qua kênh Quản Lộ -
Phụng Hiệp và các kênh rạch nối liền với sông Gành Hào, sông Bồ Đề ở
phía đông nam tỉnh Cà Mau.
2.4. Diễn biến mặn ở bán đảo Cà Mau
Bán đảo Cà Mau (BĐCM) nằm ở phía Nam kênh Cái Sắn, hữu ngạn sông Hậu,
phía Đông Nam tiếp giáp với biển Đông và phía Tây Nam tiếp giáp biển Tây, có diện
tích khoảng 17.215 km
2
, bao gồm địa phận Thành phố Cần Thơ và các tỉnh Hậu
Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và phần phía Nam của tỉnh Kiên Giang (các
huyện: Giồng Riềng, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, Gò Quao và một phần hai
huyện Châu Thành và Tân Hiệp). Nguồn nước ngọt chủ yếu cung cấp cho bán đảo Cà
Mau là từ sông Hậu qua hệ thống kênh trục như: Quản Lộ - Phụng Hiệp (QL-PH), Lai
Hiếu, Xà No, Ô Môn
Mặn xâm nhập vào bán đảo Cà Mau từ hai nguồn: Từ biển Đông qua các sông
Mỹ Thanh, Gành Hào, Bồ Đề và từ biển Tây qua các sông Cái Lớn, Cái Bé, Ông Đốc
Bảy Hạp, Cửa lớn và hệ thống kênh rạch như: Rạch Sỏi, Nước Mặn, Chắc Băng, Cán
Gáo Mặn xâm nhập vào BĐCM mạnh nhất là từ các cửa sông: Mỹ Thanh, Gành Hào
và yếu nhất là từ sông Cái Lớn, Cái Bé. Do hệ thống kênh rạch chằng chịt nên chế độ
triều và mặn trong vùng này rất phức tạp. Những năm qua, hệ thống cống ngăn mặn
trên các kênh Tiếp Nhật, QL-PH đã được xây dựng và đi vào hoạt động, nhờ đó đã hạn
chế mặn từ biển Đông và biển Tây xâm nhập vào. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ
trồng lúa sang nuôi tôm đã làm cho diễn biến của mặn càng trở nên phức tạp hơn.
Căn cứ vào mức độ cung cấp nguồn nước ngọt và xâm nhập mặn, có thể chia
vùng BDCM ra làm hai khu vực: Khu vực tỉnh Sóc Trăng và khu vực Quản Lộ -
Phụng Hiệp (QL-PH).
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường 227
Theo kết quả phân tích độ mặn lớn nhất tháng III và IV hàng năm trong thời kỳ
1991-2010 tại một số vị trí trong vùng BĐCM Có thể rút ra một số nhận xét dưới
đây:
Nhìn chung, độ mặn ở khu vực QL-PH lớn hớn nhiều so với độ mặn trong
khu vực tỉnh Sóc Trăng. Nguyên nhân có thể là do khu vực tỉnh Sóc Trăng tiếp
nhận nhiều nước ngọt từ sông Hậu nhiều hơn so với khu vực QL-PH;
Nhìn chung, S
max
trong hai tháng III và IV xấp xỉ nhau;
Từ năm 1997 độ mặn giảm đáng kể. Tại Ngạn Dứa, thuộc khu vực QL-PH,
S
max
tháng III năm 1996 là 23,2 g/l, năm 1997 chỉ còn là 1,6 g/l; nguyên nhân là
do sau khi đưa công trình QL-PH vào hoạt động, nước từ sông Hậu được
chuyển vào khu vực này.
Hình 3. Bản đồ ranh giới măn của độ mặn 4 g/l ở ĐBSCL từ năm 2004 đến 2011
(Nguồn: Đài KTTV khu vực Nam Bộ)
Từ tình hình xâm nhập mặn trong các vùng được trình bầy ở trên cho thấy,
trong 20 năm qua, mặn xâm nhập sâu vào trong hệ thống sông, kênh, rạch và nội đồng
đã tâp trung xảy ra vào các năm 1993, 1994, 1998, 2005, 2010 Đó là những năm do
ảnh hưởng của El Nino, mưa giảm, dòng chảy mùa cạn sông Mê Kông chảy vào
ĐBSCL giảm đáng kể, đồng thời lượng mưa mùa khô rất nhỏ, nắng nóng, bốc hơi lớn
dẫn đến hạn hán nghiêm trọng. Diện tích bị nhiễm mặn trong thời kỳ 1991-2000
khoảng 2,13 triệu ha, chiếm 54,4% diện tích ĐBSCL; năm 1998 diện tích bị nhiễm
mặn khoảng 2,43 triệu ha, chiếm 62,4 %. Năm 2000 là năm lũ lịch sử ở ĐBSCL, do lũ
năm 1999 khá lớn nên lượng dòng chảy sông Mê Kông chảy vào ĐBSCL trong mùa
cạn năm 2000 lớn nên mặn không thể xâm nhập sâu vào trong hệ thống sông, kênh,
rạch và do đó diện tích bị nhiễm mặn chỉ có 1,88 triệu ha, chiếm 48,3% diện tích
ĐBSCL.Trong các năm 2002-2004, theo số liêu quan trắc, tháng IV là tháng có độ
mặn cao nhất so với các tháng khác trong mùa cạn. Trong giai đoạn này, một số vùng
đã được ngọt hóa nhờ cung cấp nước ngọt từ sông Tiền, sông Hậu với diện tích
852.385 ha, chiếm 21,7%, diện tích bị nhiễm mặn trong giai đoạn này lên tới
1.305.550 ha, chiếm 33,2% diện tích ĐBSCL [3, 5].
Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI
228 Tập 2: Thủy văn - Tài nguyên nước, Biển, Môi trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình Tiến bộ khoa học cấp nhà nước. Mã số 42A (1989). Tập số liệu khí
tượng thủy văn.
2. Cục Quản lý tài nguyên nước (2012). Báo cáo tổng hợp dự án: Lập nhiệm vụ quy
hoạch tài nguyên nước vùng sông Hậu.
3. Lê Sâm. Diễn biến xâm nhập mặn vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp
chí Hoạt động Khoa học, số 2-2003
4. Nguyễn Hoàng (1994). Nghiên cứu đánh giá sự xâm nhập mặn trên sông rạch tỉnh
Long An.
5. Trần Thanh Xuân (2007). Đặc điểm thủy văn và nguồn nước sông Việt Nam . Nhà
xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội.
6. Trần Thanh Xuân và nnk (2012). Tài nguyên nước các hệ thống sông chính Việt
Nam. Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật. Hà Nội.
7. Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam (2004). Nghiên cứu xâm nhập mặn phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo tổng kết đề tài mã
số KC.08.18
8. Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam (2010). Báo cáo Tổng hợp “ Quy hoạch tài
nguyên nước bán đảo Cà Mau”.
CURRENT CONDITION OF SALTWATER INSTRUSION
IN CUU LONG DELTA
Tran Thanh Xuan, Hoang Minh Tuyen, Luong Huu Dung, Ngo Thi Thuy
Institute of Meteorology Hydrology and Environment
Based on the observed salinity data at stations established by Ministry of Natural
Resources and Environment, economic sectors and local authorities and results of studies on
change in salinity, the paper presents results of assessing and analyzing the change in
saltwater intrusion in Cuu Long Delta in recent years.