Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chủ nghĩa huyền ảo trong văn chương hậu hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.53 KB, 7 trang )

CHỦ NGHĨA HUYỀN ẢO TRONG VĂN CHƯƠNG HẬU HIỆN ĐẠI
Lê Huy Bắc
1


Chủ nghĩa huyền ảo là một trong những khuynh hướng chính của văn chương
hậu hiện đại. Chủ nghĩa huyền ảo sử dụng cái nhìn đẫm màu sắc hoang đường về
cuộc đời. Màu sắc hoang đường không đơn thuần như trong truyện kể cổ đại mà pha
lẫn giữa lí tính với cảm tính, một cách quan niệm rất mở về hiện thực rằng hiện thực
không chỉ là những thứ tồn tại xung quanh ta, trong ta mà cả những cái chúng ta có
thể tri nhận và linh cảm thấy.

Chưa có khái niệm “Magicalism” trong nghiên cứu phê bình văn học thế giới, chỉ có khái niệm
“Magical Realism” (Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo). Cái tên “Magical Realism” ra đời cốt để khẳng định
một khuynh hướng sáng tác mang “tính chất huyền ảo” của chủ nghĩa hiện thực thế kỉ hai mươi, nhưng
nhược điểm của nó là lấy chủ nghĩa hiện thực làm chuẩn mực cho các khuynh hướng văn chương phát
triển về sau. Trong khi đó, đến chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hiện thực đã trở thành “bóng ma” không
những không đủ sức ám ảnh bất kì ai mà còn bị chủ nghĩa hiện đại chế giễu, phê phán.
Đề xuất khái niệm Magicalism, chúng tôi muốn khẳng định tính độc lập của khuynh hướng và
nhấn mạnh đến tính chất “siêu hư cấu”, cũng như việc khác biệt của “huyền ảo” với “hiện thực” nếu
không nói những yếu tố được xem là hiện thực bị giễu nhại trong huyền ảo.
Nền tảng triết học của “huyền ảo” được đặt trên quan niệm “cái siêu nhiên là bộ phận của cuộc
sống” vì các nhà hậu hiện đại cho rằng “hiện thực” không chỉ giới hạn trong phạm vi tri nhận của các giác
quan mà còn là hiện thực được tri nhận qua trực giác, linh giác. Tư tưởng này đối thoại với quan niệm
“hiện thực” của những nhà hiện thực thế kỉ mười chín và cả những nhà hiện đại thế kỉ hai mươi. Bản chất
của nó là mở rộng dân chủ cho các đối tượng “hiện thực” trước đây bị xem là không hiện thực, đưa văn
chương đến gần hơn với nguyên tắc trò chơi của lễ hội, tạo nên tính “đại chúng” trong sáng tạo.
Chủ nghĩa “huyền ảo” phát triển mạnh mẽ ở khu vực Mĩ – Latinh vào những năm 1960. Tuy
nhiên, dấu vết của cái kì ảo
(1)
, hoang đường thì đã xuất hiện sớm hơn trong văn học phương Tây, rõ nhất


là ở thế kỉ mười chín với các tác phẩm của Balzac, Hoffmann, Poe, Hawthorne Sang thế kỉ hai mươi,
Franz Kafka là người tiếp thu cái kì ảo của thế kỉ trước và đặt nền móng cho sự ra đời của chủ nghĩa
huyền ảo hậu hiện đại. Nhà văn sáng tác theo khuynh hướng này thường sử dụng yếu tố hoang đường
trong phản ánh hiện thực. Điểm khác nhau cơ bản giữa huyền ảo hậu hiện đại và kì ảo là ở chỗ yếu tố ma
quái, yếu tố kinh dị bị giảm thiểu đến mức tối đa và chúng không hề gây tâm lí hoang mang sợ hãi trong
lòng người đọc. Thay vào đó, các nhà hậu hiện đại thường sử dụng các hình ảnh siêu nhiên gắn với các
thành tựu khoa học kĩ thuật, gần gũi hơn với đời sống con người. Cách các nhà văn thường sử dụng là
nâng một sự việc, một hiện tượng lên tầm huyền thoại và xếp đặt thản nhiên liền kề các yếu tố siêu

1
Trường ĐHSP Hà Nội
nhiên bên cạnh các yếu tố thực của đời sống. Gabriel Garcia Marquez, Miguel Asturias, Italo Calvino,
Leslie Marmon Silko là những bậc thầy trong lĩnh vực này. Đọc tác phẩm của họ, ta thấy các yếu tố siêu
nhiên không hề gây cho nhân vật và cho cả độc giả chút ngạc nhiên, kinh hãi nào. Mĩ học của Chủ nghĩa
hậu hiện đại cho phép con người thoải mái sinh hoạt, giao tiếp qua những môi trường và hoàn cảnh mà
trong đời sống thực thì không thể nào tương thông.
Biển của thời đã mất của Marquez với cuộc sống khô cằn xác xơ của các ngôi nhà bên bờ biển và
ngôi nhà trồng đầy hoa hồng ngát hương dưới đáy đại dương là huyền thoại về việc đánh mất thiên đường
trên mặt đất. Thêm vào khung cảnh đó là hình ảnh một bà lão đã chết, xác được ném xuống biển theo
phong tục của dân làng, hoá thành thiếu nữ xinh đẹp bơi trong làn nước huyền thoại và cả những người
đang sống lặn xuống đại dương bắt rùa ăn cho đỡ đói theo cách “bơi chếch xuống” đáy biển vừa gợi cho
ta nhớ về các nhân vật trong câu chuyện cổ vừa khiến ta liên tưởng đến những con người hậu hiện đại
thám hiểm đại dương bằng những trang thiết bị cực kì tối tân.
Có sự phát triển từ huyền ảo của Kafka đến huyền ảo của Marquez. Nhân vật của Kafka dẫu sao
vẫn còn chút ít trăn trở khi tiếp xúc với yếu tố hoang đường (chẳng hạn như Gregor Samsa có thoáng chút
băn khoăn khi biến thành con bọ trong Biến dạng); nhân vật của Marquez thì thản nhiên chấp nhận việc
mình có khả năng bơi xuống đáy đại dương hay sẵn sàng sống cùng ông lão có đôi cánh khổng lồ trong gia
đình Bình thường hoá những điều kì lạ và xoá bỏ khoảng cách giữa bình thường và dị biệt, dị biệt và dị
biệt là một trong những nguyên tắc thẩm mĩ chính của chủ nghĩa hậu hiện đại. Sở dĩ, họ làm được điều đó là
do chịu ảnh hưởng của công nghệ truyền thông computer và kĩ thuật ghép nối siêu hạng của nó.

Truyện viết theo khuynh hướng huyền ảo thường được thể hiện theo cảm hứng thơ với những tiếp
nối, liên tưởng bất chợt không theo quy luật tư duy lôgích và lí trí. Đây là kết quả từ quan niệm thẩm mĩ
của chủ nghĩa hậu hiện đại trong việc đả phá tư duy lí trí, đầy tỉnh táo của thi pháp cũ. Những tác phẩm
Linh hồn muốn gì (Helen Garner), Tấm khăn (Cynthia Ozick), là những bài thơ – văn xuôi, khai thác cái
hiện thực bên kia hiện thực, hiện thực trong ẩn ức, kí ức và cả sức tưởng tượng đến mức phi phàm: “Tôi
không thể đi tìm chàng. Tôi không thể theo chàng. Tôi không thể viết cho chàng. Chàng không tồn tại.
Nhiều ngày trôi đi và khi nhiều ngày nối tiếp theo nhau, máu và cơ thể giải phóng ý tưởng chàng, khi
nhiều ngày qua đi không ngừng qua đi. Dần dần chàng biến thành ma, chỉ là một linh hồn, xám và vô
hình. Chàng chưa từng tồn tại. Chàng là ảo ảnh. Tôi tạo ra chàng”
(2)
.
Bởi chàng là linh hồn nên dẫu cho tôi khao khát được bên chàng và chàng rất gần với tôi nhưng
tôi không thể có chàng. Giữa tôi và chàng luôn tồn tại khoảng cách. Khoảng cách của sự sống và cái chết.
Cái chết của người không muốn sống hay không ý thức được giá trị hoặc vô giá trị của sự sống lẫn cái
chết. Đối với họ, sống hay chết có thể tất thảy đều vô nghĩa hoặc giả là rất có ý nghĩa bởi có khả năng
rằng chính cái chết mang lại ý nghĩa cho sự sống (ý của Donald Barthelme). Sống là một cuộc chơi và
chết cũng là một cuộc chơi.
Chủ nghĩa hậu hiện đại không chỉ đa trị hoá trần thuật mà còn đa trị hoá cái nhìn về cuộc đời.
Cuộc đời là nghiêm túc nhưng cũng là một cuộc chơi với những luật tắc không cố định để thể nghiệm
những cái tôi nhỏ bé. Song không vì thế mà nó không đề xuất vấn đề xã hội. Một xã hội thậm phồn
(hyper) về vật chất, về kĩ nghệ thì nỗi ám ảnh của cái phi lí, cái bi đát của kỉ nguyên hiện đại vẫn tiếp tục
gia tăng. Không chỉ riêng nhân vật tôi của Helen Garner mà nhân vật tôi – chàng trai trong Khói thị thành
của Pinckney Benedict cũng có tâm trạng này. Họ không thể hoà nhập thực tại bởi thực tại không còn
nguyên những giá trị đạo đức truyền thống hoặc là những giá trị hoàn toàn mới mà đấy chỉ là sự lai ghép
thảm hại, đánh mất thuần chủng, tinh khiết trong đời sống tình cảm, vật chất của con người.
Yếu tố huyền ảo cũng xuất hiện nhiều trong Trăm năm cô đơn của Marquez. Còn gì hoang đường
hơn chuyện một cơn mưa kéo dài mấy năm trời. Một cô gái xinh đẹp bỗng nhiên bay lên trời. Và kì quặc
hơn là chuyện làm tình của đôi tình nhân đầy dục vọng, khi đám gia súc của họ mắn đẻ như thế nào phụ
thuộc và cường độ làm tình của chủ nhân chúng Cái trống thiếc của Gunter Grass cũng vậy. Cậu bé
Oskar lên ba tuổi quyết định thôi không lớn nữa. Từ đó trong lốt của một chú bé, người đàn ông trong

Oskar cứ trưởng thành và chứng kiến bao cảnh thương tâm, bao nỗi bi hài của cuộc đời
Với các nhà hậu hiện đại, huyền ảo cũng là một “hoàn cảnh”. Bất kì những cái gì con người nghĩ
đến và hình dung được nó đều có thể trở thành “hiện thực” trong con mắt của họ. Người yêu dấu
(3)
kiệt
tác của nữ văn sĩ Hoa Kỳ Tony Morrison đầy ắp những bóng ma. Không chỉ có trong nhân vật mang cái
tên của tác phẩm, mà cả trong kí ức ma quái về cuộc sống nô lệ vẫn không ngừng ám ảnh Sethe và Paul
D. Tiểu thuyết được cấu trúc theo lối cốt truyện ghép mảnh, bằng cách để nhiều nhân vật, tại nhiều thời
điểm khác nhau tham gia cốt truyện một cách ngẫu hứng. Trong các mảng ghép đó, bóng ma Beloved
(Người yêu dấu) là mảnh ghép gợi sức ám ảnh nhất.
Cốt truyện chính bắt đầu từ ngôi nhà số 124, phố Bluestone ở Cincinnati. Một phần, cuốn sách
cung cấp chuỗi tháng năm Sethe tranh đấu để trốn thoát kiếp sống nô lệ từ nông trại Sweet Home và sống
cuộc đời tự do cùng các con, kết thúc bi kịch với cái chết của cô con gái đầu (đứa con thứ ba) khi mẹ con
cô bị phát hiện bởi ông chủ cũ. Tương tự, câu chuyện về Paul D cũng bắt đầu ở Sweet Home rồi trải dài
theo sự trốn thoát, việc bị bắt giữ, bị tống giam cùng với cả nhóm người mang xiềng. Paul D, Sethe và cô
con gái Denver của Sethe, bóng ma Beloved cùng hướng về thực tại trong lúc mỗi người trong số họ đều
cố móc nối với các sự kiện quá khứ.
Yếu tố huyền ảo tập trung nhất qua hình tượng người – ma Beloved. Beloved là ma nhưng cách
xử lí của tác giả là tạo ra sự mờ hoá giữa ranh giới: bóng ma thực và ý niệm của hai mẹ con Sethe và
Denver về bóng ma ấy. Xung quanh việc giải thích nguồn gốc của Beloved cũng được ảo hoá (hoặc hiện
thực hoá). Trong thế giới của người dân thị trấn Cincinnati, cụ thể là lời ông lão da đen tốt bụng Stamp
Paid thì Beloved hẳn là con gái bị nhốt của một ông bố tâm thần nào đó vừa mới mất đã thoát khỏi chốn
giam cầm. Theo Sethe và Denver đấy chính là đứa con gái bị chính tay Sethe giết chết bằng cái cưa vì
không muốn nó bị rơi vào tay những kẻ săn lùng nô lệ. Vì hành động giết con mà Sethe bị tống vào tù.
Câu chuyện luôn được kể theo lối lắp ghép thực – ảo. Một mặt người kể muốn khẳng định đấy là
sự thực, mặt khác lại nhấn mạnh yếu tố hoang đường. Tất cả đều nhằm mục đích hướng tới một thực tế là
người da đen bị đối xử còn thua cả loài vật trong thời nô lệ khốc liệt ở Hoa Kỳ và cho dù họ được giải
phóng hoàn toàn sau nội chiến (1861–1865) thì không vì thế họ được bình yên vì “bóng ma” của quá khứ
đau khổ luôn ám ảnh họ. Ở đây tác giả đưa ra nhiều hệ quy chiếu về đạo đức và tội lỗi. Vấn đề có ý nghĩa
quyết định là thời điểm và sự thay đổi quan điểm về người da đen. Ở cả hai khía cạnh Sethe đều bị đặt

vào sự bi đát vì bất gặp thời. Cô là người mẹ rất yêu con. Trong thời điểm, người da đen hãy còn làm nô
lệ, chỉ vì không muốn con gái rơi vào tay ông chủ để phải sống kiếp đọa đày, Sethe đành đoạn giết chết
đứa bé để bảo toàn cuộc sống của nó. Nhưng không lâu sau, chế độ nô lệ được bãi bỏ, người da đen có
cuộc sống tự do, bình đẳng thì việc giết con đó lại là vấn đề ám ảnh khôn nguôi tâm hồn người mẹ. Hành
động được xem là đúng đắn tại thời điểm quá khứ lại trở thành hành động tội lỗi trong thực tại. Những
quy chiếu khác nhau tại những thời điểm khác nhau đã mang lại những sai lệch khác nhau cho cùng một
vấn đề.
Dựng nỗi ám ảnh về tội lỗi giết con của Sethe bằng hình ảnh một bóng ma thực sự, tác giả khắc
hoạ rõ nét bức chân dung của lòng can đảm, hợp lí đến nghiệt ngã của người mẹ yêu con hết mực nhưng
vẫn không khỏi day dứt về hành động của mình.
Beloved là lời Sethe đặt trên bia mộ đứa con gái xấu số. Cô giết chết nó khi nó vừa biết bò trong
hoàn cảnh những người da trắng đang truy lùng hòng bắt nó phải sống kiếp đời nô lệ. Hành động quyết
liệt ấy của Sethe xuất phát từ mục đích người mẹ “sẵn sàng giết chết con mình để nó khỏi rơi vào cảnh
ngộ bi thảm như con vật” (tr. 391). Khi cô gái từ dưới cầu, dưới nước (sự tái sinh mang tín ngưỡng dân
gian) trở về ngôi nhà tìm gặp mẹ, nó xưng tên là Beloved. Là con người bằng xương bằng thịt nhưng
Beloved lại có những biểu hiện không hoàn toàn giống với người thường. Morrison một lần nữa khắc hoạ
Beloved ở ranh giới thực–hư. Sự xuất hiện và biến mất của cô đầy hư ảo nhưng Beloved lại xác thực ở
chỗ cô mang phức cảm tâm lí về sự yêu – ghét dành cho mẹ mình.
Cả Denver và Sethe đều nhận ra điều đó. Beloved vừa có ý muốn trả thù (hành động bóp cổ Sethe ở
khu đất thiêng Clearing trong rừng) và vừa bày tỏ lòng yêu thương người mẹ Sethe, người chấp nhận mang
bi kịch (bi kịch khủng khiếp của kẻ giết người) để bảo toàn sự tự do, hạnh phúc cho con người. Một nghịch
lí đặt ra: trong xã hội vô nhân tính, các giá trị đạo đức đều bị thay đổi – kẻ giết người là thánh nhân trong
hành động vốn được xem là độc ác.
Chủ đề về thân phận người da đen xuyên suốt tác phẩm. Tác giả không miêu tả riêng nỗi nhục bị
đày đọa xác thân, sự khủng bố man rợ những hành vi chống đối mà người da trắng dành cho họ, cũng như
sự phẫn nộ vùng lên đòi tự do bằng con đường bỏ trốn, vốn được trình bày sâu sắc và hấp dẫn trong Túp
lều bác Tom của H.B. Stowe, trong Wilson thằng ngốc của Mark Twain cách đó hơn một thế kỉ, mà còn
tái hiện cả thân phận nô lệ da đen thời hậu nô lệ. Sự tàn ác của người da trắng mà nô lệ da đen phải gánh
chịu lớn đến mức nhiều năm sau khi sống trong sự tự do hoàn toàn họ vẫn bị bóng ma của thời nô lệ xa
xưa ấy ám ảnh, quấy nhiễu. Beloved hiện diện trong tác phẩm chủ yếu với tư cách ảo. Đấy là bóng ma

của tội lỗi mà Sethe phải gánh chịu trong kiếp phận nô lệ và nỗ lực giải thoát kiếp phận ấy.
Từ khía cạnh này, ta thấy Morrison qua tác phẩm của mình bộc lộ tham vọng tái hiện cả lịch sử
nô lệ của người da đen (trên bề mặt hành động lẫn chiều sâu nội tâm, tình cảm) và cả lịch sử tội lỗi của
người da trắng đối với chủng tộc bà.
Lấy mốc năm 1873, ngày Paul D đến ngôi nhà 124 trên phố Bluestone làm điểm khởi đầu cho
mạch tự sự. Sau đó người kể lùi lại 18 năm với mốc 1855 khi Denver chào đời. Để từ mốc ấy, câu chuyện
tiếp tục lùi xa hơn nữa tại trang trại Sweet Home nơi Halle, đứa con trai cuối cùng của bà Baby Suggs
phải lao động ngày chủ nhật suốt năm năm để lấy tiền chuộc tự do cho mẹ. Với cách lùi thời gian và trùng
lấp nhiều lớp thời gian lên nhau, câu chuyện tạo nên chiều sâu cho lịch sử bi thương của kiếp người nô lệ.
Cái “bóng ma” Beloved không đợi khi cô bé chào đời và nhận cái chết mà vốn đã tồn tại trước đó, thông
qua nhiều số phận – bóng ma khác.
Baby Suggs có tám người con, “Tám đứa con của Baby đã có sáu người cha” (tr. 44). Lần lượt
từng đứa một bị tước khỏi bà. Bà không có quyền yêu và chọn lựa chồng và cũng không có quyền sở hữu
và yêu thương những đứa con. Bà giống như một “con cái” chỉ được phép làm tình, sinh con theo chỉ thị
của chủ. Cùng tình cảnh đó, Sethe là con dâu bà, cô có bốn đứa con, nhưng may mắn thay, chúng đều có
chung một người cha. Đó là hai bé trai và hai bé gái: Buglas, Howard, Beloved và Denver. Beloved là cô
bé chưa đến hai tuổi đã bị chính tay Sethe giết chết tại ngôi nhà 124 khi cô bị người quản lí gia đình
Garner truy bắt.
Hồn ma Beloved trở về quấy rối. Sau khi bà Baby Suggs qua đời, hai cậu con trai bỏ đi, Sethe chỉ
còn lại Denver. Ngôi nhà 124 (con số ẩn dụ cho sự không liền mạch, trọn vẹn, bị mất số 3, đấy là số của
Beloved, đứa con thứ ba trong số bốn đứa con của Sethe) trở thành ngôi nhà ma, không còn ai lui tới cho
đến ngày Paul D đến tìm Sethe.
Trong cảnh nô lệ, người phụ nữ không có quyền yêu, quyền thủy chung với người mình lựa chọn.
Họ chỉ là những cái “máy đẻ” để mang lại nguồn lợi kinh tế cho các ông chủ. “Người nô lệ không được
quyền có cảm xúc yêu đương của bản thân, cơ thể của họ cũng vậy, nhưng họ phải có càng nhiều con cái
càng tốt để làm hài lòng các ông chủ” (tr. 325). Vì thế, nỗi khắc khoải về hạnh phúc lứa đôi hay ý thức về
cái tôi – quyền tối thiểu về con người không hề có. Bà Baby Suggs cảm nhận cuộc sống của bản thân và
con cái như những quân cờ mà người chơi không bao giờ ngừng tay dịch chuyển.
Trong sự mong manh của số phận ấy, càng tình cảm, con người càng có nguy cơ đối mặt nhiều
hơn với bi kịch. Do vậy, nếu không thể từ bỏ tình cảm thì con người cần phải giảm thiểu nó. Đây chính là

bi kịch của sự tự ý thức nhân phẩm. “Đối với một phụ nữ từng là nô lệ, yêu bất cứ cái gì quá mức đều là
nguy hiểm, nhất là đối với con gái. Anh hiểu tốt nhất là chỉ yêu một chút thôi, mọi thứ, nhưng chỉ một
chút thôi, có như vậy, khi người ta đánh vỡ nó, hay nhét nó vào bao tải vứt đi, thì may ra ta vẫn còn lại
một tí tình yêu dành cho cái tiếp theo” (lời độc thoại nội tâm của Paul D, tr. 79).
Người yêu dấu là khúc bi ca cho thân phận người nô lệ da đen trên đất Hoa Kỳ. Nhưng đồng thời
đó còn là khúc tráng ca ngợi ca ý chí bất khuất và quyết liệt của người da đen trên hành trình đi tìm lẽ tự
do, công bằng. Hơn thế nữa, đó còn là bài ca tranh đấu chan chứa tình người cho bất kì chủng tộc nào bị
áp bức bất công trên thế gian.
Huyền ảo là cái nhìn đặc thù của hậu hiện đại về cuộc đời. Màu sắc huyền ảo ở đây không đơn
thuần là hoang đường như trong truyện kể cổ đại mà pha lẫn giữa lí tính với cảm tính, một cách quan
niệm rất mở về hiện thực rằng hiện thực không chỉ là những thứ tồn tại xung quanh ta, trong ta mà cả
những cái chúng ta có thể tri nhận và linh cảm thấy.

Chú thích
(1)
Chúng tôi phân biệt hai khái niệm “kì ảo” và “huyền ảo” trong công trình Chủ nghĩa hiện thực huyền
ảo và Gabriel Garcia Marquez, NXB Giáo dục, 2009.
(2)
Helen Garner, Linh hồn muốn gì, in trong Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới, NXB Hội nhà văn, 2003.
(3)
Tony Morrison, Người yêu dấu, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thanh Tâm dịch, NXB Văn học, H., 2007.

MAGICALISM IN POSTMODERN LITERATURE
Le Huy Bac
Abstract
Magicalism is one of the main tendencies of postmodern literature. Magicalism uses of subtle
look toward life. The subtle color is not merely a myth as in ancient tales, but with mixed emotions
among the reasons, a very “open” concept of reality that reality is not only what exists around us, in us
which both what we can get knowledge and spiritual feel.



×