Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Giới hạn của sự diễn giải văn bản văn học qua lịch sử tiếp nhận sáng tác nguyễn huy thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 127 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
==========



NGÔ THỊ LỆ CHI





GIỚI HẠN CỦA SỰ DIỄN GIẢI VĂN BẢN
VĂN HỌC QUA LỊCH SỬ TIẾP NHẬN
SÁNG TÁC NGUYỄN HUY THIỆP

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS TRƢƠNG ĐĂNG DUNG






HÀ NỘI, 2014





LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian nghiên cứu, học tập và chuẩn bị luận văn, ngoài sự cố
gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã được sự giúp đỡ tận tình của Nhà trường, các
các thầy cô giáo thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2 đã dành những điều kiện tốt nhất để tôi được theo học và nghiên
cứu, hoàn thành luận văn. Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Trương Đăng Dung
đã dành thời gian và công sức để giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và chuẩn bị luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, các anh, chị đồng nghiệp và tập thể lớp cao
học Lí luận văn học K16 đã động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và thực hiện luận văn.
Tác giả luận văn



Ngô Thị Lệ Chi














LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kì luận văn nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn




Ngô Thị Lệ Chi






MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 13
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 13
6. Cấu trúc luận văn 14
7. Đóng góp của luận văn 14
CHƢƠNG 1: TƢ DUY CỦA LÍ LUẬN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VỀ 15
BẢN CHẤT CỦA VĂN BẢN VĂN HỌC 15
1.1. Về bản chất của ngôn ngữ 16
1.2. Văn bản văn học và sự diễn giải văn bản văn học 26
1.3. Lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam 38
CHƢƠNG 2: VĂN XUÔI VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ SỰ
XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP 51
2.1. Văn xuôi thời kì đổi mới 51
2.2. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp 65
2.3. Vài nét về quá trình tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp 77
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIỚI HẠN TRONG TIẾP NHẬN 83
SÁNG TÁC NGUYỄN HUY THIỆP 83
3.1. Yếu tố cộng đồng diễn giải trong quá trình tiếp nhận văn học 83
3.2. Nguồn gốc giới hạn trong tiếp nhận sáng tác nguyễn Huy Thiệp 88
KẾT LUẬN 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120

1



MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thế kỉ XX được xem là thế kỉ của các lý thuyết Văn học. Trong thế
kỉ này, người ta chứng kiến sự ra đời, phát triển của nhiều lý thuyết Văn học
cũng như tầm quan trọng của nó đối với đời sống văn hóa, văn học, tinh thần
và tư tưởng của xã hội. Một trong những thành tựu quan trọng làm thay đổi
các quan điểm cũ về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học đó là sự ra đời
của Mỹ học tiếp nhận (tiếp nhận văn học). Nếu lý luận văn học tiền hiện đại
chỉ chú ý tới tác giả và có những bước tiến quan trọng trong việc khám phá
văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động thì tư duy lý luận văn học hậu
hiện đại lại có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn
học trong quan hệ với những yếu tố khác và với người tiếp nhận. Sự chuyển
đổi từ Mỹ học sáng tạo sang Mỹ học tiếp nhận được xem là bước ngoặt quan
trọng của tư duy lý luận văn học thế giới. Bởi “Mỹ học tiếp nhận nêu lên
những giá trị dễ đổi thay, trực tiếp gắn liền với cá nhân người đọc thông qua
quá trình cụ thể hóa văn bản Từ đây, lịch sử văn học không chỉ đơn giản là
con số cộng tác giả và tác phẩm mà còn được hiểu là tác phẩm và người tiếp
nhận trong những biến chuyển lịch sử của nó” [16, 167].
Từ sau năm 1975, văn học Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ
và sâu sắc trên nhiều phương diện, đặc biệt ở phương diện văn xuôi nghệ
thuật, nổi bật là mảng truyện ngắn và tiểu thuyết. Cùng với đó, sự đổi mới
trong quan niệm về hiện thực, về nhà văn và nghề viết, quan niệm nghệ thuật
về con người của lực lượng cầm bút với những nỗ lực cách tân mạnh mẽ đã
đem lại diện mạo mới mẻ cho văn học. Văn xuôi Việt Nam, đặc biệt từ 1986
được xem như một sự chuyển dòng mới mẻ và ngoạn mục trong tiến trình văn
học dân tộc, đã không ngừng tìm tòi, học hỏi và tự khám phá cho mình những
lối đi táo bạo, bất ngờ. Trong một khoảng thời gian không dài, văn học Việt
2




Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, mang lại niềm tin cho
độc giả về một quá trình chuyển mình đầy năng động và thú vị. Người đọc
được thưởng thức những tác phẩm văn học mang sắc diện hoàn toàn mới mẻ
trong cách nhìn nhận, đánh giá các hiện tượng của đời sống cũng như trên các
bình diện nghệ thuật như kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu Nhiều cây bút trẻ và
cả những cây bút quen thuộc dần dần làm thay đổi khẩu vị thưởng thức của
đông đảo công chúng bằng những thử nghiệm mới và trưởng thành độc đáo.
Những tên tuổi như Hồ Anh Thái, Di Li, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình
Phương, Tạ Duy Anh, đặc biệt Nguyễn Huy Thiệp đã cùng nhau thổi những
làn gió mới tạo sự hấp dẫn, đa sắc màu cho văn xuôi Việt Nam.
Cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện như
một hiện tượng lạ - “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp’’. Các sáng tác của ông
ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của giới nghiên
cứu phê bình và độc giả. Ông có lẽ là tác giả đầu tiên trong văn học Việt Nam
lập kỉ lục bởi có nhiều bài viết trong một khoảng thời gian ngắn.
Qua thực tế khảo sát các bài viết, các công trình nghiên cứu về tác
phẩm của Nguyễn Huy chúng tôi nhận thấy bạn đọc đã dùng những hệ quy
chiếu khác nhau, những nhãn quan khác nhau để soi chiếu và tiếp nhận tác
phẩm. Có những tác phẩm ngay khi ra đời đã gây xôn xao dư luận, hàng loạt
các ý kiến xoay quanh nó, khen tột bậc mà chê cũng không tiếc lời. Có rất
nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề tiếp nhận và lý giải tại
sao những hiện tượng văn học này lại có nhiều ý kiến khen chê như vậy. Tuy
nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này một cách cụ thể,
khoa học và hệ thống. Vì vậy, chọn đề tài “Giới hạn của sự diễn giải văn
bản văn học qua lịch sử tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp” chúng tôi
sẽ tập trung làm rõ những ý kiến trái chiều xoay quanh việc tiếp nhận tác
phẩm của nhà văn này. Đồng thời cũng lý giải những nguyên nhân dẫn tới
giới hạn trong sự diễn giải văn bản tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp.
3




2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết tiếp nhận
Những năm đầu thế kỉ XX, trên thế giới (đặc biệt ở Phương Tây) đã có
nhiều nhà lý luận nghiên cứu về lý thuyết tiếp nhận. Dựa trên những kết quả
nghiên cứu tác phẩm văn học theo hiện tượng học của Husserl, Roman
Ingarden (người Ba lan) đã cho ra đời công trình “Tác phẩm văn học”. Đây
được coi là một thành công về khía cạnh lý luận vì nó đã lý giải được quá
trình đọc là quá trình như thế nào. Theo ông “đọc là quá trình cụ thể hóa văn
bản ”. Ông đã tìm ra những khả năng khác nhau để lĩnh hội và lý giải giá trị
tác phẩm văn học. Roman Ingarden nhấn mạnh: “Tác phẩm văn học không
đồng nhất với mọi sự đọc và trong phê bình văn học, những ý kiến khác nhau
không liên quan đến bản thân tác phẩm mà chỉ liên quan đến sự cụ thể hóa
của từng nhà phê bình”. [ 11, 43].
Ở Đức, những triết gia đi theo trường phái hiện tượng luận, bắt đầu từ
Heiderger đến Gadame đã phát triển tinh thần hiện tượng học trong triết học,
đặc biệt trong nhìn nhận các vấn đề của lý thuyết văn học. Tác giả Gadame đã
đặt ra những vấn đề hoàn toàn mới mẻ cho Lý luận văn học. Ông đã đặt ra
những câu hỏi “Nghĩa của văn bản thể hiện qua cái gì? Vai trò của sự chủ ý
của nhà văn trong nghĩa này là gì? Có thể hiểu được những tác phẩm mà về
mặt lịch sử và văn hóa là xa lạ đối với người đọc? Có thể có sự hiểu “ khách
quan” hay mọi sự hiểu đều lệ thuộc vào tình thế lịch sử cụ thể? ”[15,15 ].
Khám phá sự vận động của cấu trúc ngôn từ động của văn bản nghệ thuật,
H.G.Gadame đã đặt tiền đề quan trọng để Lý luận văn học tiến xa thêm một
bước, thấy được văn bản nghệ thuật còn có những khả năng mới trong quan
hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận.
Theo dẫn luận của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung thì nhà lí luận
người Pháp Paul Ricoeur trong công trình Văn bản là gì (được Trương Đăng
4




Dung giới thiệu và dịch ra tiếng Việt) “cho rằng tất cả mọi sự viết đều liên hệ
với lời nói có trước, rằng mọi văn bản đều ở trong tình thế thực hiện mình
trong quan hệ với ngôn ngữ, giống như lời nói. Tuy nhiên Paul Ricoeur cũng
nhấn mạnh rằng sự giải phóng văn bản ra khỏi lời nói làm đảo lộn mối quan
hệ của ngôn ngữ và các chủ thể khác có liên quan, kể cả mối quan hệ giữa tác
giả và người đọc. … Điều đáng nói ở đây là Paul Ricoeur đã có những lập
luận hướng tới khái niệm sự diễn giải mới xuất phát từ sự đọc… Ông cũng
phê phán mô hình phản ứng cấu trúc không quan tâm đến những thái độ có
thể có của người đọc đối với văn bản. Theo ông có sự khác biệt giữa giải
thích và diễn giải văn bản. Đọc là sự kết nối sự biểu lộ mới và sự biểu lộ của
văn bản. Sự diễn giải văn bản là kết quả cụ thể của sự kết nối này và khả
năng bắt đầu lại nhờ tính chất mở của văn bản. Paul Ricoeur hiểu sự chiếm
hữu là sự diễn giải văn bản đến cùng, đạt đỉnh điểm trong sự diễn giải chính
mình của một chủ thể nào đó. Bản chất của quá trình diễn giải là sự chiến
thắng cái khoảng cách văn hóa, sự nhất thể hóa giữa văn bản và sự diễn giải
bản thân của người đọc.”
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Hans Robert Jauss tại trường Đại
học Konstanz (Đức) và các cộng sự của ông được xem như người đứng đầu
đề xuất lý thuyết tiếp nhận. Các bài giảng của ông sau này được chỉnh sửa và
viết thành công trình chuyên luận “Lịch sử văn học như một sự khiêu khích
đối với khoa học văn học” đã được PGS.TS Trương Đăng Dung giới thiệu và
dịch ra tiếng Việt, in trong cuốn Tác phẩm văn học nhƣ là quá trình, NXB
Khoa học xã hội, Hà nội 2004.
Wolfgang Isev cùng nhiều nhà khoa học khác đã đặt ra vấn đề: Sự hiểu
văn bản văn học xảy ra như thế nào? Và lý luận văn học sau một thời gian dài
chỉ chú ý tới tác giả và văn bản, lần đầu tiên đã quan tâm đến người đọc,
nghiên cứu vai trò của chủ thể tiếp nhận đối với sự tồn tại của một tác phẩm

5



văn học. Ông cho rằng khi văn bản được tung ra xã hội như một tác phẩm thì
nó cắt đứt với tác giả, số phận của nó phụ thuộc vào người đọc. Nhưng người
đọc vẫn hiểu được điều mà tác phẩm muốn nói. Như vậy, đã có một người
đọc tiềm ẩn, vô hình.
Còn Roland Barthes (Pháp) nói: Khi văn bản là sách bán ra xã hội thì
khi đó tác giả chết. Tuy nhiên, lý thuyết này ngày càng được điều chỉnh, tác
giả không chết hẳn mà vẫn thể hiện qua câu chữ, giọng điệu, không hiển hiện
bằng con người thật nhưng trong văn bản vẫn có hơi thở của từng tác giả.
Về sau, Derrida cũng cho rằng: “văn bản văn học không khép kín,
nghĩa của nó không bị trói buộc, bằng sự giúp đỡ của tác giả hay là sự liên
quan với hiện thực, văn bản văn học luôn mở, nó cần được bổ sung và tạo khả
năng bổ sung” [13, 7 ].
Như vậy, từ Mỹ học sáng tạo đến Mỹ học tiếp nhận là quá trình dần bác
bỏ tính chất khép kín của văn bản văn học. Thay vào đó là tính chất mở, dấu
ấn cá nhân và vai trò của người diễn giải, tiếp nhận. Ý nghĩa của văn bản văn
học nhờ đó ngày càng phong phú, đa dạng thêm. Có lẽ còn rất nhiều những
công trình khác của nhiều nhà nghiên cứu khác trên thế giới về lí thuyết tiếp
nhận nhưng trong phạm vi giới hạn của đề tài chúng tôi không thể trình bày
hết ở đây.
Cùng với xu hướng chung của thế giới, vào những năm 70 của thế kỉ
XX, nghiên cứu lý luận ở Việt Nam cũng bắt đầu có những quan tâm nhất
định đến tiếp nhận văn học. Rải rác trên các báo, tạp chí đã xuất hiện những
bài nghiên cứu về tiếp nhận văn học của tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh
Phan Anh Trong tập tiểu luận phê bình “Đi tìm tác phẩm văn chương”,
Huỳnh Phan Anh đã đưa ra những quan điểm nhấn mạnh đến vai trò của
người tiếp nhận: “Người đọc không chỉ là kẻ thưởng ngoạn, không chỉ làm

công việc ngợi ca, người đọc còn là kẻ sáng tạo vô danh Độc giả là kẻ, bằng
6



chính tác động đọc của mình mang đến cho tác phẩm một ý nghĩa” [ 01 ].
Những năm 80, xuất hiện các bài viết của Hoàng Trinh và Nguyễn Văn
Dân. Nhìn chung những bài viết của hai nhà nghiên cứu này đều nhấn mạnh
sự tác động của người đọc đối với văn bản và thừa nhận vấn đề tiếp nhận văn
học là vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu, nhất là đối với nền Lý luận
văn học nước ta hiện nay.
Đến thập niên 90, vấn đề tiếp nhận văn học được quan tâm, nghiên cứu
nhiều hơn. Đó là các bài viết của tác giả Nguyễn Lai: Tiếp nhận văn học –
một số vấn đề thời sự [29]; Nguyễn Thanh Hùng: Trao đổi thêm về tiếp nhận
văn học [25]. Hai bài viết này mới chỉ đặt vấn đề tiếp nhận như một cơ chế
tâm lý diễn ra trong người đọc, trong một hành động đọc cụ thể. Đó là hướng
nghiên cứu tiếp nhận nội tại nhưng cũng đánh dấu những bước quan trọng với
Lý luận văn học nước nhà giai đoạn này. Năm 1991, Nguyễn Văn Dân đã
biên soạn và giới thiệu cuốn sách “Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận”[08].
Tác giả đã đưa ra vấn đề về chủ thể tiếp nhận theo quan điểm của H.R.Jauss.
Đây là một công trình tương đối hệ thống trong việc giới thiệu lý thuyết tiếp
nhận tại thời điểm này.
Năm 1992, trên Tạp chí văn học số 1, Nguyễn Thị Thanh Thủy đề cập
đến vấn đề “Tiếp nhận văn bản văn chương trên phương diện các phạm trù
ý” [37]. Năm 1995, bà lại tiếp tục phân tích “Vai trò của kinh nghiệm thẩm mĩ
trong việc tiếp nhận tác phẩm văn chương” [38]. Năm 1993, Đỗ Đức Hiểu
cũng bàn đến việc đọc của chủ thể tiếp nhận. Ông cho rằng “Đọc trước hết là
phát hiện trong văn bản và từ văn bản một thế giới khác, những con người
khác. Người đọc sống trong thế giới tưởng tượng của mình những kỉ niệm, kí
ức, khát vọng riêng” [24].

Nhìn chung từ thập niên 90 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu, các
giáo sư, giảng viên đã chú ý quan tâm đến lý thuyết tiếp nhận trong nghiên
7



cứu và giảng dạy. Minh chứng là vấn đề này đã xuất hiện trong giáo trình văn
học. Các giáo sư, nhà nghiên cứu Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn
Hạnh, Huỳnh Như Phương đều có những bài viết về tiếp nhận văn học.
Năm 1998, trong công trình viết chung với Nguyễn Văn Hạnh, nhà nghiên
cứu Huỳnh Như Phương đã nhấn mạnh đến lập trường và sự lý giải của người
đọc. Đó là “khi nhà văn kết thúc trang viết cuối cùng của tác phẩm thì lúc đó
tác phẩm mới bắt đầu vòng đời của nó, như đứa con đã được cắt rốn khỏi
lòng mẹ. Nói cách khác, quá trình hoạt động của tác phẩm không phải là một
chu trình đóng kín mà nó mở về phía đời sống. Và đến với những tác phẩm
lớn thì cuộc đời của nó luôn ẩn chứa những khả năng mới sẽ bộc lộ khi nó
viễn du qua không gian và thời gian”. [22, 136].
Riêng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề tiếp nhận như: Mấy vấn đề tiếp nhận văn học, Lý luận tiếp nhận và
phê bình văn học, Ngôn ngữ với việc lĩnh hội tác phẩm thơ đã lý giải những
vấn đề cơ bản nhất của lý thuyết tiếp nhận.
Năm 1997, nhà nghiên cứu Phương Lựu viết cuốn “Giáo trình tiếp nhận
văn học”. Trong công trình này, ông đã chỉ ra cả ưu và nhược điểm của Mỹ
học tiếp nhận thế kỷ XX, từ đó hoạt động văn học được ông xem xét trên hai
bình diện vĩ mô và vi mô. Lý thuyết tiếp nhận còn được ông giới thiệu trong
một số công trình khác như giáo trình Lý luận văn học, Lý luận phê bình Văn
học phương Tây thế kỉ XX, Mười trường phái phê bình Văn học phương Tây.
Tuy nhiên theo nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh thì “người có thành tích
nhất trong việc giới thiệu lý thuyết này ở nước ta là Trương Đăng Dung”.
Vấn đề về lý thuyết tiếp nhận được PGS. TS Trương Đăng Dung nghiên cứu

một cách khoa học và rất hệ thống. Trong cuốn “ Từ văn bản đến tác phẩm
văn học” [10], tác giả đã đặt ra vấn đề: Tính chất mở của tác phẩm là điều
kiện quan trọng của sự thưởng thức thẩm mỹ. Ông cho rằng mỗi lần đọc là
8



một lần người đọc “vấp ngã” vào văn bản. Ở tạp chí Văn học nước ngoài số 4
– 2003, trong bài viết “Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học” ông nhấn
mạnh đến vai trò của chủ thể tiếp nhận: “Tác phẩm văn học phụ thuộc vào
những hoạt động cụ thể hóa (đọc) có chủ ý của người đọc và bản thân tác
phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hóa lý
tưởng. Sự cụ thể hóa này, mỗi người một vẻ, không giống ai. Như vậy tác
phẩm văn học là vật hai lần có ý thức” [12, 164]. Đây là một ý kiến mới so
với các công trình trước đó. Điều này cho thấy chính tính đa nghĩa và độ mở
của văn bản khiến cho những cách lý giải về nó đều có cơ hội tồn tại và trên
thực tế không thể có kết luận cuối cùng về giá trị của tác phẩm. Cũng ở bài
viết này, PGS. TS Trương Đăng Dung nhấn mạnh quan điểm: “Tác phẩm văn
học tồn tại thông qua việc người ta đọc nó và sự tác động của nó với người
đọc” [12, 164] và nêu lên hướng tiếp cận “phương thức tồn tại của tác phẩm
văn học” trên hai bình diện: Một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc
trưng văn học của văn bản; Hai là khả năng tạo lập đời sống cụ thể của văn
bản văn học qua người đọc. Để khẳng định những luận điểm trên, trước đó
ông đã dịch và giới thiệu công trình “Tác phẩm văn học” của Roman Ingarden
và công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn
học”. Mặt khác, ở Tạp chí Văn học số 3 – 2004, tác giả Trương Đăng Dung
lại có bài viết: “Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa” [14]. Như vậy, tổng
hợp các công trình nghiên cứu của PGS. TS Trương Đăng Dung, ta thấy tác
giả đã đề xuất hướng tiếp cận phương thức tồn tại của tác phẩm văn học trên
hai bình diện: “Tác phẩm văn học như là hình thức ngôn ngữ đặc trưng; Tác

phẩm văn học như là hình thức đọc đặc trưng. Trên cơ sở đó chúng ta có thể
nhìn nhận tác phẩm như là quá trình, quá trình tạo nghĩa mang tính chất
quan hệ của văn bản văn học” [09]. Đây cũng là một trong những vấn đề
quan trọng của Lý luận văn học hiện đại và hậu hiện đại. Việc tiếp cận bản
9



chất của tác phẩm văn học từ đặc trưng của văn bản và sự tạo nghĩa thông qua
người đọc đã cho thấy tác phẩm văn học không tĩnh mà luôn động, không
phải sản phẩm cố định mà là quá trình. Đây là điều quan trọng trong nghiên
cứu tác phẩm văn học. Hơn nữa, trong các công trình có bàn tới lý thuyết tiếp
nhận của tác giả Trương Đăng Dung còn có một điểm thống nhất là: đặt đối
tượng nghiên cứu trong tiến trình vận động có quy luật của tư duy lý luận văn
học và sự vận động của tư duy lý luận văn học lại được soi sáng, lý giải trên
nền tảng sự vận động của tư duy triết học và Mỹ học nhân loại thế kỷ XX.
Tất cả các công trình, bài nghiên cứu trên đây về lý thuyết tiếp nhận rất
đáng trân trọng và sẽ là những định hướng quý báu giúp chúng tôi trong quá
trình triển khai và hoàn thiện đề tài của mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp
Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp ngay từ khi mới xuất hiện đã gây ra
những tương phản dữ dội trong dư luận và hiện nay những tranh luận gay gắt
ấy vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Số lượng các bài viết về tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp rất lớn, những ý kiến đánh giá xung quanh những bài viết
ấy cũng nhiều. Sự đánh giá đa dạng ấy vô hình chung đã thừa nhận Nguyễn
Huy Thiệp là một hiện tượng văn học phức tạp và tác phẩm của ông luôn có
độ mở. Thụy Khuê trong bài viết “Sử quan trong văn Nguyễn Huy Thiệp” đã
nói “sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp gây những tương phản dữ dội trong
dư luận. Tại sao? Rất có thể vì cho đến bây giờ, người ta chưa quen với một
phong cách văn chương đa diện, đa âm như thế. Trên con đường một chiều,

bạn đi dọc ngang, đa đoan, đa dạng, là loạn Phản ứng chống đối mãnh liệt
của một số người khi những tác phẩm này xuất hiện chứng minh sự thành
công của Nguyễn Huy Thiệp và làm lộ tính chất “lừa bịp” cũng như tác dụng
hý lộng của văn chương” [27]. Năm 2001, tác giả Phạm Xuân Nguyên đã tập
hợp, biên soạn những bài viết về Nguyễn Huy Thiệp trong cuốn sách Đi tìm
10



Nguyễn Huy Thiệp [34]. Trong cuốn sách này các bài viết chủ yếu phân
thành hai luồng chính là phản đối và đồng tình. Các ý kiến phản đối một phần
do người đọc đồng nhất cái phản ánh với cái được phản ánh. Mặt khác, trong
thời điểm văn học đã đổi mới, cách tân rất nhiều thì họ vẫn dùng nhãn quan
một chiều, thụ động, định kiến để đánh giá tác phẩm nên không thể tránh khỏi
những hạn chế. Còn những ý kiến đồng tình xoáy sâu vào những mới mẻ,
những sáng tạo trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp và đưa ra những khám
phá rất ý nghĩa. Bài viết tiêu biểu là “Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua
một cuộc tranh luận” của GS Đặng Anh Đào. Bên cạnh việc đánh giá các giá
trị tác phẩm còn bước đầu nêu lên lí do cụ thể khiến cho truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp có nhiều tranh cãi là “Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra một cái hẫng
giữa phát và nhận. Lối viết đa âm đụng phải lối đọc thánh thư” và thế là
không cùng “sóng” nên gây tranh cãi. Cũng trong bài viết này tác giả còn
khẳng định “tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp do sức mạnh gợi mở ra bên ngoài
cuộc đời quá, do thức dậy quá nhiều liên tưởng, nên mọi người đều gán cho
nó sự liên tưởng của mình và sinh ra cãi nhau. Những người ưa đọc thánh thư
bực mình vì muốn tìm câu phán của nhà văn, có khi lại gắn nhầm, cho rằng
nhà văn đã phán láo. Ngược lại, người đọc thiên về trí tuệ đã phản đối cách
đọc ấy, gây nên độ căng của cuộc tranh luận khó dứt, và cũng khẳng định đổi
mới của thị hiếu hiện nay” [34]. Ngoài ra, trong bài viết “Khi ông Tướng về
hưu xuất hiện”, bà đã nêu ra lối tiếp nhận cũ từ trong truyền thống và lối tiếp

nhận mới của người đọc khi họ đem chúng ra để xem xét truyện ngắn này.
Đọc Tƣớng về hƣu mà người đọc tự tạo ra một khoảng cách để nhìn nhận
vấn đề trước lối viết thản nhiên và trung hòa của nó, ấy là cách đọc mới.
Ngược lại, bạn đọc đọc Tƣớng về hƣu theo trật tự tuyến tính, tìm xem nhân
vật nào là chính diện, nhân vật ấy trừng trị cái ác như thế nào? Và tiếng nói
của nhân vật đó chính là tư tưởng của tác phẩm, ấy là cách đọc cũ. GS Đặng
11



Anh Đào cho rằng với Tướng về hưu “không thể đọc trên một dòng chữ, một
đoạn mạch, mà là ở sự khái quát của người đọc” [34]. Ý kiến của bà đã đề
cập đến một vấn đề quan trọng của lý thuyết tiếp nhận, đó là: yếu tố “văn
bản” và “cách đọc” đã đem đến cho người tiếp nhận những kết quả khác nhau
khi cùng tiếp cận một tác phẩm.
Tác giả Thái Hòa trong bài viết “Có nghệ thuật Ba-rốc trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp hay không” cũng đã bày quan điểm của mình về vấn
đề tiếp nhận của người đọc, nhưng ông đề cập đến phương diện nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả Thái Hòa cho rằng “nhân vật
của Nguyễn Huy Thiệp mang sức tải của một quan niệm sống, quan niệm xử
thế với người đời Những quan niệm khác nhau va chạm, xung đột, bùng nổ
Và chính khi người đọc phản ứng mạnh mẽ với Nguyễn Huy Thiệp, tức cũng tự
trình bày một cách hiểu, một quan niệm về cuộc sống, về văn chương nghệ
thuật” [34]. Ý kiến của tác giả Thái Hòa cho thấy các quan điểm khác nhau khi
đánh giá về nhân vật nói riêng và tác phẩm văn học nói chung, thể hiện tinh
thần dân chủ trong tiếp nhận và sự phong phú trong cảm thụ văn học.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong bài viết “Đọc văn phải khác với
đọc sử” [34] cũng cho bạn đọc thấy một vấn đề quan trọng khi tiếp cận tác
phẩm văn học, ấy là “cách đọc”. Văn chương được quyền hư cấu nên nó khác
xa với các công trình sử học. Ngoài ra, ông còn đề cập đến yếu tố văn bản, đó

là sự lự chọn kết thúc mở trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến những cách hiểu không giống nhau từ phía
người đọc. Khi nói về truyện ngắn Vàng lửa, tác giả viết “Ba đoạn kết dự
kiến do vai tôi tạo ra làm cho câu chuyện trở nên bất định, có thể thế này
hoặc thế kia. Nhưng sự bất định của các chi tiết sự kiện lại một lần nữa đánh
thức cách nhìn chủ động, xác định ở từng người đọc” [34,182]. Và ông còn
khẳng định “muốn tôn trọng người đọc với sự nhận thức rất độc lập của họ thì
12



nên để họ tự xác lập lấy các nhận định của họ” [34,183].
GS Đỗ Đức Hiểu, xuất phát từ quan điểm Thi pháp học, trong quá trình
“đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” đã nhận thấy một số tác phẩm văn học thế kỷ XX
rất khó đọc, khó hiểu, trong đó có tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Do đó,
“người đọc không còn thụ động thưởng thức tác phẩm văn học mà trở thành
người đọc tích cực: đọc là một cuộc phiêu lưu giữa văn bản ngôn từ người
đọc phải từ bỏ lối đọc truyền thống và phải rèn luyện cách đọc tích cực, tức
là phải khám phá, phải cùng nhà văn sáng tạo” [34, 477]. Ý kiến này của nhà
nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã dần đưa chúng ta tiếp cận với một lý thuyết văn
học quan trọng của nhân loại cuối thế kỷ XX: Lý thuyết đọc.
Tác giả Văn Giá trong bài viết “Bàn thêm về Vàng lửa của Nguyễn Huy
Thiệp” đã nhận xét về cách kết thúc “mở” trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp: “Một số truyện ngắn gần đây của Nguyễn Huy Thiệp không có kết thúc
rành mạch theo những phương pháp dễ dãi. Anh luôn đưa ra những giả định có
thể thế này, thế kia, thế khác nữa, hối thúc người đọc suy nghĩ tự tìm ra lối kết
thúc theo lối riêng của mình, không cho phép biếng lười, ăn sẵn. Nhìn rộng
hơn, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tầng ý nghĩa được nén lại trong
sự trình bày kiệm lời. Một số nhận vật của anh ta là những ẩn dụ đa nghĩa” [34,
205]. Nhận xét này có liên quan đến yếu tố “văn bản” và yếu tố đồng sáng tạo

của “người đọc”, là những vấn đề quan trọng của lý thuyết tiếp nhận.
Ngoài ra, cũng có một số luận văn động chạm, đề cập đến tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp như luận văn thạc sĩ Nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Huy thiệp của tác giả Nguyễn Thị Lan, ĐHSP Hà Nội 2, luận văn thạc sĩ
Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của tác giả Trần Thị
Diễm Hằng, ĐHSP Hà Nội 2.
Tất cả những bài viết, luận văn, các công trình nghiên cứu trên đã có
những đóng góp nhất định trong việc tìm hiểu cũng như khẳng định vị trí của
13



Nguyễn Huy đối với văn học Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay chưa có bài viết
hay luận văn nào đi sâu vào tìm hiểu quá trình tiếp nhận và những giới hạn trong
tiếp nhận sáng tác của nhà văn này một cách cụ thể và hệ thống. Bởi lẽ đó, với
đề tài “Giới hạn của sự diễn giải văn bản văn học qua lịch sử tiếp nhận sáng
tác Nguyễn Huy Thiệp”, chúng tôi sẽ tập trung làm sáng rõ vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi giới thiệu sự xuất hiện của Nguyễn Huy
Thiệp như một hiện tượng mới và lạ. Đồng thời khảo sát các ý kiến đánh giá
của các nhà nghiên cứu, phê bình về sáng tác của cây bút này, từ đó thấy được
các cách tiếp nhận khác nhau về tác phẩm của ông.
Qua đề tài “Giới hạn của sự diễn giải văn bản văn học qua lịch sử
tiếp nhận sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp”, chúng tôi sẽ lí giải những
nguyên nhân cụ thể tại sao xung quanh sáng tác của nhà văn này lại có nhiều
ý kiến khen chê, trái chiều gay gắt như vậy. Từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn
khách quan về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp.
Đồng thời, đề tài này cùng với các công trình, bài viết, nghiên cứu
trước đó góp phần khẳng định lại những đóng góp quan trọng của Nguyễn
Huy Thiệp vào quá trình đổi mới Văn học Việt Nam.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm của văn bản
và sự diễn giải văn bản văn học. Lấy đó làm cơ sở soi sáng những giới hạn của
việc tiếp nhận văn học với trường hợp cụ thể là truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi tập trung vào Truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, NXB Hội nhà văn, Tái bản năm 2005
Ngoài ra, chúng tôi có khảo sát thêm một số tác phẩm khác của Nguyễn
Huy Thiệp và một số tác giả cùng thời để làm sáng rõ vấn đề của mình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên
14



cứu cơ bản như sau:
Phương pháp hệ thống
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp khảo sát, thống kê
Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Tư duy lí luận văn học hiện đại về bản chất của văn bản
văn học.
Chương 2: Văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới và sự xuất hiện của
Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Những giới hạn trong tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp
7. Đóng góp của luận văn
Với đề tài này, chúng tôi khảo sát quá trình tiếp nhận sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp để từ đó thấy được những giới hạn trong quá trình tiếp

nhận và những nguyên nhân dẫn đến giới hạn của sự diễn giải văn bản văn
học ấy. Từ đó có cơ sở để nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về một
tác giả đang được đánh giá là có những đóng góp quan trọng với văn học Việt
Nam đương đại.
Cùng quá trình nghiên cứu, luận văn cũng muốn khẳng định: lịch sử
văn học không đơn giản là con số cộng của các tác giả và tác phẩm mà còn
được hiểu là các tác phẩm với người tiếp nhận trong những chuyển biến lịch
sử của nó. Tác phẩm văn học không phải là sản phẩm cố định mà là quá trình
tạo nghĩa không ngừng thông qua người đọc. Bởi lẽ đó, luận văn này một phần
có tác dụng định hướng cho người đọc cách tiếp nhận đúng đắn một tác phẩm
văn học để thực sự thưởng thức được những giá trị đích thực, tích cực của nó.
15



CHƢƠNG 1
TƢ DUY CỦA LÍ LUẬN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VỀ
BẢN CHẤT CỦA VĂN BẢN VĂN HỌC

Trong tư duy của Lí luận văn học truyền thống, bản chất của văn bản
văn học được xem xét trong hai mối liên hệ chủ yếu: thứ nhất là mối liên hệ
giữa văn bản và hiện thực, thứ hai là mối liên hệ giữa văn bản và tác giả.
Trước hết, mối liên hệ giữa văn bản và hiện thực đã có nền móng từ thuyết
mô phỏng của Socrate (469 – 399 TCN), coi con người là trung tâm của mọi
sự chú ý. Đến Aistote, khi bàn về nghệ thuật, ông xem nó là sự bắt chước, mô
phỏng, phản ánh hiện thực. Như thế việc sáng tạo ra tác phẩm chỉ là sự mô
phỏng lại dạng thái và quá trình của sự vật, là sự cụ thể hóa những quy tắc có
trước. Chính điều này đã hình thành một truyền thống văn học với những tác
phẩm được gọi là cổ điển, mẫu mực nhưng đồng thời cũng làm hạn chế sự
sáng tạo của tác giả và vai trò đồng sáng tạo của người đọc. Từ nguyên tắc bắt

chước, mô phỏng của Aistote, mối quan hệ giữa văn học và hiện thực được
xác lập. Đây là một hướng tiếp cận bản chất của văn bản văn học đã từng tồn
tại trong lịch sử và được xem như yếu tố cơ bản trong hệ thống tư duy Lí luận
văn học truyền thống. Trong mối liên hệ giữa văn bản văn học và tác giả thì
quan niệm văn bản tác phẩm văn học là nơi để chuyển tải tư tưởng, tâm sự và
thông điệp của nhà văn cũng đã trở thành một truyền thống trong tư duy văn
học. Mối quan hệ nhân quả trong quan niệm này đã chi phối đến cách nhìn tác
phẩm văn học trong một thời kì dài. Điều đó cho thấy Lí luận văn học và mĩ
học truyền thống đã tiếp cận tác phẩm văn học trước hết bằng con đường tìm
hiểu tác giả mà không xuất phát từ phía chủ thể tiếp nhận.
Trong quan niệm truyền thống, văn bản – tác phẩm văn học như là một
16



vật phụ thuộc trong quan hệ với hiện thực, tác giả, bởi lẽ đó nghiên cứu văn
học chủ yếu căn cứ vào những yếu tố ngoài văn học như hiện thực, thời đại,
tiểu sử tác giả…Tựu chung lại, trong tư duy Lí luận văn học truyền thống,
điều quan trọng không phải là phương thức tồn tại của tác phẩm mà là vấn đề
tác phẩm đã ra đời như thế nào.
Từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tư duy Lí luận văn học hiện đại đã
có những khám phá rất mới mẻ và tiến bộ về phương thức tồn tại cũng như
bản chất của văn bản văn học. Cùng với sự hình thành và phát triển của khoa
học văn học từ cuối thế kỉ XIX, ở châu Âu, Lí luận văn học ngày càng có vị
trí quan trọng trong hệ thống các khoa học văn học. Trải qua hơn một thế kỉ,
tư duy Lí luận văn học hiện đại đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi
nhận trong việc khám phá bản chất của văn bản văn học. Từ cuối thế kỉ XIX
trở đi, Lí luận văn học không còn chỉ là sự “bàn luận văn chương” mà vượt
lên trên điều đó, Lí luận văn học xuất hiện như là hệ quả trong sự phát triển
của văn học. Trong quá trình lịch sử, đã có những thay đổi trong sự tồn tại của

tác phẩm văn học, chính sự thay đổi này đặt ra yêu cầu mới liên quan đến các
phương pháp chiếm lĩnh tác phẩm văn học, tạo nên sự cần thiết phải đổi mới
tư duy Lí luận văn học. Sự đổi mới ấy trước hết từ thành tựu Lí luận của các
nước phương Tây và từng bước được vận dụng, giới thiệu vào hệ thống Lí
luận văn học Việt Nam.
1.1. Về bản chất của ngôn ngữ
Lí luận văn học tiền hiện đại quá coi trọng yếu tố tác giả, coi trọng
khám phá ý đồ sáng tạo của tác giả. Vì vậy trong quan điểm truyền thống, tác
phẩm được đồng nhất với thế giới tư tưởng của nhà văn, bị chi phối bởi hệ tư
tưởng của nhà văn. Việc đọc tác phẩm trong quan niệm truyền thống gắn bó
mật thiết với những ý tưởng của người sáng tác. Bước sang thế kỉ XX, nhiều
thành tựu lớn của Lí luận văn học ra đời. Thành tựu của khoa học xã hội nhân
17



văn cũng cho thấy không thể tin cậy tuyệt đối vào năng lực phán đoán chủ
quan của con người trước các đối tượng. Tư duy lí luận văn học hậu hiện đại
lại có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học
trong mối quan hệ với các yếu tố khác và trong mối quan hệ với người tiếp
nhận. Chính điều này chứng tỏ những quan niệm truyền thống về tác phẩm
văn học trong Lí luận văn học đã không còn phù hợp nữa. Một số lĩnh vực
khoa học xã hội như: Ngôn ngữ học, Cấu trúc luận, Hiện tượng luận, Kí hiệu
học, Lí thuyết thông tin, Tường giải học, Tâm lí học…đã có những thành tựu
nhất định làm cơ sở tiền đề cho những kiến giải mới của nhiều trường phái Lí
luận ở thời kì hiện đại xuất hiện. Bởi thế có thể nói thế kỉ XX đánh dấu một
bước chuyển mới của Lí luận văn học.
Từ đầu thế kỉ XX, vấn đề tác phẩm được đặt ra dưới luồng ánh sáng
mới. Không thể không nhắc đến vai trò của Fedinand de Saussure (1857 –
1913) với sự ra đời của lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Đây được coi là sự

đột phá đối với khoa học văn học nói chung và Lí luận văn học nói riêng.
Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ học hiện đại đã có ảnh hưởng rất lớn đến
các khoa học xã hội và nhân văn. Một số luận điểm cơ bản của Fedinand de
Saussure đã được nhiều nhà nghiên cứu đồng tình và vận dụng như: Thứ nhất,
ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu, được tạo nên bởi sự kết hợp giữa hai mặt “cái
biểu đạt” và “cái được biểu đạt”. Quan hệ giữa chúng là quan hệ quy ước, võ
đoán, dựa trên sự cảm nhận chủ quan của con người chứ không tồn tại trong
bản thân sự vật. Thứ hai, ý nghĩa của từ ngữ mang tính chất quan hệ. Thứ ba,
chính ngôn ngữ cấu tạo nên những khái niệm giúp con người cảm nhận về thế
giới hiện thực, vì vậy ngôn ngữ mới là nhân tố căn bản cấu tạo hiện thực chứ
không phải đóng vai trò ghi nhận hiện thực.
Lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại của Fedinand de Saussure đặt trọng
tâm nghiên cứu ở phương diện đồng đại, ở cấu trúc và tính hệ thống của ngôn
18



ngữ, giải thích sự hình thành và duy trì ý nghĩa cùng những chức năng liên
quan đến cấu trúc ngữ pháp. Ý nghĩa của kí hiệu chỉ nảy sinh trong mối quan
hệ với các kí hiệu khác, chính cấu trúc và các mối liên hệ đã tạo nên ý nghĩa
của từ. Ngôn ngữ cấu tạo nên khái niệm vì vậy ngôn ngữ là nhân tố căn bản
cấu tạo hiện thực, sáng tạo ra tư tưởng chứ không phải chỉ đóng vai trò ghi
nhận hiện thực một cách thụ động như quan niệm truyền thống. Từ đây chúng
ta ý thức được ngôn ngữ không chỉ là “công cụ của tư duy”, là cầu nối trung
gian giữa con người và hiện thực mà còn có khả năng “kiến tạo thế giới”. Cũng
bắt đầu từ đây, trung tâm chú ý của văn học chính là cấu trúc ngôn ngữ. Những
thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại cùng với các kết quả nghiên cứu của các
khoa học khác như cấu trúc luận, kí hiệu học đã mang lại cho khoa học văn học
những phương thức mới trong quá trình khám phá bản chất tác phẩm văn học.
Để có một tư duy hướng về chủ thể tiếp nhận trong quan hệ với tác phẩm

văn học thì bước đầu tiên quan trọng nhất là việc phát hiện ra vai trò của văn
bản. Khoa học văn học hiện đại đã tách tác phẩm văn học ra khỏi tác giả và loại
bỏ những gì liên quan đến mối quan hệ nhân quả trong tư duy Lí luận văn học
tiền hiện đại. Chỉ còn lại tác phẩm văn học như là hình thức ngôn ngữ đặc trưng,
là hiện tượng ngôn ngữ. Nghiên cứu tác phẩm văn học giờ đây không phải chỉ
theo lối suy diễn, thông qua các hiện tượng ngoài văn học mà xem nhẹ các đặc
trưng nghệ thuật của tác phẩm. Có thể nói “ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ”
thời hiện đại cũng đã xác lập những quan điểm nghiên cứu văn học. Nhiều nhà
hình thức chủ nghĩa đã thâm nhập sâu vào bản thể văn học qua những yếu tố
hình thức cấu thành nên tác phẩm như: chất liệu, thủ pháp, hình thức…của văn
bản văn học. Nhiều tên tuổi cũng như nhiều trường phái Lí luận văn học dựa vào
tính ngôn ngữ để đề cao tính kí hiệu, phủ nhận tính phản ánh, khẳng định không
gian ngôn ngữ và quyền tự trị ngữ nghĩa của văn bản văn học. Việc xem tác
phẩm như một đối tượng độc lập, tập trung khám phá những quy luật bên trong
19



vào ngôn ngữ, vào cấu trúc, thủ pháp để tìm ra ý nghĩa tác phẩm. Nhưng ở mỗi
tác giả, mỗi trường phái lại có những cách lí giải riêng của mình.
1. Edmund Husserl, người sáng lập triết học hiện tượng học, chỉ nhìn
thấy vai trò thứ yếu của ngôn ngữ trong hoạt động nắm bắt một hiện tượng
nhất định nào đó của con người. Theo ông hoạt động nắm bắt một hiện tượng
nào đó được thực hiện độc lập với ngôn ngữ. Ngôn ngữ chỉ là hoạt động thứ
hai, nó đặt tên cho cái mà bằng cách nào đó chủ thểđã tri giác được từ trước.
Ngôn ngữ, theo Husserl, như một thứ vỏ bọc dùng để giữ lại các nghĩa được
hình thành độc lập với nó. Nghĩa của tác phẩm văn học, do đó chỉ là cái mà
tác giả có chủ định từ đầu, nó thuộc về ý thức chủ quan hơn là về ngôn ngữ.
Theo quan điểm này, nghĩa của một tác phẩm văn học chỉ có một lần, nó đồng
nhất với cái “khách thể ý thức” mà trong khi viết nhà văn có ý hướng tới. Do

đó, có thể có nhiều sự diễn giải một văn bản văn học nhưng tất cả đều phải
nằm trong hệ thống mà nghĩa chủ ý của tác giả quy định. Tức tác phẩm văn
học chỉ có một nghĩa mà thôi.
Đến các quan điểm triết học của M. Heidegger đã đáp ứng được cái
nhìn mới về ngôn ngữ. Trong công trình “Trên đường đến với ngôn ngữ”
được nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung dịch ra tiếng Việt, M.Heidgger đã
gọi “ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu thể”. Theo ông, ngôn ngữ không chỉ là
công cụ giao tiếp, mà cao hơn thế, nó có khả năng tạo lập đời sống. Nếu
Husserl chỉ xem ngôn ngữ là công cụ thứ yếu dùng để thể hiện các ý tưởng có
sẵn, thì Heidegger xem ngôn ngữ là nơi mà đời sống con người diễn ra, là cái
đầu tiên tạo ra thế giới. Heidegger cho rằng ngôn ngữ là sự kiện có đẳng cấp
cao nhất của sự tồn tại của con người, ông không xem ngôn ngữ chỉ là sự thể
hiện của một chủ thể. Khác với E.Husserl, M.Heidegger không nghi ngờ tổ
chức nghĩa của một ngôn ngữ mang tính xã hội. Khi ông cho rằng lời nói
không chỉ hoàn toàn là các kí hiệu, lời nói có hai mặt: hướng đến người nào
20



đó và đặt điều kiện cho người đó phải nỗ lực hướng về sự hiểu, chính là ông
đã gợi ý những ý tưởng quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề nghĩa và sự
tạo nghĩa của văn bản thông qua người đọc. Do quan niệm như vậy về ngôn
ngữ, Heidegger cho rằng, sự diễn giải văn chương không tùy thuộc vào tính
năng động của người đọc. Tác phẩm văn học là cái mà người đọc để cho nó
xảy ra nhờ văn bản. Người đọc đứng trước văn bản văn học như là trước mê
cung của thế giới ngôn từ đầy bí ẩn. Heidegger gọi triết học của mình là “sự
minh giải Hữu thể”. Chính vì vậy, người ta gọi hình thức triết học của
Heidegger là “hiện tượng học giải thích” để phân biệt với “hiện tượng học
siêu nghiệm” cuả Huserl. Cũng trong công trình dịch của Trương Đăng Dung
“Trên đƣờng đến với ngôn ngữ” viết năm 1959, với sự đổi mới ngôn ngữ

triết học, Heideggerđã nêu lên một số vấn đề quan trọng là “sự hòa trộn giữa
tồn tại và ngôn ngữ trong nhau”. Quan điểm này được một nhà tường giải triết
học lớn người Đức tên là Hans Georg Gadamar tiếp tục phát triển trong công
trình nghệ thuật nổi tiếng “Chân lí và phƣơng pháp”.
H.G.Gadamar đã có bước đi quan trọng trong việc tạo ra khái niệm
ngôn ngữ tường giải học và trong việc phê phán những quan điểm của các lí
thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Trong công trình triết học - nghệ thuật “Chân lí
và phƣơng pháp” (1964) Gadamarđã dành trọn cả phần III có tựa đề “Bước
ngoặt bản thể của tường giải học” để nghiên cứu về ngôn ngữ với các tiểu mục:
1. Ngôn ngữ như là vùng kinh nghiệm tường giải học
2. Sự hình thành khái niệm ngôn ngữ trong lịch sử tư duy châu Âu
3. Ngôn ngữ như là chân trời bản thể tường giải học
H.G.Gadamar đã bác bỏ quan niệm công cụ về ngôn ngữ, ông viết:
“Người diễn giải không sử dụng lời nói và các khái niệm như người thợ thủ
công sử dụng các công cụ của mình”. Theo Gadamar, lời nói không phải là
sản phẩm của hình thức tâm linh nào đó, nó không phải những sở hữu của
21



năng lực nhận thức, lời nói là những cái bên ngoài, là tiên nghiệm. Gadamar
cho rằng không phải con người tìm ra, tạo ra lời nói mà là lời nói tìm thấy
chúng ta. Ngôn ngữ không phải là công cụ mà là một hiện tượng, một quá
trình vừa liên quan đến quá khứ vừa đi trước vào tương lai. Gadamar cũng
nhấn mạnh rằng ngôn ngữ không phải là công cụ để chúng ta thể hiện một cái
gì đó mà là nơi để chúng ta tồn tại. Mọi yếu tố kí hiệu và sử dụng kí hiệu
đềuđược nhìn nhận trong tinh thần đó. Nhờ lời nói chúng ta mới chuyển dịch
được vào thế giới, vào các tình huống của tồn tại. Nhờ ngôn ngữ mà con
người có thế giới của mình. Mối quan hệ giữa thế giới và ngôn ngữ là tương
hỗ, thế giới là thế giới nhờ ngôn ngữ, còn ngôn ngữ là ngôn ngữ nhờ thế giới

thể hiện trong nó. Điều này không có nghĩa là ngôn ngữ thể hiện thế giới mà
là ngôn ngữ tồn tại thông qua thế giới và thế giới tồn tại trong tính chất ngôn
ngữ. Nói một cách khái quát, thế giới là cái tương đồng của ngôn ngữ và ngôn
ngữ là cái tương đồng của thế giới. Ngôn ngữ và thế giới là những hiện tượng
tiên nghiệm, vượt lên cá nhân, trong quá trình hiểu một cái gì đó thì chúng ta
mới đến được với chúng, sự tồn tại của chúng ta mới hiện hữu trong chúng.
2. Liên quan đến cái nhìn mới về ngôn ngữ, không thể không nói tới
trường phái hình thức Nga với các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ của
các nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi thời đó. Ra đời trong những năm đầu thế kỉ XX,
trường phái hình thức Nga được coi là trường phái mở đầu cho tiến trình hiện
đại hóa Lí luận văn học. Sự xuất hiện của trường phái này như một sự phủ định
đối với chủ nghĩa chủ quan trong mĩ học truyền thống và cũng chính là hệ quả
tất yếu của tư duy lí luận thế kỉ XX trước những đổi mới của thời đại.
Trong các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ, các nhà ngôn ngữ
học đã có những nỗ lực lớn trong việc khám phá bản chất của chất liệu văn
học, từ đó có cái nhìn đúng về bản chất của tác phẩm văn học và sự tiến triển
của văn học. Như là cấu trúc ngôn từ động, văn bản là tập hợp các kí hiệu

×