Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Lượng và chất trong hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.34 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỐ LƯỢNG
VÀ CHẤT LƯỢNG TRONG HÓA
HỌC
NHDKH : TS. Nguyễn Ngọc Khá
TS. Nguyễn Chương Nhiếp
HVCH : Nguyễn Thị Thanh Thủy
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học
Bộ môn hóa học
Khóa : 25
Thành phố Hồ Chí Minh 02/2015
MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Sự vận động của vật chất, tức là “sự biến đổi nói chung” là kết quả của sự tác động và phát
triển của các mâu thuẫn, một khi mâu thuẫn được giải quyết có nghĩa là có một chất lượng
mới được ra đời, có riêng ngay từ đầu những mâu thuẫn của mình. Điều đó có nghĩa là sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập là nội dung bên trong của sự chuyển hóa chất lượng cũ thành
chất lượng mới. Cơ chế của quá trình trên, là sự chuyển hóa từ những thay đổi về số lượng
thành sự thay đổi về chất lượng, loại bỏ cái cũ và sinh ra cái mới, đã được phát hiện trong
một quy luật khác của phép biện chứng, quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất và ngược lại. Quy luật này cho biết phương thức của sự vận
động và phát triển và được thể hiện rõ nét nhất trong hóa học. Chính vì thế, Ăng-ghen đã
viết: " Người ta có thể gọi hóa học là khoa học của sự biến đổi về chất của vật thể sinh ra
do sự thay đổi về thành phần số lượng".
Hóa học có liên hệ đặc biệt chặt chẽ với các phạm trù chất và lượng, với sự nghiên cứu
Triết học về phép biện chứng của những mối quan hệ giữa các phạm trù đó. G.Hê-ghen


cũng đã dựa vào những dữ kiện hóa học khi lập luận về những phạm trù này. "Không phải
ngẫu nhiên mà Ăng-ghen đã nhấn mạnh lĩnh vực hoá học là lĩnh vực trong đó quy luật của
tự nhiên do Hê-ghen tìm ra đã đạt được những thắng lợi rực rỡ nhất" .
Đó là điều tất nhiên, vì đối tượng của khoa học hóa học chính là nghiên cứu những hiện
tượng, qua đó có xảy ra sự biến đổi chất của các chất hóa học, tức là những quá trình biến
đổi các chất hóa học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: phương thức của sự vận động và phát triển trong vận động
hóa học.
- Phạm vi nghiên cứu: quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi
về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật vào trong hóa học.
3. Mục đích nghiên cứu
Để có tri thức đúng cũng như hiểu rõ hơn bản chất của của các chất, các phản ứng hóa
học cũng như các quá trình hóa học. Vận dụng quy luật sự chuyển hóa từ sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại để từ việc biết cấu tạo suy ra các tính chất,
đồng thời giải thích được nhiều hiện tượng hóa học. Tránh suy nghĩ rập khuôn, máy móc,
không hiểu được bản chất của các quá trình hóa học. Đồng thời cũng góp phần vào nhận
thức thực tiễn khách quan, tránh những tư tưởng mang tính tả khuynh, hữu khuynh.
4. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại
- Nghiên cứu các tài liệu về phương thức của sự vận động và phát triển
- Nghiên cứu các tài liệu phù hợp với quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng
thành sự thay đổi về chất và ngược lại để từ đó đưa ra được đặc điểm tác động và phương
thức của nó trong hoá học.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích và tổng hợp tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Tìm kiếm các tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài
- Tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, bạn bè.

6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài mục lục, phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận
được chia làm thành 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận
• Phạm trù chất và lượng trong triết học.
• Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất (Mối quan hệ biện
chứng giữa lượng và chất).
Chương 2. Quy luật sự chuyển hóa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại trong hóa học.
• Tính đặc thù của việc thể hiện quy luật trong hóa học.
• Các bước nhảy vọt trong hóa học
• Tính có nhiều chất lượng trong hóa học
Chương 3. Kết luận.
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Về phạm trù chất và lượng:
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có mặt chất và mặt lượng. Theo quan điểm duy vật biện chứng
thì:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật và
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái
khác.
Trong thế giới có vô vàn các sự vật và hiện tượng, mỗi sự vật và hiện tượng đều có một chất
riêng. Và mỗi sự vật và hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất tùy theo
những quan hệ cụ thể. (ta sẽ làm sáng tỏ hơn quan điểm này trong việc xác định chất của
một chất hóa học hay một quá trình biến đổi hóa học trong phần (3).
Khái niệm chất nói trên cũng không đồng nghĩa với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật và
hiện tượng đều có nhiều thuộc tính, có những thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính này không tham gia vào việc qui định chất như nhau. Chỉ những thuộc
tính nào là thuộc tính cơ bản mới nói lên chất của sự vật và hiện tượng, bởi vì trong quá
trình vận động và phát triển của sự vật, những thuộc tính không cơ bản có thể sẽ thay đổi,

mất đi hoặc sinh thêm nhưng chất nói chung của sự vật và hiện tượng vẫn chưa thay đổi.
Chỉ khi nào những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi.
Trong tự nhiên và trong xã hội có không ít sự vật mà nếu xét riêng về các yếu tố cấu thành,
chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất. Ví dụ kim cương và
than chì tuy đều do cacbon tạo thành nhưng lại có sự khác biệt rất căn bản: kim cương thì
rất cứng, không dẫn điện, Còn than chì thì giòn và dẫn điện, Sự khác nhau về chất ấy
được quyết định bởi phương thức liên kết khác nhau của các nguyên tử cacbon trong mạng
tinh thể kim cương và than chì.
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính qui định vốn có của sự vật biểu thị số lượng, qui
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc
tính của nó.
Lượng của sự vật nói lên kích thước dài hay ngắn, qui mô to hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều,
trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt,…
Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ thể và chính xác
như chiều dài, khối lượng ,…
Ví dụ: Điện tích electron bằng 1,6.10
19
C, một phân tử metan gồm 4 nguyên tử hidro và 1
nguyên tử cacbon.
Cũng như chất của sự vật, lượng của sự vật cũng mang tính khách quan. Trong sự tồn tại
khách quan của mình, sự vật có vô vàn chất, do đó nó cũng có vô vàn lượng. Tuy nhiên,
chất và lượng là hai mặt qui định lẫn nhau, không thể tách rời; một chất nhất định trong sự
vật có lượng tương ứng của nó.
Ví dụ: sự khác nhau về chất (trạng thái) của nước ở thể lỏng và nước ở thể hơi được qui
định bởi lượng là nhiệt độ, sự khác nhau giữa metanol (CH
3
OH) và etanol (C
2
H
5

OH) được
qui định bởi lượng là số nguyên tử cacbon và hidro tạo nên phân tử các chất đó. Sự biến đổi
tương quan giữa chất và lượng tạo nên tiến trình phát triển của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tùy theo từng mối quan hệ
mà xác định đâu là chất, đâu là lượng của sự vật. Có cái trong mối quan hệ này nó là chất,
nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại. Ăng-ghen viết:” con số là một
sự qui định về số lượng thuần tuý nhất mà chúng ta được biết. Nhưng nó cũng đầy rẫy
những sự khác nhau về chất lượng 16 không chỉ là tính cộng của 16 đơn vị mà nó còn là
bình phương của 4, tứ thừa của 2".
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất (Mối quan hệ biện
chứng giữa lượng và chất).
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát
triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn
ra độc lập đối với nhau, trái lại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất
kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản bản chất của sự vật.
Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một khoảng giới hạn nhất định mà không làm thay
đổi căn bản chất của sự vật. Chẳng hạn, khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước
với tư cách là những chất khác nhau, ứng với chất - trạng thái đó, lượng ở đây là nhiệt độ,
thì dù lượng thay đổi trong phạm vi khá lớn (nhiệt độ từ 0
o
C đến 100
o
C), nước vẫn ở trạng
thái lỏng (ở áp suất 1 atm), tức là chưa thay đổi về chất - trạng thái. Sự thay đổi của lượng
chưa dẫn tới sự thay đổi của chất trong những giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó làm
cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ mà trong đó, sự thay
đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là độ.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng
giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Trong ví dụ vừa nêu ở trên, sự thống nhất giữa trạng thái lỏng của nước và nhiệt độ trong

khoảng từ 0
o
C đến 100
o
C (với điều kiện là nước nguyên chất và áp suất là 1 atm) là độ tồn
tại của nước ở trạng thái lỏng.
Nếu nhiệt độ của nước giảm tới 0
o
C và được duy trì ở nhiệt độ đó thì nước từ trạng thái lỏng
chuyển sang trạng thái rắn, tức là thay đổi về chất.
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật
được gọi là điểm nút. Trong ví dụ về chất - trạng thái của nước được nêu trên, 0
o
C và 100
o
C
là điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời chất mới. Sự thống nhất giữa
lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy, có thể hình dung sự phát
triển dưới dạng một đường nút của những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nói
cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học được dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về
chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau khi ra
đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi qui mô
tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
CHƯƠNG 2: QUY LUẬT SỰ CHUYỂN HÓA SỰ THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong hóa học:
Khi nêu lên đặc tính của quy luật chuyển hóa từ số lượng thành chất lượng với tính cách là

một quy luật chung của sự phát triển Ănghen đã viết: “Trong tự nhiên, những sự thay đổi về
chất-được thực hiện một cách hoàn toàn xác định- chỉ xảy ra bằng cách tăng thêm hoặc
giảm bớt về số lượng vật chất và vận động (gọi là năng lượng)”. Tác dụng của quy luật này
được thể hiện trong hóa học với những hình thái đặc biệt. Như đã biết, bản chất của các
phản ứng hóa học thể hiện ra ở sự sắp xếp lại các mối liên kết hóa học, ở việc xây dựng lại
cấu trúc phân tử hoặc cấu trúc cao phân tử. Khi đó hình thành phân tử và các tiểu phân mới
và do đó các chất mới được tạo thành. Thực nghiệm cho thấy rằng sự tạo thành những chất
khác nhau về chất lượng là kết quả của sự thay đổi cấu tạo hóa học, thường là sự thay đổi
thành phần của chúng. F.Ănghen đã chú ý đến điều này, khi nói về sự khác nhau về chất
lượng trong tự nhiên ông đã vạch ra rằng tất cả mọi sự khác nhau đó đều đặc biệt có cơ sở ở
“thành phần hóa học khác nhau”.
Thuyết cấu tạo hóa học làm sáng tỏ quá trình phát sinh và chuyển hóa của chất. Thuyết này
cho thấy rằng khi các nguyên tử kết hợp với nhau thành phần của chúng ảnh hưởng tương
hỗ đến nhau và do đó có thay đổi ở mức độ nhất định, do đó phân tử không phải một tổng số
đơn thuần các nguyên tử như các nhà hóa học máy móc đã nghĩ, phân tử là một tổ chức đặc
biệt về chất. Việc khám phá ra bản chất hiện tượng đồng phân trên quan điểm thuyết cấu tạo
hóa học này cũng cho thấy rằng với cùng một số nguyên tử của nguyên tố (tức là cùng một
thành phần) có thể tạo ra các chất khác nhau về tính chất. Thì ra nguyên nhân của hiện
tượng này là thứ tự kết hợp khác nhau giữa các nguyên tử. Tức là sự tạo thành chất mới và
những thay đổi tính chất của chúng không những là do thay đổi thành phần, do thêm hay bớt
đi những nguyên tử trong phân tử, mà còn do sự thay đổi cấu trúc của phân tử, thay đổi sự
kết hợp của các nguyên tử. Do đó, bản chất của phản ứng hóa học là ở sự thay đổi thành
phần cũng như cấu trúc của phân tử. Vì vậy F.Ănghen coi sự đồng phân như một ví dụ về sự
thay đổi về chất.
Cơ học lượng tử và những quan điểm về điện tử đã khẳng định luận điểm cơ bản của thuyết
Butlêrôp. Cấu tạo là tính chất căn bản của phân tử, quy định tất cả những tính chất và đặc
điểm khác của nó. Thứ tự kết hợp khác nhau và sự phân bố khác nhau trong không gian của
cùng một số nguyên tử và nhóm nguyên tử (điều này xảy ra ở những đồng phân) gắn liền
với sự thay đổi khoảng cách giữa chúng với nhau, sự thay đổi độ dài của những liên kết mới
được hình thành và tất nhiên gắn liền với mức năng lượng và momen lưỡng cực của chúng,

chưa kể đến sự thay đổi loại liên kết giữa các nguyên tử xảy ra trong đa số trường hợp. Tất
cả các đại lượng này và các đại lượng khác (mức độ phân cực của liên kết, kích thước của
các góc hóa trị,…) đặc trưng cho mức độ tinh vi của các chất hữu cơ, cho tính đặc thù của
cấu tạo các phân tử. Chính điều này gây ra sự khác biệt về chất của các dạng đồng phân cấu
trúc và đồng phân không gian: đồng phân mạch cacbon, đồng phân vị trí nhóm chức, đồng
phân cis-trans, đồng phân quang học.
Trong đa số trường hợp cấu tạo là nhân tố quyết định (so với thành phần) trong việc xác
định tính chất của một chất.
Ví dụ: đimetyl ete (CH
3
-O-CH
3
) và ancol etylic (C
2
H
5
OH) có cùng công thức phân tử là
C
2
H
6
O nhưng là hai hợp chất khác nhau về chất, nguyên nhân là ở cấu tạo của chúng. Trong
phân tử ancol etylic có chứa nhóm chức hidroxyl –OH. H trong nhóm này có tính chất khác
hẳn các nguyên tử H khác liên kết trực tiếp với C. Nó linh động và dễ dàng thay thế bằng
các kim loại kiềm. Còn 6H trong đimetyl ete đều giống nhau. Chúng có cùng tính chất, rất
bền dưới tác dụng của các kim loại kiềm. Sở dĩ như vậy là do trong đimetyl ete có 6 liên kết
C-H giống nhau, và 2 liên kết CO, còn trong ancol có 5 liên kết C-H, 1 liên kết C-C, 1 liên
kết C-O và 1 liên kết O-H. Điều này dẫn đến sự phân bố mật độ electron khác nhau trong
đám mây electron chung của phân tử những chất được xét (đó cũng là đặc điểm về cấu trúc).
Qua hiện tượng tautome ta thấy cấu tạo có ý nghĩa to lớn như thế nào trong việc quy định

tính chất của một chất. Như ta đã biết đó là trường hợp đặc biệt về sự đồng phân ở thế cân
bằng động rất phổ biến trong hóa học hữu cơ. Trường hợp này xảy ra khi 2 chất đồng phân
khác nhau về nhóm chức dễ dàng chuyển hóa cho nhau đến khi đạt đến cân bằng,
Ví dụ sự tautome sau:
Dạng enol Dạng xeto
Gắn liền với sự chuyển chỗ dễ dàng liên kết đôi và ion hidro. Trong trường hợp này đã cho
chuyển hóa từ dạng xeto với độ dài liên kết đơn C-C bằng 1,54 thành dạng enol với độ dài
của của liên kết đôi C=C bằng 1,34 .
Những sự thay đổi về cấu trúc này dẫn tới sự thay đổi về chất lượng, thể hiện ở tính chất
hóa học khác nhau của dạng xeto và enol.
Khi phân tích trường hợp mà một trong hai đồng phân có tính chất lý học và hóa học như
nhau làm quay mặt phẳng ánh sáng phân cực sáng trái (dạng L) và đồng phân làm quay mặt
phẳng ánh sáng phân cực sang phải (dạng D), Lơ Ben và Van Hốp đã đi đến kết luận (độc
lập với nhau) rằng hiện tượng này gọi là đồng phân quang học_ là do cấu trúc không gian
khác nhau của phân tử hai chất đối xứng quang học.
Mối liên quan chặt chẽ giữa cấu tạo và tính chất của các chất được phát hiện ra ở các hợp
chất cao phân tử. sự kiện đã được xác định và chứng minh qua thực tế này là cơ sở của phép
tổng hợp polyme. “Tính chất của các polyme phụ thuộc vào cấu tạo hóa học của các mắc
xích cơ bản, vào số lượng các mắc xích trong đại phân tử và cấu trúc của các đại phân tử”.
Các nhà hóa học Xô viết nổi tiếng B.A. Kacgin, B.B. kocsak, K.A. Anđrianôp, M.B.
Vonkenstên, A.E. Acbuzôp và nhiều người khác đã chứng minh được rằng có thể tạo ra
những tính chất hóa học cho trước không những bằng cách thay đổi tương ứng thành phần
hóa học, mà còn bằng cách giữ nguyên thành phần hóa học mà xây dựng lại cấu trúc những
monome ấy trong phân tử polime, những nhà bác học này xây dựng một học thuyết dựa theo
đó có thể dự đoán được tính chất của các polime và thực tế tổng hợp được chất đó trên cơ sở
biết được cấu tạo hóa học.
Mọi người đều biết tính đặc thù của việc thể hiện quy luật chuyển hóa từ lượng thành chất
trong hóa học vô cơ. Người ta đã nguyên cứu và phát hiện ra điều này ở định luật tuần hoàn,
ở các định luật hợp thức, ở hiện tượng đa hình, qua ví dụ về những phản ứng quan trọng
nhất.

Như vậy, những chất lượng và tính chất hóa học xác định thể hiện trong phân tử các chất
phụ thuộc vào cấu tạo, sự phân bố các thành phần trong không gian, vào trật tự và tính chất
liên kết giữa các thành phần đó. Điều đó có nghĩa là không những sự thay đổi về thành phần
hóa học-đó là điều hiển nhiên- mà cả sự thay đổi về cấu tạo cũng gắn liền với sự thay đổi về
tính chất, về chất lượng trong hóa học. Đó chính là tính đặc thù của sự thể hiện quy luật
chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại trong hóa
học.
Những yếu tố khác nhau về cấu tạo (độ dài và độ phân cực của các liên kết, giá trị các góc
hóa trị, momen lưỡng cực,…) gắn liền với các quy định về lượng của các phân tử chất,
nhưng các phép tính toán cơ học lượng tử, thuyết điện tử về hóa trị và liên kết hóa học đã
cho thấy.
2. Các “bước nhảy vọt” trong hóa học
Như đã biết, hóa học nghiên cứu những đối tượng vật chất là hợp chất hóa học. Chất lượng
của các đối tượng vật chất_là các chất hóa học, các hợp chất- thể hiện qua nhiều tính chất cụ
thể. Nó thể hiện ra trong các quá trình phản ứng khác nhau. Từ đó có thể hiểu được định
nghĩa của N.N. Xêmênôp coi hóa học là khoa học về các quá trình hóa học. Thực vậy việc
nhận thức chất lượng của các chất, cơ chế và tính quy luật của những sự tiến hóa của chúng
chỉ được thực hiên trong khi xảy ra phản ứng hóa học. Sự hiểu biết điều này cũng cho phép
ta khám phá ra những bí mật trong sự biến hóa các chất, hướng những biến hóa đó theo mục
đích nhất định.
Như vậy, phản ứng, tương tác hóa học là những phương pháp căn bản để xác định chất
lượng của các chất. Khi đó, phép biện chứng về mối liên hệ giữa chất lượng và số lượng có
vai trò quan trọng. Vì như vậy chúng ta đã thấy bất kì phản ứng hóa học nào ũng có sự
thống nhất chặt chẽ, là mối quan hệ qua lại, là sự quy định lẫn nhau giữa 2 mặt này trong
giới hạn của một độ nhất định.
Cái gì là tính quy định về số lượng và chất lượng của một phản ứng hóa học?
Chất lượng được quy định bằng tính đặc thù, bằng những tính chất của các chất tham gia
phản ứng và sản phẩm cuối cùng của phản ứng giữa các đơn chất và hợp chất (axit, bazơ,
muối, kim loại, phi kim,…). Chất lượng thể hiện ra ở tính chất của phản ứng (phản ứng
trung hòa, polime hóa, nitro hóa, halogen hóa,…). Về phương diện chất lượng cũng có thể

kể ra các điều kiện thực hiện phản ứng như môi trường, chất xúc tác, độ tinh khiết của các
chất phản ứng. Đương nhiên là tất cả những chất, những phản ứng và những hiện tượng này
thể hiện khía cạnh chất lượng của phản ứng hóa học về mặt chung trong phạm vi chung ta
nghiên cứu, còn với tính cách là những hiện tượng hóa học cụ thể, riêng lẻ thi chúng có tính
quy định về chất lượng và số lượng của riêng chúng
Ví dụ: Trong phản ứng tổng hợp amoniac NH
3
:
N
2
+ 3H
2
= 2NH
3
+ Q
Ở đây, về mặt chất có tính đặc thù của những chất hóa học tham gia phản ứng và tạo
thành (N
2
, H
2
, NH
3
) với tất cả những tính chất hóa học của chúng, trạng thái khí ban đầu của
N
2
và H
2
, sự cần thiết phải đun nóng hỗn hợp ban đầu để phản ứng xảy ra, sau đó, khi phản
ứng xảy ra thì tỏa nhiệt và không cần phải đun nóng nữa, để tăng nhanh tốc độ phản ứng cần
có chất xúc tác đặc biệt Về mặt lượng, phản ứng trên được đặc trưng bởi 1 phân tử

N
2
phản ứng với 3 phân tử H
2
, sinh ra 2 phân tử NH
3
, trong phản ứng này có 10,98 kcal
nhiệt được giải phóng ra khi hình thành mỗi mol NH
3
; để bắt đầu phản ứng phải đun nóng
tới 450
o
C và cần áp suất từ 300 - 1000 atm
Những đặc trưng về chất và lượng này chỉ thuộc riêng phản ứng tổng hợp NH
3
. Chính
những qui định về chất và lượng này đã phân biệt rõ phản ứng tổng hợp NH
3
với các phản
ứng khác. Thực vậy, nếu chúng ta thay N
2
trong hỗn hợp ban đầu bằng clo (Cl
2
) chẳng hạn,
tức là có sự thay đổi về chất ban đầu, thì sẽ xảy ra phản ứng hoàn toàn khác (với chất và
lượng khác) và sẽ thu được sản phẩm cuối cùng là hidroclorua (HCl) với chất và lượng hoàn
toàn khác. Tuy nhiên, đó là kết quả bên ngoài khá hiển nhiên. Vấn đề chủ yếu là ở chỗ dựa
trên tính thống nhất, tồn tại một cách khách quan giữa lượng và chất ta có thể theo dõi và
điều khiển các quá trình biến đổi hóa học. Ví dụ: trong quá trình kỹ nghệ, nhà hóa học kiểm
tra chất lượng, hiệu suất tối ưu của sản phẩm qua các chỉ số về lượng đo trực tiếp như nhiệt

độ phản ứng, áp suất, nồng độ các chất ban đầu , sự thay đổi các chỉ số này sẽ nói lên chính
xác về những sự lệch lạc này khác trong tiến trình, về các hiện tượng phụ xảy ra mà ta cần
phải vạch ra và loại trừ, để đảm bảo thu được sản phẩm có chất lượng cần thiết. Nhận thức
về mối quan hệ qua lại giữa các mặt lượng và chất của các phản ứng hóa học, về tính thống
nhất và sự tương ứng giữa chúng là một điều kiện thiết yếu để thực hiện quá trình kỹ thuật
mà phản ứng này là cơ sở.
Sự chuyển hóa từ một trạng thái chất này sang một trạng thái chất khác luôn luôn được thực
hiện dưới hình thức bước nhảy. Đó là do vật chất thống nhất, phát triển không ngừng và
vĩnh viễn thể hiện ra như một tổng thể các sự vật và hiện tượng cụ thể. Hình thức bước nhảy
trong các quá trình chuyển hóa hóa học được qui định trước hết do chính bản thân của các
chất hóa học: do thành phần hóa học, tính chất của liên kết giữa các nguyên tử và nhóm
nguyên tử trong phân tử và cuối cùng là do trạng thái tập hợp của các chất hóa học lúc phản
ứng. Không có ở đâu lại thể hiện rõ nét hơn trong hóa học sự phụ thuộc của quá trình biến
đổi vào những điều kiện bên ngoài. Vì rằng, bước nhảy với tính cách là hình thức chuyển
hóa từ trạng thái chất này sang trạng thái chất khác được thực hiện do sự thay đổi lượng,
nên những điều kiện khác nhau ảnh hưởng khác nhau đến cường độ những sự thay đổi về
lượng sẽ giới hạn một cách tương ứng đến mức độ và chiều hướng thay đổi về chất. Do đó,
tính chất của bước nhảy được qui định do bản chất của chất hóa học cũng như các điều kiện
cụ thể tại đó xảy ra bước nhảy. Mỗi điều kiện tại đó xảy ra bước nhảy có ảnh hưởng riêng
đến tính chất của bước nhảy. Ảnh hưởng này thể hiện ra trước hết ở tính chất khác nhau và
thời gian của bước nhảy, ở những kết quả cuối cùng của bước nhảy.
Người ta chia một cách qui ước các bước nhảy thành bước nhảy dần dần và bước nhảy đột
biến. Thuộc loại bước nhảy đột biến là sự chuyển từ nguyên tố này qua nguyên tố khác
trong bảng hệ thống tuần hoàn do điện tích hạt nhân của nguyên tử các nguyên tố thay đổi
từng đơn vị, hoặc sự biến đổi "tức khắc" tính chất nổ của các sản phẩm nitro hóa toluen khi
đưa vào dần dần từng nhóm nitro: mononitrotoluen thì bốc cháy, khác với toluen, nhưng
không nổ, đinitrotoluen đã là chất nổ yếu, trinitrotoluen là một chất nổ mạnh nhất Sự
chuyển dần dần từ chất hóa học này sang chất khác đặc trưng cho bước nhảy dần dần. Khi
đó sự tiêu diệt chất hóa học cũ và tích lũy những yếu tố của chất mới xảy ra qua một loạt
các giai đoạn trung gian. Sự chuyển hóa như vậy dù với tính liên tục của nó cũng vẫn là sự

nhảy vọt, một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự phát sinh ra chất mới. Bước nhảy dần dần
được đặc trưng chủ yếu ở tính chất của sự chuyển hóa, chứ không phải ở thời gian dài hay
ngắn (nó có thể xảy ra tương đối nhanh), ví dụ như sự cháy (thời gian ngắn) khác với các
dạng oxi hóa khác như sự gỉ, sự rữa nát (thời gian dài).
Trong hóa học thường xảy ra sự phối hợp các bước nhảy, chứa đựng những yếu tố của cả
hai dạng giới hạn.
Ví dụ: quá trình điều chế clorofom CHCl
3
(một dung môi trong hóa học hữu cơ) từ metan
(CH
4
) và clo (Cl
2
), về toàn bộ là một bước nhảy, xảy ra qua ba mức trung gian:
CH
4
+ Cl
2
→ CH
3
Cl + HCl
CH
3
Cl + Cl
2
→ CH
2
Cl
2
+ HCl

CH
2
Cl
2
+ Cl
2
→ CH
3
Cl + HCl.
3. Về tính có nhiều chất lượng của các chất hóa học
Vấn đề một chất hóa học có một chất lượng hay một số chất lượng có ý nghĩ thực tiễn và lý
thuyết quan trọng. Giải quyết đúng đắn vấn đề này phụ thuộc vào phương pháp nhận thức
khoa học chi phối nhà nghiên cứu. Không phải là ngẫu nhiên mà V.I.Lê Nin đã tìm ra sự
khác nhau giữa phép biện chứng với phép siêu hình và phép chiết trung khi nghiên cứu vấn
đề nhiều chất lượng của các hiện tượng. Trong công trình nổi tiếng “Lại bàn về các công
đoàn” với ví dụ đơn giản về chiếc cốc, Người cũng đã chỉ ra rằng chiếc cốc cũng như mọi
đối tượng vật chất có vô số những tính chất, những chất lượng, những khía cạnh, những mối
quan hệ qua lại và mối quan hệ gián tiếp với toàn bộ thế giới còn lại.
Chất lượng được nói tới ở đây chính là một phức hợp xác định của các tính chất chứ không
phải là từng tính chất riêng rẽ như tính hòa tan các kim loại có ở các axit cũng như các bazơ,
tức là những chất khác nhau về chất lượng. Cũng nên chú ý rằng chất lượng không phải là
một thực thể độc lập, bởi vì “không phải là tồn tại những chất lượng, mà là vật thể có chất
lượng và hơn nữa có vô số số lượng”
Tính nhiều mặt khách quan, tính vô tận của các đối tượng vật chất là cơ sở của tính có nhiều
chất lượng. Cả tính đa nguyên của các mâu thuẩn có trong vật thể cũng thể hiện ra trong
tính có nhiều chất lượng này. Sự tồn tại mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập khác nhau về các
tính chất căn bản, về khuynh hướng phát triển thì gắn liền với sự tồn tại đồng thời các chất
lượng khác nhau. Tính đa nguyên của các mâu thuẫn có trong vật thể thể hiện ra cả ở những
đặc trưng về chất lượng của chúng.
Do đó cơ sở của tính có nhiều chất lượng đã chứa đựng ngay trong chính bản chất của phân

tử của chất hóa học, trong cấu trúc của nó, sự thể hiện chất lượng này hay chất lượng khác
phụ thuộc vào các điều kiện tồn tại và vào tính chất cụ thể của môi trường tương tác hóa học
trong đó có phân tử tham gia. Những mưu toan gắn vĩnh viễn một chất lượng nhất định,
không đổi ở mọi điều kiện thay đổi cho một chất, tức là tuyệt đối hóa chất lượng nào đó,
đều có tính chất siêu hình.
Lịch sử nghiên cứu những chất được sử dụng phổ biến trong hóa học và trong kỹ nghệ hóa
học, như các axit và bazơ đã xác nhận rõ ràng những điều vừa trình bày ở trên. Việc tính
axit là một chất lượng có riêng sự thống nhất hữu cơ các tính chất, và tính bazơ là một chất
lượng khác là điều hoàn toàn rõ ràng. Chẳng hạn tính chất của các axit là vị chua, khả năng
làm đỏ nước quỳ, khả năng tham gia phản ứng thế với một số kim loại và tạo thành muối.
Axit kết hợp với kiềm và làm kết tủa anbumin, làm mất nước ở các mô và kích thích chúng.
Ví dụ việc dùng axit clohidric loãng để tăng cường sự tiết dịch của dạ dày là căn cứ vào tính
kích thích của các axit,…
Các bazơ thường là chất rắn, đa số không tan trong nước, những bazơ tan được (các chất
kiềm) thì nhờn như xà phòng, làm xanh nước quỳ, ăn mòn da, tính chất đặc trưng của các
bazơ là khả năng tham gia phản ứng hóa học với các axit tạo thành muối, … Như vậy, qua
quá trình nghiên cứu thực nghiệm đơn giản nếu như người ta đã thấy rõ rằng tính axit và
tính bazơ là các chất lượng khác nhau và những chất có những chất lượng đó thuộc các loại
hợp chất hóa học khác nhau, thì vẫn còn chưa rõ được chính bản chất của chất, cấu trúc của
chất có những chất lượng đó, tính chất của các quá trình trong đó chúng tham gia.
Những cố gắng đầu tiên để xác định các chất, các axit và các bazơ trong mối quan hệ này
nhằm phân biệt chúng với nhau. Ngay từ thời kì đầu của sự phát triển hóa học A.Lavoadiê
(1778) đã nêu lên thuyết oxi về các axit, giải thích tất cả các đặc tính là do có oxi trong
thành phần của chúng. Nhưng những công trình nghiên cứu của G.Đêvy và G.Gaylutxăc
(1810-1814) đã chứng tỏ rằng nhiều hợp chất chứa oxi (các oxit kim loại, muối, kiềm,…)
không thể hiện tính chất axit, còn một số hợp chất mà người ta đã biết là các axit điển hình
(axit clohidric, axit flohidric, axit hianhidric) lại không chứa oxi.
Becxeliut (1812-1819) đã bắt đầu xác định các axit và bazơ theo quan điểm khác. Ông
không ràng buộc tính axit hoặc tính bazơ của một chất với sự có mặt của một nguyên tố nào
đó trong thành phần của nó. Becxeliut cho rằng nguyên nhân của tính axit hoặc bazơ là ở

dấu của điện tích ở các oxit. Những oxit âm điện của các phi kim loại thì tạo thành axit khi
kết hợp với nước, những oxit dương điện của các kim loại thì tạo thành các bazơ. Những sự
kiện tích lũy được trong quá trình phát triển của hóa học hữu cơ đã trở thành mâu thuẫn với
các quan niệm của Becxeliut, ví dụ như hidro luôn luôn là dương điện, còn clo luôn luôn âm
điện. Cùng với điều đó thì lý thuyết về các axit, bazơ xây dựng dựa trên sự tuyệt đối hóa
những tính chất này của các nguyên tố bị phá sản. G.Đêvy (1814) xây dựng thuyết hidro về
các axit, cho rằng hidro có trong thành phần tất cả các axit đã biết thời đó là chất mang tính
axit. Iu.LiBich (1833) làm chính xác thêm lý thuyết này qua luận điểm cho rằng không phải
bất kỳ hidro nào cũng mang tính chất axit, mà chỉ có hidro nào có thể thay thế bằng kim
loại.
Nhưng ngay cả A.M. Butlêrôp (1879) đã nhận thấy sai làm trong cách xác định axit và bazơ
như vậy, vì mới khái nhiệm về sự có mặt của hidro khi thay thế được bằng kim loại thì
người ta đã gắn cho axit một định nghĩa tuyệt đối. “Chẳng hạn, chúng ta hãy xét những quan
niệm phổ biến nhất, thông thường nhất như là khái niệm về axit và kiềm. Có phải chúng là
tuyệt đối và phù hợp ở mọi lúc, mọi nơi không? Có phải là ở mọi trường hợp xác định đều
có thể khẳng định tuyệt đối rằng chất này là axit hoặc là kiềm không? Tất nhiên là không-
Chúng ta biết không ít trường hợp mà một chất có thể giữ vai trò này hay vai trò khác”.
Thực vậy càng ngày chúng ta càng biết nhiều sự kiện cho thấy rằng cả tính axit và bazơ đều
là tương đối, và cùng một chất có lúc lại thể hiện tính axit, có lúc lại thể hiện tính bazơ.
G.Bronxtet- một trong những người lập nên lý thuyết hiện đại về các axit, bazơ- đã xuất
phát từ những điều thiết yếu này. Theo thuyết của ông, không thể gắn chặt các khái niệm
axit, bazơ cho các chất cụ thể mà không xét đến các điều kiện tại đó nó tham gia tương tác
hóa học. Ví dụ axit nitric là bazơ trong axit sunfuric khan, và trong những điều kiện đó có
thể gọi là bazơ nitric chứ không phải axit nitric. Trong amoniac lỏng, anilin là một axit yếu
còn trong nước thì nó là một bazơ yếu. Hiên tượng lưỡng tính phổ biến thể hiện sự xâm
nhập lẫn nhau và sự thống nhất giữa hai chất lượng đối lập này.
Theo Bronxtet, axit là chất cho proton (chất phản ứng tách proton ra) và bazơ là chất nhận
proton (chất phản ứng kết hợp với proton). Chính phản ứng chuyển proton gọi là phản ứng
phân li proton, và biểu diễn bằng sơ đồ:
AH + B

-

A
-
+ BH
Trong đó AH là axit, còn B
-

là bazơ. Phản ứng phân li proton là phản ứng thuận nghịch. Vì
rằng quá trình nghịch cũng gắn liền với sự chuyển proton, nên các sản pẩm của phản ứng
cũng là axit và bazơ. Như vậy BH là axit (liên hợp với bazơ B
-
), A
-
là bazơ (liên hợp với
axit AH). Vậy trong phản ứng
HCl+ OH
-
⇌ Cl
-
+ H
2
O
Thì HCl và H
2
O là những axit, Cl
-

và OH
-

là những bazơ tương ứng với những axit đó,
trong phản ứng
+ ⇌ 2 NH
3
Thì là axit, là bazơ, còn NH
3
vừa đóng vai trò là một axit (phân tử thứ nhất) vừa đóng vai
trò bazơ (phân tử thứ hai).
G.Liuyt nêu lên một quan niệm khác. Theo ông, một chất có chất lượng axit hay bazơ chỉ do
cấu tạo của những phân tử phản ứng quy định tính chất nhận electron của chúng. Theo Liuyt
thì axit là chất nhận cặp electron (tức là chất phản ứng kết hợp với electron) và bazơ là chất
cho cặp electron (tức là chất phản ứng cho đi cặp eclectron đó). Nói cách khác, Liuyt đã đưa
ra cơ chế electron về tương tác giữa axit và bazơ.
Tong quá trình phản ứng giữa axit và bazơ, sự thiếu electron ở một trong những nguyên tử
của phân tử axit được bổ sung. Kết quả là nảy sinh ra nhóm electron bền vững hơn (ví dụ
nhóm tám electron) và tạo thành liên kết cộng hóa trị cho-nhận. Như vậy:
Trong đó BF
3
là axit, còn NH
3
là bazơ.
Như vậy, nếu như theo Brônxtet tính axit do sự tồn tại của proton, thì theo Liuyt , những
tính chất này chỉ phụ thuộc vào cấu tạo của các chất phản ứng, cấu tạo này cũng quy định
những tính chất nhận electron của các chất. Liuyt hoàn toàn không ràng buộc chất lượng của
một chất như axit với sự có mặt của bất kì một nguyên tố nào, ví dụ như hidro có thể tách ra
dưới dạng proton.
Ngoài những cách phân loại các chất theo tính chất các chất axit hay bazơ của chúng đã
được mọi người thừa nhận ở trên, còn nhiều phương pháp phân loại khác nữa (của M.I.
Uxanôvich, A.I. Saltenstên và nhiều người khác.
Hiện nay người ta đã xác định chắc chắn rằng tùy theo điều kiện (ví dụ tùy theo bản chất

của chất hòa tan) cùng một chất có thể thể hiện như một axit hoặc như một bazơ. Do đó nếu
chỉ phụ thuộc vào những hiểu biết cấu tạo và tính chất của một chất thì không thể khẳng
định nó chỉ là axit hoặc chỉ là một bazơ được. Cả hai chất lượng này tồn tại đồng thời trong
một chất xác định. Chỉ có thể xác định được một chất có những chức năng gì, tức là thuộc
loại chất lượng gì, trong một quá trình axit bazơ xác định.
Từ những điều trình bày ở trên, ta rút ra rằng một chất hóa học không phải chỉ là có một
chất lượng, mà có một số chất lượng (kim loại và phi kim loại, axit và bazơ, những hợp chất
có nhiều chức hỗn hợp: những amino axit, glucozơ,…). Mỗi chất lượng là tương đối với ý
nghĩa là chúng không loại trừ lẫn nhau, mà chất lượng này hay chất lượng khác chỉ thể hiện
ra trong những điều kiện tồn tại nhất định của chất (môi trường chẳng hạn) và tùy theo tính
chất của quá trình hóa học và bản chất của chất phản ứng với nó.
Khi một chất tồn tại ở một trạng thái ổn định, đồng nhất với chính nó thì nó có một chất
lượng nào đó chiếm ưu thế thể hiện qua một phức hợp nhất định các tính chất hóa học, các
hằng số hóa lý (tỷ khối, cấu tạo, nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ sôi,…). “Do đó tính có nhiều
chất lượng của một chất tức là chất đó có thể có vai trò khác nhau trong quá trình hóa học,
không có nghĩa là chất đó không được xác định về chất lượng, và tất nhiên không ai có thể
nghĩ đến việc khẳng định rằng các khái niệm về axit và bazơ là thừa, và các khái niệm này
đã không đóng góp gì vào việc phát triển hóa học về mặt lý thuyết”.
Điều này cho thấy rằng chất lượng này hay chất lượng khác của một chất thể hiện ra trong
quá trình chất đó tương tác với các chất khác, tức là trong các biến hóa hóa học phụ thuộc
vào những điều kiện cụ thể của phản ứng.
Tất nhiên là tính có nhiều chất lượng của các chất hóa học, tính tương đối của chất lượng
này hay chất lượng khác cũng bắt nguồn từ nguyên lý chung về tính tuyệt đồi, tính không
ngừng của vận động, từ tính tương đối, tính tạm thời của trạng thái tĩnh, của mọi trạng thái
ổn định. Tính có nhiều chất lượng là cơ sở của sự muôn hình, muôn vẻ của các biến hóa hóa
học, thêm một chứng minh hồn hồn cho sự đúng đắn của nguyên lý chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng trong tự nhiên không có những ranh giới tuyệt đối, dứt khoác bào cả.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Từ những điều trình bày trên đây có thể rút ra nội dung cơ bản của qui luật từ những thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại trong tự nhiên, xã hội nói chung và

trong hóa học nói riêng là:Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và
lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về
chất của sự vật, hiện tượng thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự
thay đổi của lượng.
Trong hóa học, phép biện chứng về mối tương quan giữa lượng và chất có vai trò quan
trọng, vì như chúng ta đã thấy, bất kỳ một phản ứng hóa học nào, một chất hóa học nào
cũng là sự thống nhất chặt chẽ, là mối quan hệ qua lại, là sự qui định lẫn nhau giữa hai mặt
này trong giới hạn của một độ nhất định. Sự phát triển của thế giới vật chất là một dãy
những bước chuyển từ độ này sang độ khác (khi đó thì sự vận động trong phạm vi vũ trụ
của chúng ta chuyển từ thấp đến cao).
Nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất
chúng ta sẽ rút ra ý nghĩa của phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt
chất của nó. Những nhận thức ban đầu về chất (thấy sự khác nhau) của các sự vật chỉ trở
nên đúng đắn và được làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và
lượng của các sự vật đó.
Vì sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau cho nên
trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi
loại thay đổi nói trên trong sự phát triển của xã hội, trong quá trình nghiên cứu khoa học và
trong quá trình sản xuất, điều chế các sản phẩm hóa học phục vụ cho nhu cầu, đời sống của
con người; phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nhà xuất bản Chính trị - Hành
chính Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin(Dùng cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác –
Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội.
3. N.A. BUDRÂYKO (1979), Những vấn đề Triết học của Hóa học, Nhà xuất bản Giáo
dục.

4. www.google.com.vn
5. />%A5n+%C4%91%E1%BB%81+tri%E1%BA%BFt+h%E1%BB%8Dc+c
%E1%BB%A7a+h%C3%B3a+h%E1%BB%8Dc
6. />7. Hoàng Ngọc Cang (2002), Lịch sử hóa học, Nhà xuất bản giáo dục.

×