BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
LÊ THỊ THANH VÂN
THƠ DƢƠNG KIỀU MINH
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp
HÀ NỘI, 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn
Đăng Điệp trong quá trình tôi thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy, cô trong Tổ Lí luận
văn học, Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Xin gửi lời cảm ơn đến những người thân, gia đình, nhà trường, bạn bè
đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập
và thực hiện luận văn.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn không tránh khỏi
những khiếm khuyết nhất định. Kính mong các thầy giáo, cô giáo và bạn đọc
lượng thứ và góp ý.
Tác giả
Lê Thị Thanh Vân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Lê Thị Thanh Vân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
6. Đóng góp mới của luận văn 7
7. Phương pháp nghiên cứu 7
8. Cấu trúc luận văn 7
NỘI DUNG 8
Chƣơng 1: Sự xuất hiện của Dƣơng Kiều Minh trong thơ ca Việt Nam
đƣơng đại 8
1. 1. Lộ trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1975 8
1.1.1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật 8
1.1.2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người 14
1.1.3. Những khuynh hướng mới trong thơ 19
1.2. Sự xuất hiện của Dương Kiều Minh trong dòng chảy thơ ca Việt Nam
đương đại 26
1.2.1. Vài nét về tiểu sử 26
1.2.2. Những chặng đường thơ Dương Kiều Minh 27
1.2.3. Quan niệm của Dương Kiều Minh về nghệ thuật thơ 33
Chƣơng 2: Thi hứng chủ đạo và hệ thống biểu tƣợng 39
2.1. Thi hứng chủ đạo trong thơ Dương Kiều Minh 39
2.1.1. Vài nét về cảm hứng trong thơ 39
2.1.2. Những nguồn thi hứng cơ bản trong thơ Dương Kiều Minh 40
2.2. Hệ thống biểu tượng 44
2.2.1. Biểu tượng về thời gian 44
2.2.2. Biểu tượng về không gian 54
Chƣơng 3. Đặc sắc nghệ thuật thơ Dƣơng Kiều Minh 77
3.1. Tổ chức cấu tứ 77
3.2. Ngôn ngữ 80
3.3. Giọng điệu 87
3.4. Phương thức tu từ 94
3.4.1. Sử dụng phép trùng điệp 94
3.4.2. Sử dụng phép đối 97
3.4.3. Sử dụng phép so sánh và câu hỏi tu từ 99
KẾT LUẬN 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ sau năm 1975, đặc biệt là từ 1986 đến nay đã
có những bước chuyển mình to lớn về mọi phương diện với sự góp mặt của
nhiều thế hệ nhà thơ. Trong số họ có không ít người đã sống và sáng tác từ
trước năm 1975 như Lưu Quang Vũ, Phùng Khắc Bắc, Hoàng Hưng, Thanh
Thảo, Thi Hoàng, Trúc Thông… song có lẽ phải kể đến một số lượng ngày
càng lớn những cây bút trưởng thành từ sau 1975, đặc biệt là từ sau 1986. Có
thể nhắc đến những cái tên nổi bật như: Nguyễn Quang Thiều, Dư Thị Hoàn,
Y Phương, Mai Văn Phấn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Bình Phương, Lãng
Thanh, Phan Thị Vàng Anh, Vi Thùy Linh Chính họ đã góp phần rất quan
trọng cho những thành công của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới với sự
tìm tòi, sáng tạo không ngừng từ đề tài, chủ đề đến cách thức thể hiện.
1.2. Dương Kiều Minh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ
sau 1975 cũng là một trong số các nhà thơ có ý thức tìm tòi, đổi mới, cách tân
văn học. Dù mới chỉ xuất hiện trên văn đàn vào cuối những năm tám mươi
của thế kỷ trước, nhưng với niềm đam mê văn chương cháy bỏng và một năng
khiếu vốn có, nhà thơ đã có một sự nghiệp sáng tác khá dày dặn. Ngoài một
số ít tiểu luận về thơ, văn xuôi, thơ cách tân về một số nhà thơ hiện đại Việt
Nam chưa xuất bản, Dương Kiều Minh thực sự để lại nhiều ấn tượng với bạn
đọc qua bảy tập thơ và hai cuốn tùy đàm văn chương. Có thể nói, trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật, Dương Kiều Minh đã đạt được nhiều thành tựu
đáng ghi nhận.
Thơ Dương Kiều Minh là những chiêm nghiệm, xúc cảm sâu lắng
nhưng rất tự nhiên về quê hương, về những giá trị tinh thần, về những thăng
trầm của cuộc sống Đó là tiếng thơ hướng về vẻ đẹp của sự thanh cao, bình
dị. Nó thể hiện một cái nhìn nghệ thuật mới, một giọng điệu mới khác với thơ
ca trước 1975.
2
1.3. Tìm hiểu thơ Dương Kiều Minh, một mặt luận văn muốn khám
phá sâu hơn những giá trị thơ ông, mặt khác nhìn thấy sự vận động của thơ ca
Việt Nam đương đại.
Qua khảo sát thực tiễn, chúng tôi nhận thấy, những bài viết và công
trình nghiên cứu về Dương Kiều Minh và các tập thơ của ông chưa nhiều.
Đặc biệt, trong đó chưa có công trình nào đi sâu, tìm hiểu về thơ Dương Kiều
Minh trong cái nhìn toàn cảnh của thơ ca đương đại.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Thơ Dương
Kiều Minh để nghiên cứu với mục đích tìm hiểu một cách tường tận hơn giá
trị của thơ ông. Đây cũng là con đường đúng đắn để tìm hiểu phần nào sự vận
động của thơ ca Việt Nam đương đại, qua đó ghi nhận rõ ràng hơn những
đóng góp của tác giả vào đời sống thơ ca Việt Nam hôm nay.
2. Lịch sử vấn đề
Theo tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay, thơ Dương Kiều Minh chưa
có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu mà chủ yếu mới được điểm qua ở
một số bài viết trên báo, tạp chí và báo mạng. Trong phần này, chúng tôi sẽ
trình bày ngắn gọn về những công trình, bài viết tiêu biểu nhất.
Trước hết, về các bài mang tính đánh giá những đóng góp của nhà thơ
với quá trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại từ sau 1975. Đó là các bài Nhà
thơ Dương Kiều Minh với những thi tầng minh triết phương Đông (Nguyễn
Việt Chiến), Cảm nhận thơ Dương Kiều Minh (Bích Thu), Dương Kiều Minh
lá vàng kiếp kiếp rơi mờ hoàng hôn (Trần Anh Thái) và Nhà thơ Dương Kiều
Minh - Bông loa kèn nở ngang tàng mùa hạ (Lê Thị Bích Hồng)
Tác giả Nguyễn Việt Chiến trong bài viết của mình đã chỉ ra phong cách
thơ Dương Kiều Minh và con đường thi ca ông chọn: là một trong số ít các
nhà thơ chủ động hướng tìm tòi, cách tân của mình về phương - đông - nguồn
- cội. Cái khí chất ấy, cái nỗ lực ấy được thể hiện ngay từ những bài thơ đầu
3
tiên của anh Cũng tương tự, Trần Anh Thái cho rằng: Dương Kiều Minh khi
xuất hiện trên văn đàn đã mang tới một luồng khí mới lạ Dương Kiều Minh
không tìm tòi, đổi mới về hình thức thơ Đổi mới của Dương Kiều Minh là
đổi mới về thẩm mỹ Mang lại cho thơ tinh thần tự do thuần khiết.
Tác giả Bích Thu chỉ ra cái khí chất thơ của Dương Kiều Minh là sự thức
tỉnh ý thức cá nhân của cái tôi trữ tình thông qua cảm hứng trở về nguồn với
những cảm giác, cảm xúc mơ hồ hư ảo khó nắm bắt. Đó là một cái tôi tràn
đầy khát khao sáng tạo: Kháng cự quyết liệt với các tập tục lề thói, vươn tới
những vùng đất mới lạ, đầy bí ẩn của thơ ca. Ý thức về bản thể luôn gắn liền
với ý thức về thời gian, thực chất là những dòng suy tư về thân phận con
người là nội dung lớn trong bảy tập thơ của ông. Bên cạnh đó, tác giả Bích
Thu cũng đánh giá hình thức nghệ thuật của thơ Dương Kiều Minh là nghiêng
về thể thơ văn xuôi với giọng điệu của sự từ tốn da diết.
Có cùng quan điểm như thế, tác giả của bài viết Bông loa kèn nở ngang
tàng mùa hạ Lê Thị Bích Hồng cho rằng vai trò của Dương Kiều Minh với
công cuộc đổi mới thơ là rất lớn. Tác giả Bích Hồng nhấn mạnh đến sự đổi
mới toàn diện, nội dung cảm hứng, hình thức nghệ thuật: Ở cảm xúc chung,
cách nhìn, cách cảm, cách tổ chức câu thơ, bài thơ, đặc biệt là hình ảnh và
ngôn ngữ thơ. Thơ Dương Kiều Minh vừa kế thừa vừa đổi mới.
Dương Kiều Minh thơ của những số phận (Đoàn Ánh Dương), Thơ
Dương Kiều Minh mang hơi xuân từ những cánh đồng (Mai Văn Phấn) hay
Thơ Dương Kiều Minh ngọn lửa đêm hàn (Văn Chinh) là những bài viết khá
sâu sắc của các tác giả khi bám sát hành trình thơ của Dương Kiều Minh.
Trong đó, đặc biệt là bài của tác giả Mai Văn Phấn đã tổng kết về một chặng
đường thơ của người thơ ấy: Giấc mơ ấy đã nhiều lần đậu xuống, đánh dấu
quá trình vận động, cách tân và những cảm thức lạ lẫm Chỉ vừa xướng tên
các tập thơ tôi như nghe rõ tiếng cửa mở vào những không gian mới lạ tinh
4
khôi Thơ Dương Kiều Minh là một giọng điệu riêng biệt trong dòng chảy
thơ cách tân sau 1975
Thơ Dương Kiều Minh là ánh sáng phản chiếu những gì đã qua hay
những gì chưa tới. Một thực tại tinh khiết không nhuốm bụi trần là những
cảm nhận chung của hai tác giả Bình Nguyên Trang trong bài Dương Kiều
Minh có cuộc đời giấu bao nhiêu ánh sáng và Nguyễn Linh Khiếu trong bài
Dương Kiều Minh tràn ngập âm thanh mê đắm và khoái cảm.
Bên cạnh các bài mang tính đánh giá những đóng góp của nhà thơ với
quá trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại từ sau 1975 phải nhắc đến một số bài
nghiêng về tiếp cận thi pháp như: Thi pháp ngôn ngữ thơ Dương Kiều Minh
(Hoàng Kim Ngọc), Cảm thức thời gian trong thi pháp thơ Dương Kiều Minh
(Đỗ Ngọc Yên), Dương Kiều Minh - lữ thứ đời, lữ thứ thơ (Văn Giá).
Trong bài viết của mình, Hoàng Kim Ngọc đã rất nỗ lực để tìm ra các
biểu tượng không gian, thời gian và tần số xuất hiện của các biểu tượng ấy
trong bảy tập thơ. Tác giả cũng có một số tìm tòi về hình thức nghệ thuật
nhưng đáng tiếc phần kết của bài viết lại hơi vênh lệch so với vấn đề đã nêu
và đã tìm được.
Bài viết của tác giả Văn Giá phát hiện ra một cái tôi lữ thứ, bất an, tha
hương luôn sống trong tâm trạng hoài hương cô độc, một thế giới ngày xưa đã
mất. Về hình thức nghệ thuật, tác giả khẳng định thơ Dương Kiều Minh có sự
chuyển biến về giọng điệu từ hình thức trữ tình sang tự tình, từ một cái tôi hòa
cảm với đời dần chuyển sang một cái tôi tự trị khép kín, từ thể điệu thơ tự do
chuyển sang thơ văn xuôi Sự phát hiện này nhận được nhiều đồng thuận và
đánh giá cao tuy nhiên tác giả chưa đi sâu lí giải cặn kẽ căn nguyên của nó.
Với quan niệm: Thời gian là một đại lượng mang đầy tính chất chủ
quan trong quá trình sáng tạo nghệ thuật và ai cảm thức được thời gian
chắc chắn sẽ có trong tay một vũ khí lợi hại trong quá trình sáng tạo Từ
5
phần dẫn nhập này, tác giả Đỗ Ngọc Yên đã chỉ ra hai trạng thái thời gian
trong thơ Dương Kiều Minh là thời gian thực/ vật chất và thời gian ảo/ tâm lí
sáng tạo, tất cả đều được kiểm chứng qua các tác phẩm thơ trong đó tập trung
rõ nhất ở bài thơ cuối cùng. Kết thúc bài viết, tác giả đã khẳng định đó là nét
khu biệt độc đáo về thi pháp thơ Dương Kiều Minh. Lí giải và kết luận của tác
giả tuy rất có lí, chỉ có điều sự cảm thụ, biểu đạt trong tâm thức sáng tạo trong
tác phẩm nghệ thuật không phải chỉ đơn giản như vậy.
Đặc biệt nhất phải kể đến công trình khoa học: Thế giới nghệ thuật thơ
Dương Kiều Minh của tác giả Ninh Thanh Hà. Đây là luận văn chuyên ngành
Văn học Việt Nam mà tác giả kì công thực hiện. Chỉ riêng việc, tác giả tìm
đến gặp trực tiếp nhà thơ để có được những chia sẻ trực tiếp đã là một cứ liệu
sinh động và tin cậy. Trong khuôn khổ một luận văn, Ninh Thanh Hà đi sâu
tìm hiểu thế giới hình tượng thơ Dương Kiều Minh để chỉ ra đó là một cái tôi
"lữ thứ", cô độc trên hành trình kiếm tìm giá trị đích thực của cuộc sống.
Tương ứng với hình tượng ấy là hình tượng thế giới với hai mảng màu sáng
tối. Một thế giới trần gian hiện tại đầy mưu mô, đau khổ và cô độc. Một thế
quê xưa khôi nguyên đẹp đẽ mà Mẹ, cánh đồng là hình ảnh trung tâm. Chính
thế giới ấy là một điểm tựa cho hiện tại, để cái tôi lữ thứ trên hành trình luôn
hướng về phía trước và không mất hết hy vọng ở tương lai. Ở phương diện
nghệ thuật, tác giả cũng chỉ ra bốn nét đặc sắc, đó là: kết cấu đồng hiện; lối
liên tưởng đa tuyến; giọng điệu; ngôn ngữ.
Tuy có những phát hiện sâu sắc và có lí nhưng Ninh Thanh Hà chưa có
nhiều so sánh với các nhà thơ khác, đặc biệt là các nhà thơ cùng thời để thấy
rõ được điểm riêng của Dương Kiều Minh cũng như vị trí và đóng góp của
ông trong tiến trình đổi mới của thơ Việt Nam sau 1975.
Nhìn chung, các bài viết trên chỉ dừng lại ở một khía cạnh nhất định mà
chưa có công trình cụ thể nào đề cập trực tiếp và toàn diện vấn đề. Nhưng
6
những vấn đề đã được nghiên cứu từ trước đến nay về Dương Kiều Minh và
thơ của ông là những gợi ý, những định hướng, tư liệu quý giá để chúng tôi
tiếp cận vấn đề một cách tương đối trọn vẹn hơn khi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, khám phá giá trị về thơ
Dương Kiều Minh. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng góp của tác giả
vào tiến trình thơ ca Việt Nam từ sau 1975.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào tìm hiểu thơ Dương Kiều Minh trong quan hệ nội
tại thống nhất giữa tư tưởng cảm xúc và hình thức biểu hiện qua những sáng
tác của tác giả. Qua đó, có thể thấy được vị trí của Dương Kiều Minh trong
nền thơ Việt Nam đương đại.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 7 tập thơ
- Củi lửa (1989), Nxb Tác phẩm mới
- Dâng mẹ (1990), Nxb Văn hóa
- Những thời đại thanh xuân (1991), Nxb Văn học
- Ngày xuống núi (1995), Nxb Văn học
- Tựa cửa (2000), (chưa xuất bản), đã in trong tuyển Thơ Dương Kiều
Minh, Nxb Văn học
- Tôi ngắm mãi những ngày thu tận (2008), Nxb Hội nhà văn
- Khúc chuyển mùa (2011), (chưa xuất bản), đã in trong tuyển Thơ
Dương Kiều Minh, Nxb Hội nhà văn
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Làm nổi rõ những đặc điểm trong 7 tập thơ của Dương Kiều Minh,
chúng tôi khảo sát thêm một số tác phẩm thơ của một số nhà thơ cùng thời.
7
Đồng thời, luận văn cũng so sánh thơ Dương Kiều Minh với thơ của một số
nhà thơ trong giai đoạn thơ ca Việt Nam trước 1975.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình vận dụng cơ sở lý luận về thơ và các vấn đề
phương pháp luận nghiên cứu để hệ thống hóa thơ ca Việt Nam đương đại, từ
đó thấy được giá trị trong nỗ lực đổi mới của thơ Dương Kiều Minh.
- Khẳng định những đóng góp của Dương Kiều Minh trong sáng tác thơ
ca, đồng thời thấy được vị trí của nhà thơ trong dòng chảy thơ ca Việt Nam
đương đại.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích tác phẩm
- Phương pháp so sánh
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Sự xuất hiện của Dương Kiều Minh trong thơ ca Việt Nam
đương đại
Chương 2. Thi hứng chủ đạo và hệ thống biểu tượng
Chương 3. Đặc sắc nghệ thuật thơ Dương Kiều Minh
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
SỰ XUẤT HIỆN CỦA DƢƠNG KIỀU MINH TRONG THƠ CA
VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Lộ trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1975
Trong những năm gần đây, văn chương ở Việt Nam nói chung và địa hạt
thơ nói riêng, vấn đề đổi mới đang được đặt ra như một nhu cầu bức thiết và
tự thân của mỗi cá thể sáng tạo. Ý thức được sứ mệnh cao cả của thế hệ mình,
các nhà thơ thời hậu chiến đã không ngần ngại khi chấp nhận "cơ chế đấu
tranh để sinh tồn". Cơ chế đó chính là quá trình đối thoại để khẳng định tính
cách loại hình thơ đặc thù của thời đại. Nói cách khác, người đọc thưởng thức
thơ chẳng qua là cách tiếp cận vốn sống, tiếp cận những giá trị về mặt tinh
thần mà thơ ca đem lại. Thơ ca một mặt thể hiện những suy tư mang tính cá
nhân độc đáo nhưng suy tư ấy phải gắn với tâm tư, tình cảm, với nhu cầu hiện
tại của con người.
Với mốc từ sau 1975, thơ Việt Nam đương đại đã đi được một chặng
đường gần 40 năm. Trong hành trình đổi mới ấy, có nhiều tác phẩm ở dạng
thể nghiệm nhưng cũng đã có những kết tinh thực sự. Chúng ta nhìn thấy rõ
nhất đó là đổi mới về tư duy nghệ thuật, đổi mới quan niệm nghệ thuật về
hiện thực và con người, sự xuất hiện của một số khuynh hướng mới trong thơ.
1.1.1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật
1.1.1.1. Những đổi mới về tư duy nghệ thuật trong thơ giai đoạn 1975 - 1985
Với thắng lợi vĩ đại mùa xuân năm 1975, đất nước ta chuyển từ chiến
tranh sang hòa bình. Xã hội Việt Nam có những chuyển biến sâu sắc trên mọi
phương diện, trong đó có văn học. Nếu như không khí thời chống Mỹ đã đem
9
đến khí thế hừng hực tranh đấu với tinh thần lạc quan và tinh thần chiến thắng
"Đã nghe gió ngày mai thổi lại/ Đã nghe hồn thời đại bay cao" (Tố Hữu) thì
giờ đây người nghệ sỹ phải đối diện với bao nhiêu vấn đề nóng bỏng, phức
tạp của cuộc sống thường nhật. Kiểu hiện thực chủ yếu đã được thay thế bằng
hiện thực thứ yếu, cái nhìn sử thi có xu hướng nhạt dần và tinh thần dân chủ
hóa trong văn học được đề cao. Chưa bao giờ, nhu cầu khẳng định cái tôi cá
nhân, đi tìm giọng điệu riêng lại da diết như lúc này. Các nhà thơ mỗi người
một lối rẽ riêng, bằng tài năng và nỗ lực đổi mới của mình đã tạo nên sự đa sắc,
đa giọng cho thơ sau 1975.
Những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, trong sự vận động của tư
duy thơ có hai mạch chính. Thứ nhất, cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối, bằng
chứng là sự ra đời của hàng loạt những trường ca mang ý nghĩa như những
bức tranh hoành tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Chỉ có
điều cái nhìn nghệ thuật đã có sự thay đổi. Nghĩa là cùng với âm hưởng hào
hùng, các nhà thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của con người. Điều
này ta có thể cảm nhận rõ khi so sánh những dòng thơ trong các trường ca của
hai giai đoạn văn học: Và cô gái biển đẹp xinh người vợ trẻ/ Ngày chiến thắng
về không có bóng anh/ Em hãy nhìn lên sắc cờ kiêu hãnh/ Có anh về ôm ấp
rặng dừa xanh (Bài ca chim Chơrao - Thu Bồn); Chị thiếu anh nên chị bị
thừa ra/ Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại/ Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui
một mình /Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi
xuân trong má lúm đồng tiền (Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh).
Bi kịch con người thời hậu chiến từng được văn học sau những năm 80
nhìn lại và khắc họa, đến trường ca Trần Anh Thái, ta càng thấu tận tâm can
cái giá của chiến thắng mà dân tộc phải trả là quá "đắt": đó là máu, nước mắt
và sự hy sinh, mất mát quá lớn. Để có "ngày về" bao nhiêu đồng đội đã phải
nằm lại, đã có bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu mối tình, bao nụ cười dang dở
10
Bởi vậy, trong những hồi tưởng về chiến tranh, không ít lần, trong sâu thẳm
cõi lòng nhà thơ run lên những câu thơ nhức nhối:
Cây vàng mã mua cất vào góc tủ
Chị sợ đốt rồi hương khói biết bay đâu
Rõ ràng, trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà
thơ đã quan tâm trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số
phận của đất nước được đo ướm bằng nỗi đau của cá nhân mà trường ca sau
1975 của Hữu Thỉnh, Trần Anh Thái là một ví dụ. Ở những trường ca sau này,
mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật cái tráng nhưng cái nhìn về chiến
tranh đã có độ sâu, gắn nhiều hơn với những suy tư cá nhân về số phận dân tộc
và số phận con người.
Cũng tương tự như thế, thơ ca sau 1975 nhìn nhận cái chết của người lính
không chú ý nhiều vào sự hồi sinh, thăng hoa theo cách hướng dẫn của cái
nhìn lãng mạn hóa mà còn trang bị thêm sức nặng của cảm giác mất mát, đau
thương, một "nỗi buồn chiến tranh" không dễ nguôi ngoai:
Chết không tuổi đã đành
Cái tên mẹ cũng đặt thành khói mây
Biết hồn xanh cỏ xanh cây
Vô danh vẫn cứ đắng cay lòng mình
(Ghi ở cõi Trường Sơn - Nguyễn Hữu Quý)
Thứ hai, là sự xuất hiện khá nhiều của "thơ đời thường" khoảng cuối
thập kỷ 70 và đầu những năm 80 thế kỷ XX. Chưa bao giờ các nhà thơ nhiều
bi kịch đến thế. Cảm giác bế tắc và chán nản là cảm giác khá nổi bật trong
tâm trạng nhiều người.
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi
(Tản mạn thời tôi sống - Nguyễn Trọng Tạo )
11
Lưu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào:
Gió hú ầm ào qua gạch vỡ
Người chết vùi thân dưới hố bom
Kẻ sống vật vờ không chốn ở
Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường
Một điều rõ ràng ta có thể nhận thấy, nhạt dần khuynh hướng sử thi thơ
bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến thế sự và đời tư. Một ý thức mới về thơ xuất
hiện. Nhà thơ "Lột hết ngôn ngữ bóng bẩy, những áo xống triều thần tụng ca"
(Thu Bồn), bỏ "khuôn phép câu thơ sáo mòn" để "tắm mình trong những suy
nghĩ trung thực" (Thanh Thảo). Các trạng thái ý thức xã hội phức tạp được
bộc lộ qua những sự thật tàn nhẫn: thua thiệt, khổ sở, đói nghèo, bất công, suy
thoái đạo đức, ước mơ lụi tàn đến các nghịch lí: lí tưởng - hiện thực, chiến
tranh - hòa bình, cũ - mới, đam mê - tuyệt vọng Đó là lí do vì sao đề tài thế
sự, đời tư trở thành một trong những khuynh hướng nổi bật, một mảng màu
đậm nét trong bức tranh thơ Việt Nam sau 1975. Cũng theo đó, các đối tượng
cảm xúc của thơ trữ tình được mở rộng, giọng tụng ca trữ tình chuyển sang
giọng triết lí, suy tư. Các nhà thơ đi sâu khám phá thế giới phức tạp và bí ẩn
của tâm hồn con người và cuộc sống hiện lên không mang màu lí tưởng.
Giọng tự thú, hoài nghi, giễu nhại tràn ngập phản ánh rõ tâm trạng trăn trở,
giằng xé của cái tôi đa trị, hướng nội.
Nhà thơ Inrasara đã táo bạo nhại thế giới mình đang sống:
Tôi sống trong cộng đồng mà mọi thứ đều lùi.
Những đám cây mọc lùi nhỏ dần vào hạt mầm, tận kiếp trước hạt mầm
Những ý tưởng nghĩ lùi về thời tiền sử, bản chép tay mọc thêm trang lật
lùi như thể hết làm thất lạc.
Ngôi nhà cô hàng xóm thuở bé thơ đổ nát được dựng lại
(Sống lùi)
12
Trần Anh Thái với những câu hỏi riết nóng của kẻ đi tìm mình:
Con đường nào tổ tiên tôi đi?
Họ đi theo đường nào?
Hạnh phúc ở đâu?
Hạnh phúc thật con người?
Quả thật, chỉ trong mười năm mà văn chương nói chung và thơ ca nói
riêng đã có bước thay đổi đáng kể về tư duy nghệ thuật.
1.1.1.2. Thơ sau 1986 và nỗ lực xác lập một tư duy nghệ thuật mới
Năm 1986, công cuộc đổi mới được khởi xướng. Đây là một sự kiện
trọng đại làm thay đổi cuộc sống nước ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng
sâu sắc. Thời kì này, thơ ca đã không ngần ngại mà dám đối mặt với nhiều sự
thật dù cho sự thật ấy có phần khắc nghiệt Theo đó cá tính sáng tạo của nhà
thơ cũng được giải phóng triệt để hơn. Họ phải làm mới văn chương cho phù
hợp với thời đại xã hội - xã hội với nền kinh tế thị trường đã làm cho cuộc
sống thay da đổi thịt nhưng không thể tránh khỏi những mai một của tình cảm
con người. Rõ ràng, bối cảnh lịch sử và văn hóa mới, với cả mặt tích cực và
tiêu cực của nó khiến các nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như một thiên
đường mà buộc họ phải tự thay đổi cho phù hợp. Và đương nhiên tư duy nghệ
thuật thơ giai đoạn này cũng thay đổi. Người đọc nhận thấy ba sự thay đổi sau:
Thứ nhất: Một cái nhìn duy lí và tỉnh táo. Công cuộc đổi mới của đất
nước đã tiếp sức cho khát vọng đổi mới trong văn chương nghệ thuật. Ý thức
tạo dựng một cái nhìn, một quan điểm nghệ thuật mới của nhiều nghệ sỹ thể
hiện rõ qua màu sắc duy lí "tỉnh táo, tỉnh bơ" nổi bật trong thơ. Cụ thể như thơ
ca không còn nhiều sự "ngọt ngào" thường thấy trong trong giai đoạn trước
đó, giờ đây người đọc bắt gặp những câu thơ trúc trắc, mang tính đối thoại
cao, giọng điệu thơ gần gũi với đời sống thường ngày; các nhà thơ bộc lộ rõ
cái nhìn tỉnh táo giàu chất suy tư. Vị thế của nhà thơ trong hoàn cảnh mới
13
cũng thay đổi. "Nhà thơ không phải là người rao giảng đạo đức hay minh họa
cho một tư tưởng sẵn có mà anh ta phải góp phần đánh thức những khát khao,
những niềm trắc ẩn của con người trên cơ sở trình bày cảm nhận của mình về
các giá trị" [10].
Thứ hai: Khám phá chiều sâu bản ngã và truy tìm những giá trị mới.
"Đây là lý do nhiều tác phẩm xuất hiện cảm hứng "giải thiêng" và khát vọng
muốn tìm đến những hình thức tổ chức ngôn từ mới lạ" [10]. Nghĩa là các nhà
thơ thời kỳ này đã không ngần ngại khi làm cho sự vật, hiện tượng trở nên
bình thường như vốn có hay cụ thể hơn mọi sự vật, hiện tượng nên được đặt
tên và gọi đúng tên, một khi con người đã xác định đúng bản chất vốn có của
nó. "Giải thiêng" không chỉ là trả lại sự vật, hiện tượng tính đúng đắn của nó
mà còn giúp con người thoát khỏi những "vỏ bọc", thoát khỏi sự huyễn hoặc
mình. Ngoài ra, các nhà thơ thời kỳ này còn chú ý nhiều đến tính đa nghĩa,
nhiều tầng của ngôn ngữ thơ ca. Thơ trở nên gần gũi với đời sống, các hình
ảnh thơ, ngôn ngữ thơ trở nên mờ nhòe, độ mở của hình tượng được nâng lên.
Bằng nhiều chiều liên tưởng văn hóa khác nhau, người đọc phải tự mình "giải
mã các sinh thể nghệ thuật" [10].
Thứ ba: Sự đề cao vai trò của ngôn ngữ. Có lẽ chưa bao giờ thơ ca có
điều kiện giao lưu, hội nhập rộng rãi như lúc này. Và như một điều tất yếu sản
phẩm của quá trình giao lưu, hội nhập sẽ xuất hiện. Người ta thấy trong thơ
những giọng "lạ", đậm chất "Tây" mà tiêu biểu là thơ của các nhà thơ như
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Tấn Phong "Các cây bút này
có ý thức phá vỡ các chiều tuyến tính, tạo nên các dòng chảy đứt nối và gia
tăng tính đồng hiện của các hình ảnh thơ hoặc cố gắng tỉnh lược các mối quan
hệ bề nổi, đặt các hiện tượng khác nhau bên cạnh nhau và buộc người đọc tự
xác lập mối liên hệ giữa chúng" [10].
14
1.1.2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người
1.1.2.1. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực
Văn học bao giờ cũng mẫn cảm với không khí tinh thần, với nhu cầu thời
đại. Qua nhà thơ, người ta thấy thời đại mà anh ta đang sống. Vì thế, người
nghệ sỹ phải cố gắng nắm bắt, thể hiện những biến đổi và những dòng mạch
đang diễn biến trong ý thức xã hội.
Giai đoạn 1945 - 1975 là một giai đoạn văn học khá đặc biệt. Hiện thực
được phản ánh trong thơ ca giai đoạn này gắn bó chặt chẽ với cuộc kháng
chiến trường kỳ của dân tộc, với âm vang hào khí thời đại. Con người Việt
Nam sống với một lí tưởng son sắt, một niềm tin vững chãi "Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu). Chiến tranh đã
đặt ra cho dân tộc và con người sự lựa chọn khốc liệt: sống - chết, được - mất,
thắng - bại, tự do - nô lệ Sự lựa chọn giản dị mà tất yếu đó là tranh đấu đến
cùng để bảo tồn sự sống, để giữ gìn dáng núi hình sông và bản sắc văn hóa
ngàn đời. Đặc biệt ở những năm đầu thập kỷ 60, đất nước ta bắt tay vào công
cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước, con người Việt Nam càng tỏ rõ khí phách hào hùng, tin
tưởng vào một tương lai tươi sáng phía trước. Hiện thực tươi đẹp này đã cho
ra đời một nền văn học kháng chiến mang đậm tính sử thi. Nhìn chung, đó là
một hiện thực vận động xuôi chiều và lạc quan, màu sắc bi tráng ít được nói tới.
Chiến tranh đã đi qua, sau niềm vui ngây ngất của chiến thắng, hòa bình,
con người trở về với đời thường, phải đối diện với bao khó khăn, phức tạp, bề
bộn và cả những ngang trái, bất công ngày càng nặng nề. Cái mặt trận mới
không có tiếng súng nhưng không hề kém phần gay gắt, dữ dội. Điều này
khiến thơ ca sau 1975 không chỉ dừng lại ở phản ánh mà còn nghiền ngẫm
hiện thực. Trước đây, hoàn cảnh chiến tranh không cho phép họ khám phá tận
cùng sự phức tạp, bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của
15
thời đại, do nhu cầu tự thân của hoạt động sáng tạo, hiện thực đời sống đi vào
văn chương vẹn nguyên sự đa chiều của nó, được soi sáng, cày xới cả những
phần khuất lấp, mờ tối. Con người thoát khỏi hiện thực hào quang của quá
khứ, dũng cảm đối mặt với các vấn đề phức tạp mà cuộc sống đặt ra hàng
ngày, hàng giờ: chiến tranh, hủy diệt, môi trường, bệnh tật, nghèo đói, suy
thoái, toàn cầu hóa Những xáo trộn của hiện thực đã đem đến cho bức tranh
xã hội hỗn độn những mảng màu tối sáng. Nhiều nhà thơ đã không ngần ngại
đối diện và phơi bày hiện thực xã hội với nhiều mặt trái vốn trước đây bị hào
quang che khuất. Chưa bao giờ hiện thực thời hậu chiến được nói nhiều đến
thế. Đó là hình ảnh người lính trở về sau mười năm chiến tranh, gặp cơn mưa
ngoài trời và cả trong căn nhà mái dột lỗ chỗ: "Chỗ nằm chỉ còn đủ độ dài hai
chiếc cột, chiều rộng bằng khuôn chiếc tăng". Những lỗ thủng ấy cũng là
những viên đạn mà hôm nay người lính phải hứng chịu:
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp vào anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả,
Vẫn anh
(Ngày hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc)
Nguyễn Duy khi Nhìn từ xa Tổ quốc, đau xót và thẳng thắn chỉ ra
những nghịch cảnh của đất nước trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng sau
chiến tranh:
Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày / Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma/ Ma
quái - ma cô - ma tà - ma mãnh / Quỷ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài /
Xứ sở thông minh / Sao thật lắm trẻ con thất học/ Lắm ngôi trường xơ xác đến
tang thương Tiếp tục viết về cuộc sống sau chiến tranh, nhà thơ Phùng Khắc
16
Bắc không dấu nổi cái nhìn vừa bề bộn hiện thực vừa dồn nén tâm trạng của
mình. Anh xót xa khái quát: "Chiến tranh như máy ủi/ Chiến tranh thù văn
minh" hay như "Chiến tranh - tan những gia đình". Nhà thơ đã không tô vẽ,
thổi phồng nỗi đau, anh chỉ đưa ra những hiện thực dữ dội, trần trụi. Anh nói
về những người lính trong cuộc chiến đã vĩnh viễn đi vào cõi âm: Có người
còn nguyên hình/ Có kẻ cụt chân, có người thiếu ngón/ Người thủng đầu,
người xơ gan, nát ngực/ Có người chỉ còn là một cục thịt (Ra đi). Trong
Ngày đang mở sáng, Trần Anh Thái viết: Màn đêm lặng phắc bãi chiến
trường Xác quân thù xác bạn gục vào nhau. Trong Trường ca Biển của
Hữu Thỉnh, ánh hào quang của hình tượng người lính cũng mờ dần thay vào
đó là sự đau xót cho thân phận với những thiệt thòi, mất mát về vật chất và
tinh thần sau chiến tranh: Ngày anh về/ Lúa đồng cúi hạt/ Nước mắt đi trước
người/ Mộ anh đặt nơi chăn trâu thuở nhỏ/ Cỏ đeo sương/ Đường kẻ vấp/
Mãn tang anh chị vẫn chưa già. Còn Lưu Quang Vũ thì không nén nổi sự bức
bối trước một hiện thực cơm áo gạo tiền vất vả, thiếu thốn kéo dài: Những
năm khó khăn/ Hè phố đầy hầm, đường đầy khẩu hiệu/ Quần áo và mặt người
màu cỏ héo/ Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà (Viết lại một bài thơ Hà Nội).
Rõ ràng, đó không còn là một hiện thực "vô trùng", "trong suốt" mang màu lý
tưởng hóa, nó càng không phải là một "thiên đường trên mặt đất" mà là một
mặt đất thực sự với bao thử thách khắc nghiệt. Vâng, hiện thực đó có thể ngặt
nghèo song không thể khác được. Và, thơ ca sau 1975 đã nảy mầm trên mảnh
đất ấy.
1.1.2.2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
Lịch sử văn học là lịch sử của những quan niệm khác nhau về con
người. Văn học chiến tranh đã tạo dựng thành công kiểu con người sử thi,
biểu trưng cho cộng đồng. Đó chủ yếu là con người hiện thực, con người hành
động, con người xã hội, con người giai cấp, con người cộng đồng và con
17
người phi thường Cuộc kháng chiến với tinh thần cơ bản của lịch sử là
chiến thắng kẻ thù của dân tộc bằng bất kỳ giá nào đã đem lại cho con người
vẻ đẹp lý tưởng mà nói như A. Niculin, nhân vật được "tắm rửa sạch sẽ và
bao bọc trong bầu không khí vô trùng". Mỗi gương mặt đều là những anh
hùng lí tưởng, đẹp như những viên ngọc không một chút tỳ vết. Con người
hòa mình vào nhân dân, cộng đồng, đắm mình trong bản anh hùng ca của thời
đại. Con người ý thức rõ vị trí của mình khi sống trong một bối cảnh tinh thần
đặc biệt Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt (Chế
Lan Viên) thì Cái tinh tế cỏ hoa tạm thời chưa nghĩ đến (Chế Lan Viên) và
nếu có "tự hát" thì cũng rất ý thức Nhưng giọng anh đơn lẻ/ Sánh sao bằng
đồng ca (Phạm Tiến Duật). Họ còn ý thức rất cao về sứ mệnh của mình, vui
vẻ, tự nguyện hóa thân cho dáng hình xứ sở (Nguyễn Khoa Điềm), say mê,
náo nức Đường ra trận mùa này đẹp lắm (Phạm Tiến Duật) và sẵn sàng dấn
thân để đất nước nở hoa chiến thắng:
Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
Hay với Thu Bồn:
Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác
Dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình
Nhìn chung, con người luôn trùng khít với địa vị xã hội của mình và luôn
ở trạng thái đơn trị, nhất phiến.
Văn học sau 1975 phát triển trong tình hình mới. Giờ đây, với nhà văn,
cuộc sống đã mở ra những triển vọng cao hơn cùng những đòi hỏi lớn hơn.
Để đáp ứng những nhu cầu thẩm mĩ mới của công chúng, văn chương trong
đó có thơ ca cần trở về với đặc trưng vốn có của mình, cần tuân thủ những
18
"quy luật muôn đời" là đổi mới. Trong đó có việc hướng đến khám phá và tạo
dựng con người thế sự - đời tư, con người cá nhân với những phức tạp và bí
ẩn của nó. Con người được nhìn ngắm từ nhiều tọa độ nên nhiều chiều, đa
nhân cách. Cùng với con người hiện thực, con người hành động, con người xã
hội, con người giai cấp, con người cộng đồng và con người phi thường, trong
thơ còn có con người siêu việt, con người tâm linh, con người tự nhiên, con
người nhân loại, con người cá thể và con người đời thường
Rõ ràng, thơ ca thời kỳ này có xu hướng nhạt dần tính sử thi, chuyển
hướng quan tâm nhiều hơn đến số phận, đời tư, đời thường. Công chúng đòi
hỏi văn học nghệ thuật phải phản ánh được hiện thực đời sống hàng ngày,
những quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, đa sự, phức tạp, chằng chịt, được đan
dệt bởi những mạch nổi, mạch ngầm. Con người được phản ánh trong thơ ca
giai đoạn này là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân, con người đan cài,
chen lẫn giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên
thần và quỷ dữ, cao cả và tầm thường trong một thế giới tạp âm và nghịch lí.
Nghiêm Huyền Vũ ngậm ngùi, trăn trở với cảnh ngộ "người lính trở về" từ
vòng hào quang của quá khứ và chạm mặt với cuộc sống đời thường:
Người lính trở về đời thường, thân quen và lạ lẫm
Hơi thở lạnh lẽo của cái chết sau lưng
Cái nhìn nghiệt ngã của cuộc đời trước mắt
(Người lính trở về)
Những "Thạch Sanh của thế kỷ XX" đã tạm quên ảo ảnh của ánh hào quang
lấp lánh, tự ý thức về chỗ đứng của mình trong đời thường:
Ta là đất đai thôi, xin đừng nặn ta thành những tượng
thần
Xin đừng nặn ta thành những núi cao
(Thu Bồn)
19
Ngay cả trong lĩnh vực tình yêu thì thứ tình cảm đẹp như mơ của thời chiến
cũng nhường chỗ cho sự âu lo, thấp thỏm trước những đổi thay biến suy của
đời người và lòng người:
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay?
( Hoa cỏ may - Xuân Quỳnh)
1.1.3. Những khuynh hướng mới trong thơ
Một nền thơ ca được đánh giá là giàu đẹp, phong phú đương nhiên là
phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Một trong những tiêu chí quan trọng đó là nhiều
khuynh hướng nghệ thuật. Và, sự phong phú của nền văn học còn ở chỗ, một
tác giả cũng có thể thử sức trên nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau.
Chính điều đó đã góp phần tạo nên tính đa dạng của đời sống thơ ca nói
chung và làm nên tính đa dạng ngay trong bút pháp nghệ thuật của mỗi nhà
thơ nói riêng. Văn học sau 1975 đã chứng minh điều này qua một số khuynh
hướng cơ bản sau:
1.1.3.1. Sự phai nhạt của cái nhìn sử thi và những khúc ca bi tráng về đất
nước và con người
Chiến tranh đã đi qua, các nhà thơ có một khoảng thời gian nhất định để
nhìn về cuộc chiến bằng cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn. Nghĩa là nếu chiến
tranh trước đây được nhìn từ mặt trước thì bây giờ nó được cảm nhận cả từ
phía sau. Ở phía này các nhà thơ không chỉ thấy cái huy hoàng của nó mà
thấy cả cái đau đớn, mất mát, xót xa nhức nhối khó lành. Và như vậy giọng
điệu ngậm ngùi, nỗi buồn được nói nhiều trong thơ, đặc biệt là trong những
tập trường ca. Thu Bồn miêu tả những khó khăn gian khổ của người chiến sĩ:
Trận mùa khô đánh Mỹ
Quân ta thiếu cơm, thiếu súng, thiếu cả người
(Bazan khát - Thu Bồn)
20
Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh người lính trong trận sốt rét:
Trận rét rừng xoắn tím cả môi
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Hình ảnh người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo hiện lên chân
thực với bao vất vả, thiếu thốn và sự hoành hành của bệnh tật nơi rừng thiêng
nước độc:
Bao chiến sĩ tựa vào cây khi lên cơn sốt
Cánh rừng rung lên nhận cơn sốt về rừng
(Con đường của những vì sao)
Và đau thương, mất mát luôn hiện hình trong từng phút giây của cuộc sống:
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại
Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình
Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Hay như trong trường ca Trầm tích của Hoàng Trần Cương:
Có người lính mãn thời trai trẻ
Người yêu
Giờ đã lấy chồng
Con búp bê mở mắt tròn xoe
Suốt ngày khóc trên tay con của người yêu cũ
Rõ ràng, từ điểm nhìn hiện tại, các nhà thơ đã phóng chiếu cái nhìn
sâu, xa về lịch sử đất nước - một lịch sử oai hùng nhưng phía sau thì không ít
nỗi đau thương, những bi kịch, những "nỗi buồn chiến tranh". Có thời gian để
suy ngẫm, đủ bình tĩnh và bản lĩnh để bày tỏ, các nhà thơ thời kỳ này không
dễ dàng tung hô, ca tụng mọi thứ mà thể hiện những suy ngẫm sâu sắc của