Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Thế giới nghệ thuật truyện ngắn lê minh khuê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.7 KB, 127 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2






CAO THỊ THU HIỀN






THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ




Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 01 20




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG







HÀ NỘI, 2014




LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ
lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Đoàn
Đức Phƣơng – Trƣởng Khoa Văn học – Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - ngƣời thầy đã tận tâm
hƣớng dẫn em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô giáo Phòng sau Đại
học – Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã quan tâm giúp
đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Sau cùng, tôi xin chia sẻ thành công nhỏ bé của mình
với bạn bè, đồng nghiệp cùng gia đình – những ngƣời đã
luôn cùng tôi, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình!
Đông Anh, ngày tháng năm 2014

Ngƣời thực hiện


Cao Thị Thu Hiền


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn


Cao Thị Thu Hiền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 6
5. Cấu trúc của luận văn 7
6. Đóng góp của luận văn 7
Chƣơng 1. KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ SÁNG TÁC
CỦA LÊ MINH KHUÊ 8
1.1. Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật 8

1.2. Sáng tác của Lê Minh Khuê 11
1.2.1. Hành trình sáng tác 11
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê 14
1.2.2.1. Khái niệm 14
1.2.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về hiện thực cuộc
sống 15
1.2.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về con nguời 17
Chƣơng 2. CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ
MINH KHUÊ 21
2.1. Những bức tranh cuộc sống 21
2.1.1. Những vấn đề của thời chiến 21
2.1.2. Những vấn đề của thời hậu chiến 23
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê 27
2.2.1. Khái niệm nhân vật và phân loại nhân vật 27
2.2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê 29
2.2.2.1. Nhân vật lý tƣởng 31

2.2.2.2. Nhân vật tự ý thức 38
2.2.2.3. Nhân vật tha hóa 41
2.2.2.4. Nhân vật cô đơn 46
2.2.2.5. Nhân vật bi kịch 48
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN 54
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật 54
3.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật 54
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê 54
3.1.2.1. Đối thoại 54
3.1.2.2. Độc thoại nội tâm 59
3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 64
3.2.1. Khái niệm cốt truyện 64
3.2.2. Các kiểu tổ chức cốt truyện 66

3.2.2.1. Cốt truyện lồng ghép 66
3.2.2.2. Cốt truyện giản lƣợc 69
3.2.2.3. Cốt truyện sự kiện - tâm lý 73
3.2.3. Diễn trình cốt truyện 76
3.3. Phƣơng thức trần thuật 85
3.3.1. Ngƣời trần thuật 87
3.3.1.1. Trần thuật theo ngôi thứ ba 87
3.3.1.2. Trần thuật theo ngôi thứ nhất 90
3.3.1.3. Sự luân phiên các ngôi kể 94
3.3.2. Cách trần thuật 96
3.3.2.1. Giọng điệu trần thuật 96
3.3.2.2. Nhịp điệu trần thuật 105
3.3.2.3. Cách kể, tả 110
KẾT LUẬN 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thế giới nghệ thuật là một trong những phạm trù quan trọng của
thi pháp học hiện đại. Chính vì vậy, nghiên cứu thế giới nghệ thuật là nghiên
cứu văn học ở góc độ thi pháp, tránh đƣợc những cách tiếp cận không phù
hợp tác phẩm văn học cả về nội dung và hình thức. Bởi vậy, thế giới nghệ
thuật không chỉ là chỉnh thể của hình thức cụ thể, trực quan, cảm tính mà là
hình thức mang tính quan niệm về thế giới và con ngƣời của nhà văn.
1.2. Văn học Việt Nam sau năm 1975 thực sự có nhiều khởi sắc. Những
đóng góp cả về phƣơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học
giai đoạn này đã khẳng định những bƣớc chuyển mạnh mẽ của văn học nƣớc
nhà. Việc xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ đã tạo nên sự phong phú,

đa dạng cho văn xuôi giai đoạn này nhƣ Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng
Anh, Y Ban, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê… đặc biệt là với thể loại truyện ngắn.
Trong số rất nhiều tác phẩm truyện ngắn, Lê Minh Khuê đƣợc đánh giá
là “một cây bút truyện ngắn sung sức”, có quá trình và có nhiều tìm tòi, đổi
mới nghệ thuật. Với hơn 40 năm sáng tác, Lê Minh Khuê là một trong số
không nhiều tác giả chuyên tâm viết truyện ngắn và thực sự có nhiều duyên
nợ với thể loại này.
Bắt đầu cầm bút từ những năm cuối thập niên 60, thế kỷ XX, và viết
khỏe cho đến tận hôm nay, sáng tác của Lê Minh Khuê vắt ngang qua hai thời
kỳ văn học, trƣớc và sau 1975. Mỗi tập truyện ngắn của chị ra đời đều đánh
dấu những đổi mới quan trọng trong từng chặng đƣờng sáng tác. Ở chặng
đƣờng nào, Lê Minh Khuê cũng để lại dấu ấn riêng, đậm chất nữ tính trong
cách, cách nghĩ và đặc biệt trong những thể nghiệm tìm tòi, đổi mới hình thức
nghệ thuật. Trên hành trình sáng tác của mình, tuy có những lúc khó khăn và
vấp váp song Lê Minh Khuê cũng gặt hái đƣợc khá nhiều thành công. Bà


2
giành giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam với tập Một chiều xa thành phố
năm 1987 và tập Trong làn gió heo may năm 2000. Năm 1994, bà giành giải
thƣởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội với tập Bi kịch nhỏ. Điều đó chứng
tỏ giới nghiên cứu và bạn đọc trong nƣớc đã có những đánh giá, ghi nhận
xứng đáng với lao động nghệ thuật của Lê Minh Khuê.
Bên cạnh đó, nhiều truyện ngắn tiêu biểu của Lê Minh Khuê đã đến với
bạn đọc thế giới. Tập truyện Những ngôi sao, trái đất, dòng sông đƣợc giải
thƣởng liên hoan thƣờng niên mang tên văn hào Byeong – ju Lee của Hàn
Quốc (2008). Trong thông báo gửi tới Hội nhà văn Hà Nội, Hội đồng giải
thƣởng nhận định: “Là một nhà văn nữ hàng đầu, Lê Minh Khuê ban đầu
được biết đến bằng những tác phẩm viết về các cô gái tham gia cuộc chiến
tranh giữ nước, tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến

tranh nước mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và
tình trạng xói mòn văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển sang một xã hội
tiêu thụ. Những vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót,
trang nghiêm”. Cuốn sách này cũng đã đƣợc nhà xuất bản Curbstone Press
(Mỹ) phát hành. Nó trở thành “…cuốn sách đầu tiên trong chùm những tác
phẩm “Tiếng nói từ Việt Nam”…” đem những hình ảnh về đời sống hiện thực
và thế giới tâm hồn con ngƣời Việt Nam đến gần hơn với bạn bè năm châu,
đặc biệt là ở nƣớc Mỹ. Hơn thế, tác giả Rochelle L.Holt của báo The Pilot còn
khẳng định: “Đây là những truyện nên được dạy trong những giờ văn học và
lịch sử trên toàn nước Mỹ, cả ở trường trung học phổ thông lẫn đại học”; bởi
tác giả “đã cho độc giả một cái nhìn sâu sắc và trung thực hiếm hoi về Việt
Nam” (Báo The Colombus Dispatch). Nhƣ vậy, tuy không phải cây bút mở
đƣờng cho văn học thời kỳ đổi mới nhƣ Nguyễn Minh Châu hay một hiện
tƣợng văn học gây nhiều tranh cãi nhƣ Nguyễn Huy Thiệp nhƣng Lê Minh


3
Khuê thực sự là một tác giả truyện ngắn nữ có quá trình, có nội lực, sức bền
và có triển vọng “có thể đi xa”.
1.3. Với đề tài này, ngƣời viết có cơ hội hiểu thêm về thế giới nghệ
thuật của một nhà văn đƣơng đại. Từ đó, chúng ta có thể hình dung những vấn
đề về sự vận động thể loại truyện ngắn trƣớc và sau năm 1975, có cái nhìn
khái quát về truyện ngắn thời kỳ đổi mới. Khóa luận góp thêm cơ sở vững
chắc hơn đối với việc đánh giá tài năng, phong cách nghệ thuật và vị trí văn
học của nhà văn Lê Minh Khuê trong nền văn học Việt Nam. Bên cạnh đó,
trong quá trình thực hiện đề tài, ngƣời viết đƣợc củng cố bổ sung những kiến
thức lịch sử văn học phục vụ cho công tác giảng dạy.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài Thế giới nghệ thuật truyện
ngắn Lê Minh Khuê.
2. Lịch sử vấn đề

Lê Minh Khuê tỏ rõ là một cây bút truyện ngắn có nội lực, sức bền và
để lại ấn tƣợng khá đậm trong lòng độc giả với nhiều truyện ngắn đã ra mắt,
đặc biệt là tập truyện Bi kịch nhỏ, dƣ luận đã có rất nhiều những ý kiến đánh
giá trái chiều, khen chê đều mạnh mẽ. Dƣới đây là tóm lƣợc những ý kiến
khác nhau của các tác giả - những nhà nghiên cứu, phê bình văn học – về
truyện ngắn Lê Minh Khuê đƣợc đăng trên các báo và tạp chí nhà chúng tôi
đã sƣu tầm đƣợc.
Ngay khi tập truyện ngắn thứ ba trong đời văn Lê Minh Khuê, Một
chiều xa thành phố, ra đời, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã nhận diện
đƣợc những điểm tiêu biểu trong văn phong của bà: “Văn của Lê Minh Khuê,
ngay từ đầu đã có một vẻ gì đó “hoang dã”, phải nói ngay là kiểu viết như
thế này lộ rất rõ chất văn của chị” và “Đọc văn Lê Minh Khuê, chúng ta thấy
khi viết dường như chị tựa hẳn vào những ấn tượng, cảm giác. Những ấn
tượng này là mơ hồ, nhiều khi khó hiểu, cứ bảng lảng thành thử câu văn gợi


4
nhiều những liên tưởng. Lối viết này là do cách cảm nhận đời sống bằng trực
giác” [92, tr.3].
Trong bài viết “Lê Minh Khuê, một bản lĩnh truyện ngắn”, tác giả Bùi
Việt Sỹ đã viết: “Có không ít tác giả, sau một vài truyện ngắn thành công ban
đầu đã từ biệt thể loại này để quay sang viết tiểu thuyết. Phải, tiểu thuyết,
những tập sách “có gáy” dường như dễ làm người viết nổi tiếng hơn? Nhưng
với Lê Minh Khuê, từ lúc cầm bút đến nay, đã ngoài 20 năm, chị vẫn chung
thủy với truyện ngắn” [89].
Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh khẳng định những truyện ngắn đầu
tay của Lê Minh Khuê “đã hình thành một dáng vẻ riêng” và “Lê Minh Khuê
là một cây bút nữ có nhiều đóng góp về truyện ngắn. Từ hồn nhiên, trong trẻo
đến sắc sảo nghiêm ngặt, chị luôn có một chất giọng riêng. Chị đi vào một số
mặt trong cuộc sống, chú ý nhiều đến đạo đức, nhân sinh, nhân tình thế thái

… Việc đối mới bút pháp những năm gần đây là dấu hiệu đáng mừng. Lê
Minh Khuê là một cây bút nữ tài năng và đang rất sung sức” [26].
Bên cạnh những ý kiến khen ngợi, đồng cảm, truyện ngắn Lê Minh
Khuê, mà cụ thể là tập Bi kịch nhỏ cũng nhận không ít những ý kiến trái
chiều về mặt chính trị quan điểm, đƣờng lối, tƣ tƣởng. Năm 1993, khi tập
truyện ngắn Bi kịch nhỏ ra đời, ngay lập tức đã thu hút nhiều ý kiến khác
nhau. Nhiều ý kiến trái chiều khen có, chê có. Nhóm những ngƣời phê phán,
thậm chí phản đối dữ dội tác phẩm này cho rằng: “Dụng ý bôi đen, bóp méo
sự thật của tác giả thật rõ ràng” [80]; “Với truyện này, tác giả viết ra từ lòng
u uất, chất chứa những cay đắng bất bình, chủ quan, một chiều, chỉ thấy màu
xám, cái u tối, không hề cho người đọc thấy được một mảng sáng nào dù le
lói ở cuối đường”, “một vài hình ảnh bộ đội, công an, nhất là tầng lớp trí
thức (…) tôi cho rằng tác giả cường điệu, bóp méo” [91]; tác phẩm “bôi


5
nhem con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam với lối miêu tả, so sánh vừa tinh
vi vừa trắng trợn”, “tô đậm lẽ sống chạy theo đồng tiền” [99] v.v…
Bên cạnh những ý kiến phê phán, nhiều tác giả khác có cái nhìn khách
quan, công tâm hơn với Bi kịch nhỏ. Bùi Việt Sỹ xem Bi kịch nhỏ là tập
truyện đã “gây ấn tượng mạnh”; trong đó “chín truyện ngắn, chín truyện khác
nhau nhưng mang một nỗi buồn nghẹn ngào của tác giả trước nỗi đau của
thân phận con người”. Hồ Anh Thái cho rằng: “Đến tận lúc ý thức được cái
ác mà kẻ ác vẫn tiếp tục làm điều ác, vậy thì nó đáng bị truy đuổi tận cùng, và
thái độ không khoan nhượng của tác giả nhận được sự đồng tình của người
đọc”. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên tỏ ra đồng tình với cách thể hiện
của Lê Minh Khuê trong Bi kịch nhỏ với quan niệm “quá khứ phải nhìn
thẳng vào nó để nó không còn cơ hội lặp lại theo chiều hướng xấu, chiều
hướng ác…” và Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê là một cố gắng của bà, của
thể loại truyện ngắn và của văn học hôm nay đi tìm lại lịch sử qua thân phận

con ngƣời.
Qua những ý kiến và đánh giá nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy ở
một số chừng mực nào đó, những bình luận này chỉ dừng lại ở những khía
cạnh nội dung, tƣ tƣởng mà chƣa đi sâu vào vấn đề nghệ thuật. Nhà văn Hồ
Anh Thái cho rằng: “Lê Minh Khuê không chỉ quan tâm đến hiện thực mà chị
phản ánh, chị quan tâm nhiều hơn đến cách trình bày hiện thực đó. Chị rất có
ý thức nói bằng giọng của mình – tiết chế, đôi khi chủng chẳng khô khan,
nhưng đầy hàm ý. Chị rất chú trọng cái nhìn hiện thực của mình – điềm tĩnh,
cuộc sống diễn ra trước mắt như một cuốn phim đang xem trong rạp” [90].
Chính bởi lẽ đó, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi muốn dành nhiều
thời lƣợng cho các vấn đề có liên quan tới thế giới nghệ thuật truyện ngắn
Lê Minh Khuê.


6
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn hƣớng tới mục đích tìm ra đƣợc
những điểm mới, những sáng tạo và đóng góp của Lê Minh Khuê trong dòng
chảy truyện ngắn, từ đó khẳng định vị trí và vai trò của Lê Minh Khuê đối với
văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng khảo sát chính là thế giới nghệ
thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê: bức tranh cuộc sống, thế giới nhân vật, các
phƣơng diện nghệ thuật đặc sắc.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của nhà
văn Lê Minh Khuê qua từng chặng sáng tác, đƣợc tập hợp trong các tập:
+ Cao điểm mùa hạ - NXB Quân đội nhân dân, 1978
+ Đoạn kết – NXB Phụ nữ, 1981
+ Một chiều xa thành phố - NXB Tác phẩm mới, 1986
+ Bi kịch nhỏ - NXB Hội nhà văn, 1993
+ Trong làn gió heo may – NXB Văn học, 1999

+ Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa – Truyện ngắn chọn lọc –
NXB Phụ nữ, 2002
+ Màu xanh man trá – NXB Phụ nữ, 2005
+ Một mình qua đường – NXB Hội nhà văn, 2006
+ Nhiệt đới gió mùa – NXB Hội nhà văn, 2012
+ Lê Minh Khuê – Truyện ngắn chọn lọc – NXB Thanh niên, 2013
Ngoài ra, chúng tôi khảo sát một số truyện ngắn và tiểu thuyết của Lê
Minh Khuê đăng rải rác trên các báo và tạp chí.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các
phƣơng pháp sau:


7
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng
để tìm hiểu sánh tác của Lê Minh Khuê dƣới góc độ thi pháp nhằm làm rõ đặc
trƣng thể loại của tác phẩm.
- Phương pháp tiểu sử: Chúng tôi tìm hiểu tiểu sử nhà văn Lê Minh
Khuê để phục vụ cho việc đi sâu vào tác phẩm của bà.
- Phương pháp so sánh: Chúng tôi so sánh truyện ngắn của Lê Minh
Khuê với các nhà văn khác để thấy đƣợc điểm khác biệt và đặc trƣng trong
sáng tác của Lê Minh Khuê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phƣơng pháp này vừa đi sâu
nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê, vừa hệ thống, tổng
hợp các kết quả để minh chứng cho các luận điểm của luận văn.
- Phương pháp thống kê: Phƣơng pháp này giúp phân loại các đặc
điểm nổi bật về nội dung, các kiểu dạng nhân vật và các phƣơng thức nghệ
thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thƣ mục tham khảo, nội dung của

luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật và sáng tác của Lê Minh
Khuê
Chƣơng 2: Cuộc sống và con ngƣời trong truyện ngắn Lê Minh Khuê
Chƣơng 3: Phƣơng thức biểu hiện
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nhằm làm rõ những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn
Lê Minh Khuê, từ đó khẳng định tài năng, vị trí và những đóng góp của Lê
Minh Khuê trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.


8
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
VÀ SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ
1.1. Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật
Những năm trƣớc 1970, sáng tác của nhà văn thƣờng đƣợc nhìn nhận
nhƣ một tập hợp đơn giản của các bộ phận, các mảng rời. Thực tế, các tác
phẩm của nhà văn tạo thành một thể thống nhất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ
gắn bó, chặt chẽ nhƣ một sinh thể. Những năm 70 của thế kỷ XX, ở Nga xuất
hiện khái niệm thế giới nghệ thuật qua các công trình nghiên cứu văn học.
Khái niệm này xuất hiện từ yêu cầu muốn tiếp cận tác phẩm văn học trong
dạng chỉnh thể. Thế giới nghệ thuật đƣợc tiếp cận ở các góc độ khác nhau.
Từ xƣa, ngƣời Trung Quốc đã gọi tác phẩm thơ là “một cõi ý”. Nhà văn
Seđrin lại nói: “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm nghệ
thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó”. Nhƣ vậy, một tác phẩm
toàn vẹn phải xuất hiện nhƣ một thế giới nghệ thuật. Bielinxki cũng đã nhận
xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi vào đó thì
ta buộc phải sống theo quy luật của nó”. Những nhận xét trên cho thấy: Mọi
thế giới nghệ thuật là tổng thể có quy luật riêng, có tính độc lập nội tại, phân

biệt với các thế giới khác và có ý nghĩa riêng của nó.
Ở Việt Nam, năm 1997, các tác giả cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học”,
đã định nghĩa: Thế giới nghệ thuật là “Khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng
tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác
giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật
là một thế giới riêng, được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật,
khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù
là nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời
gian riêng, quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức,


9
thang bậc giá trị riêng… chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ
thuật” [25, tr.244].Chẳng hạn trong thế giới truyện cổ tích, con ngƣời và loài
vật, cây cối, thần Phật đều nói chung một thứ tiếng ngƣời, đôi hài có thể đi
một bƣớc vài dặm, nồi cơm vô tận ăn mãi không hết trong truyện Thạch
Sanh… Trong văn học lãng mạn, quan hệ nhân vật thƣờng xây dựng trên cơ
sở cảm hóa; trong văn học cách mạng, nhân vật thƣờng chia thành hai tuyến
địch – ta, ngƣời chiến sĩ cách mạng và quần chúng. Nhƣ thế, mỗi thế giới
nghệ thuật có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới. Sự hiện
diện của thế giới nghệ thuật không cho phép đánh giá và lý giải tác phẩm theo
lối đối chiếu giản đơn giữa các yếu tố hình tƣợng với các sự thực đời sống
riêng lẻ, xem có “giống” hay không, “thật” hay không, mà phải đánh giá trong
chỉnh thể của tác phẩm, xem xét tính chân thật của tư tưởng chỉnh thể của tác
phẩm so với chỉnh thể hiện thực. Các yếu tố của hình tƣợng chỉ có ý nghĩa
trong thế giới nghệ thuật của nó.
Mỗi thế giới nghệ thuật ứng với một quan niệm về thế giới, một cách
cắt nghĩa về thế giới. Trong thần thoại, thế giới nghệ thuật gắn với quan niệm
về các sự vật có thể biến hóa lẫn nhau. Trong truyện cổ tích, đặc biệt là cổ
tích thần kỳ, nó gắn với quan niệm về thế giới không có sức cản. Thế giới

nghệ thuật của sáng tác hiện thực chủ nghĩa gắn với quan niệm tác động
tƣơng hỗ giữa tính cách và hoàn cảnh… Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta
hình dung độc đáo về tƣ duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật có cội nguồn
trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của
nghệ sĩ.
Trong cuốn Thơ tình Việt Nam 1975 – 1990 (1998), Lê Lƣu Oanh đã
chi tiết hóa khái niệm này qua hình tƣợng cái tôi trữ tình. Tác giả viết: “Gọi
cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật bởi thế giới nội cảm này là một thể
thống nhất có ngôn ngữ và quy luật riêng phụ thuộc vào lịch sử cá nhân, thời


10
đại… Đi sâu vào thế giới nghệ thuật được coi như một kênh giao tiếp với
những mã số, ký hiệu, giọng nói, chương trình riêng, cần có thao tác phù
hợp… Thế giới nghệ thuật của cái tôi trữ tình là một thế giới mang giá trị
thẩm mỹ”.
Năm 1985, trong luận án Tiến sĩ khoa học Sự hình thành và những vấn
đề của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Nghĩa Trọng đã xác định hàm nghĩa khái niệm thế giới nghệ thuật
nhƣ sau: “Thế giới nghệ thuật là một phạm trù mỹ học bao gồm tất cả các yếu
tố của quá trình sáng tạo nghệ thuật và tất cả kết quả của quá trình hoạt động
nghệ thuật của nhà văn. Nó là một chỉnh thể nghệ thuật và một giá trị thẩm
mỹ. Thế giới nghệ thuật bao gồm hiện thực - đối tượng khách quan của nhận
thức nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn hay chủ thể nhận thức nghệ
thuật, ngôn ngữ hay chất liệu nghệ thuật. Trong thế giới nghệ thuật chứa
đựng sự phản ánh hiện thực, tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Thế giới nghệ
thuật không chỉ tương đương đối với tác phẩm nghệ thuật mà còn rộng hơn
bản thân nó. Nó có thể bao gồm tất cả các tác phẩm nghệ thuật của một nhà
văn, một trào lưu nghệ thuật, một thời kỳ nhất định của văn học, một nền văn
học của dân tộc hay nhiều dân tộc nhưng đồng thời cũng có thể liên quan đến

nhiều yếu tố khác của sáng tạo nghệ thuật nhỏ hơn khái niệm hình tượng
nghệ thuật”.
Thế giới nghệ thuật của một nhà văn mang đậm dấu ấn chủ quan của
ngƣời sáng tạo. Xét đến cùng, thế giới nghệ thuật của một nhà văn chính là
thế giới hình tƣợng hiện ra nhƣ một chỉnh thể sống động, chứa đựng một quan
niệm nhân sinh và thẩm mỹ nào đó, đƣợc xây dựng bằng vật liệu ngôn từ.
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiểu theo
đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là một chỉnh thể tất phải có cấu trúc


11
nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội tại
giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [62, tr.23].
Luận văn hiểu khái niệm thế giới nghệ thuật ở góc độ: tất cả các yếu tố
cấu tạo nên tác phẩm nhƣ: nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ, các thủ
pháp nghệ thuật… Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê muôn màu
và đa sắc, chính điều này tạo nên những giá trị trong tác phẩm của nhà văn.
1.2. Sáng tác của Lê Minh Khuê
1.2.1. Hành trình sáng tác
Lê Minh Khuê sinh ngày 6.12.1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hóa. tLê Minh Khuê tham gia chiến tranh chống Mỹ từ 1965 đến 1969. Từ
1969 đến 1975, nhà văn là phóng viên chiến trƣờng. Từ 1975 đến 2005, bà là
biên tập viên tại Nhà xuất bản Hội nhà văn.
Lê Minh Khuê bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX.
Trong những năm chiến tranh, truyện của bà viết về cuộc sống chiến đấu của
tuổi trẻ ở tuyến đƣờng Trƣờng Sơn. Nơi bắt đầu của những bức tranh là
truyện ngắn đầu tay với bút danh Vũ Thị Miền, in trên báo Văn nghệ (1971)
đã cho thấy một cây bút khá chuyên nghiệp. Hàng loạt những tác phẩm về đề
tài chủ nghĩa anh hùng cách mạng sau đó nhƣ Cao điểm mùa hạ, Con sáo
nhỏ của tôi, Bạn bè tôi, Mẹ, Tình yêu người lính… thể hiện sự phong phú

trong sáng tác của một cây bút trẻ nhiều triển vọng.
Một trong những truyện ngắn tiêu biểu đầu tiên của Lê Minh Khuê là:
Những ngôi sao xa xôi viết năm 1971 với hình ảnh của những cô gái thanh
niên xung phong tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc
sống chiến đấu đầy gian khổ hy sinh nhƣng rất hồn nhiên, lạc quan. Họ “thích
ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…”. Lúc phá bom,
họ kiên gan đến đáng sợ: “Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn.
Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào


12
quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào ra thịt tôi. Tôi rùng
mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm”. Bƣớc vào làng văn với
truyện ngắn đầu tay, Lê Minh Khuê đã mang đến một sự “trong trẻo, lãng
mạn, đậm đặc không khí tuổi xuân ra trận”. Nhà văn tâm sự về tác phẩm này
nhƣ sau: “Ngày đó tôi là phóng viên báo Tiền Phong, đã từng đi đến rất nhiều
các chiến trường để viết báo. Năm 1971, tôi cùng một binh chủng làm đường
đến đèo Côlanhíp và đã ở lại một đêm trong hang đá cùng một tiểu đội công
binh. Họ cũng là những người trẻ, hầu hết là học sinh trung học, những sinh
viên… đi tham gia kháng chiến. Sống cùng nhau, cùng tuổi, cùng lý tưởng
như nhau trong một hoàn cảnh vô cùng ác liệt nên dễ dàng hiểu và chia sẻ
cho nhau. Trong tâm hồn những cô gái thanh niên xung phong, quê nhà bao
giờ cũng hiện lên kỳ diệu. Và bởi vẻ đẹp kỳ diệu đó mà họ sẵn sàng hy sinh.
Đó cũng chính là ý tưởng lớn nhất mà tôi muốn gửi gắm qua truyện ngắn
này”. Đề tài chung trong sáng tác của nhà văn giai đoạn này là cuộc kháng
chiến gian lao mà vĩ đại của toàn dân tộc với âm hƣởng ngợi ca hào hùng.
Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những biến chuyển của
đời sống xã hội và con ngƣời trên tinh thần đổi mới. Nhà văn đề cập đến
những vấn đề nóng hổi của hiện thực đời sống đang diễn ra, những băng hoại
về đạo đức, những đƣợc mất ở đời, những trăn trở của con ngƣời hôm nay…

Lê Minh Khuê băn khoăn, day dứt trƣớc cuộc sống của những con ngƣời đang
ngày càng tha hóa. Cái ác, cái phi nhân tính dƣờng nhƣ đang lấn lƣớt. Trong
những tác phẩm nhƣ Anh lính Tony D, Cơn mưa cuối mùa, Bi kịch nhỏ,
Cuộc chơi, Đồng đô la vĩ đại…, ngƣời ta nhìn thấy sự cảnh báo gay gắt về sự
suy thoái tinh thần trong xã hội, thấy những số phận con ngƣời luẩn quẩn làm
nô lệ cho dục vọng của mình… Đằng sau đó là bao hy vọng của nhà văn về
việc đánh thức những gì tốt đẹp, những giá trị nhân bản trong mỗi con ngƣời


13
và một trái tim tha thiết niềm tin vào những giá trị gọi là thuần phong mĩ tục
tốt đẹp của dân tộc.
Không chỉ mạnh dạn trong việc tiếp cận những góc khuất của đời sống,
Lê Minh Khuê cũng không ngừng nỗ lực đổi mới cách thể hiện nhƣ việc lựa
chọn chi tiết, cách diễn đạt, ngôn ngữ, giọng điệu mang dấu ấn riêng của nhà
văn. Sự tìm tòi, đổi mới bút pháp của nhà văn là một điều đáng trân trọng và
khích lệ. Hồ Anh Thái có nhận định trên báo Tuổi trẻ: “Nhiều người đọc tâm
đắc với mảng truyện này của Lê Minh Khuê đồng thời cũng rất ngạc nhiên.
Phương pháp tiếp cận đời sống nào và khả năng xử lý hiện thực nào, khả
năng hư cấu nào, trí tưởng tượng nào khiến một người đàn bà thùy mị, bao
giờ cũng nghĩ tốt về mọi người lại có thể trở nên sắc sảo và dữ dội đến thế
trong văn chương”.
Truyện ngắn Lê Minh Khuê đã để lại một dấu ấn khá đậm nét trong
lòng độc giả và vị trí của bà trong nền truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam đã
đƣợc khẳng định. Trong cuốn Giáo trình văn học Việt Nam sau 1975 (Mã
Giang Lân, Bùi Việt Thắng biên soạn), không phải ngẫu nhiên mà Lê Minh
Khuê đƣợc nhìn nhận, đánh giá bên cạnh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.
Không những vậy, Lê Minh Khuê cũng là một trong số ít các nhà văn
Việt Nam có tác phẩm đƣợc dịch và giới thiệu ở nƣớc ngoài cùng Bảo Ninh,

Lê Lựu, Hồ Anh Thái, Nguyễn Khắc Trƣờng, Nguyễn Huy Thiệp.
Lê Minh Khuê cũng là nhà văn đạt đƣợc nhiều giải thƣởng văn học:
- Giải thƣởng Hội nhà văn Việt Nam cho các tập truyện ngắn Một
chiều xa thành phố (1987) và Trong làn gió heo may (2000).
- Giải thƣởng mang tên nhà văn Byeong – ju Lee của Hàn Quốc năm
2008 cho tập truyện ngắn Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (Giải thƣởng
Byeong – ju Lee đƣợc thành lập từ liên hoan văn học quốc tế Hadong năm


14
2007 và trao giải thƣởng thƣờng niên cho một nhà văn căn cứ vào tác phẩm
đề cử bằng tiếng Anh). Thông báo của Hội đồng giải thƣởng ngày 7/3/2008
viết: “Là một nhà văn nữ hàng đầu, Lê Minh Khuê ban đầu được biết đến
bằng những tác phẩm viết về các cô gái tham chiến trong cuộc chiến tranh
giữ nước. Tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh
đối với đất nước mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo
đói và tình trạng xói mòn văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển sang một
xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp,
chua xót và trang nghiêm”. Nhƣng trả lời báo chí, Lê Minh Khuê chỉ khiêm
nhƣờng nói rằng: “Không phải vì tài năng, nhiều người tài năng hơn tôi, xứng
đáng hơn tôi… Nhưng có một khía cạnh khiến những người trong hội đồng
xét giải, phần lớn là người Hàn Quốc chú ý đến tôi, có lẽ vì tôi hay viết về
những vấn đề hậu chiến trong một lãnh thổ từng bị chia cắt như đất nước họ
hiện tại… Người Hàn Quốc đồng cảm với chúng ta hơn. Nhờ thế mà tôi được
giải thưởng. Cũng không loại trừ có một chiếu cố nào đấy”.
Con ngƣời Lê Minh Khuê là vậy, tài năng mà khiêm nhƣờng. Phải
chăng vì thế mà văn của bà giản dị mà lấp lánh, sinh động, biến hóa? Điều đó
tạo nên một “cốt cách văn chƣơng” rất riêng, không thể lẫn với ai.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê
1.2.2.1. Khái niệm

Thế giới nghệ thuật của một nhà văn luôn chứa đựng những quan niệm
nhân sinh, xã hội của ngƣời sáng tạo. Một trong những yếu tố cơ bản cấu tạo
nên thế giới nghệ thuật của một nhà văn chính là quan niệm nghệ thuật về
cuộc sống và con ngƣời của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là
khái niệm trung tâm của thi pháp học, phản ánh một cách sâu sắc và toàn diện
bản chất nhân học của văn học. Ở một phƣơng diện nào đó, thuật ngữ này có
giá trị tƣơng ứng với khái niệm “tính tƣ tƣởng” trong tác phẩm văn học. Nếu
tƣ tƣởng là linh hồn của tác phẩm thì quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là


15
cái giới hạn tối đa trong cách hiểu, cách cảm, cách nhìn và cách lý giải về con
ngƣời của nhà văn đƣợc hóa thân thành các nguyên tắc, các phƣơng tiện, biện
pháp, hình thức thể hiện con ngƣời trong văn học, tạo nên giá trị thẩm mỹ cho
các hình tƣợng nhân vật đó. Quan niệm nghệ thuật là “nguyên tắc cắt nghĩa
thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả
năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [25, tr.222]. Quan niệm
nghệ thuật về con ngƣời gắn liền với vốn sống, vốn văn hóa, tài năng, cá tính
sáng tạo của nhà văn và ý thức hệ của cộng đồng xã hội. Nói ngắn gọn thì
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời chính là cách cắt nghĩa của văn học về
con ngƣời thông qua các phƣơng tiện nghệ thuật đặc thù. Mỗi nhà văn đều có
quan niệm nghệ thuật riêng và luôn chịu sự chi phối của các quan niệm đó.
Tác phẩm văn học luôn tồn tại trong nó quan niệm nghệ thuật nhất định của
nhà văn về cuộc đời và con ngƣời. Những nhà văn có quá trình sáng tác lâu
dài qua nhiều thời kỳ khác nhau thƣờng có sự biến đổi trong quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời, Lê Minh Khuê là một trong số đó.
1.2.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về hiện thực cuộc sống
Trong một lần trả lời phỏng vấn, Lê Minh Khuê tâm sự về nghề văn:
“Tôi quan niệm viết là một nghề cao quý. Nhưng tôi không cho rằng cái mình
viết ra là mẫu mực, là quan trọng, là khởi đầu, là tiền đề khai giải cho một

trạng huống nào đó… Trước kia, các nhà văn thường có tham vọng viết cho
tương lai, viết dưới ánh sáng vĩnh cửu. Nhưng tôi luôn nghĩ rằng tôi chỉ viết
cho hôm nay. Nói cách khác, viết được, đứng vững được vào thời điểm đang
sống, đã là may mắn lắm rồi” [68, tr.172-173].
Đó là quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, luôn bám sát hiện thực của
từng “thời điểm đang sống”, bám sát cuộc sống. Nhƣng bà cũng tâm niệm “khi
viết thì mình thoát ly hiện thực” và “không lệ thuộc vào hiện thực” [47]. Điều
đó có nghĩa là hiện thực trong tác phẩm một mặt lấy chất liệu từ cuộc sống, mặt


16
khác nó đƣợc nhào nặn thông qua lăng kính thẩm mỹ chủ quan của tác giả;
không thể đi tìm ngoài cuộc sống những chi tiết, sự kiện y nguyên nhƣ trong
tác phẩm, cũng không thể đòi hỏi tác phẩm phải là sự sao chép hoàn toàn và
chính xác cuộc sống. Vì thế mà văn học mang tính khái quát cao.
Với quan niệm ấy, trƣớc năm 1975, Lê Minh Khuê, bằng tất cả tâm
huyết của thế hệ “đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã viết một cách lạc quan
và say mê những trang văn tràn đầy niềm tin tƣởng, ngƣỡng vọng về thời đại
mình. Là một ngƣời trong cuộc, nhà văn đã tái hiện thành công không khí sôi
sục, nóng bỏng của hiện thực lịch sử. Bà mong muốn thể hiện một cuộc sống
giống nhƣ thật nên đã lựa chọn lối viết chân thành, mộc mạc và luôn hồn
nhiên về cuộc sống sinh hoạt, về cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Hiện thực
trong các truyện ngắn của Lê Minh Khuê là bức tranh lên đƣờng của một thế
hệ những con ngƣời trẻ tuổi, trẻ lòng và phơi phới niềm tin. Họ sẵn sàng bỏ
lại sau lƣng tất cả, dấn thân vào khói bom và chấp nhận hy sinh. Họ tâm
niệm: “Nơi xa xôi, ùng oàng những tiếng bom ấy, trở nên hấp dẫn như một
tiếng gọi tình yêu”. Họ là những cô thanh niên xung phong, lính công binh,
trinh sát, lái xe… lao mình vào khói lửa ác liệt, đi theo tiếng gọi của lí tƣởng.
Hình ảnh những ngƣời lính dũng cảm xả thân nhƣ thế xuất hiện đậm đặc
trong sáng tác giai đoạn này của Lê Minh Khuê. Đó là Nho, Định, Thao - ba

cô gái ở trên cao điểm bắn phá của địch trong truyện Những ngôi sao xa xôi;
cô Sim, cô Mua trong Con sáo nhỏ của tôi; Huy, Tuân, Miên, Trung trong
Cao điểm mùa hạ; Hòa, Bình trong Con trai của những người chiến sĩ…
Tuy họ xuất thân từ những miền quê khác nhau, tính cách khác nhau nhƣng
đều giống nhau ở phẩm chất anh hùng, dũng cảm, ở lý tƣởng sẵn sàng hy sinh
vì Tổ quốc.
Sau năm 1975, hiện thực cuộc sống hiện thực cuộc sống thay đổi đòi
hỏi ngƣời cầm bút phải có một cái nhìn khác, phải viết bằng một quan niệm


17
hiện thực mới mẻ, phù hợp hơn. Lê Minh Khuê nhạy bén với mỗi đổi thay của
lịch sử. Truyện ngắn của chị thực sự là những mảng hiện thực xã hội và
những “tâm trạng xã hội qua những thời kỳ khác nhau” Lê Minh Khuê đã bổ
sung vào bức tranh hiện thực những mảng mới, những mảng khuất lấp chƣa
từng đƣợc nói tới Lê Minh Khuê, từ góc nhìn lịch sử trƣớc năm 1975, đã
chuyển hẳn sang góc nhìn thế sự - đời tƣ.
1.2.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về con nguời
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là nguyên tắc lý giải, cảm thụ của
chủ thể sáng tác. Nó là hình thức đặc thù thể hiện con ngƣời trong văn
học.“Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy
con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp
hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và
thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó” [87, tr.59]. Những lý giải,
cảm nhận chủ quan của nhà văn về con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua thế
giới nhân vật trong tác phẩm.
“Quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người chẳng những cung
cấp một điểm xuất phát để tìm hiểu nội dung của tác phẩm văn học cụ thể,
mà còn cung cấp một cơ sở để nghiên cứu sự phát triển, tiến hóa của văn
học” [25, tr.224]. Một thời đại văn học mới luôn gắn liền với một quan niệm

nghệ thuật mới về con ngƣời. Sự đổi mới và đa dạng của văn học trƣớc hết là
đổi mới đa dạng trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời, vì thế, không chỉ là sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ mà còn
mang dấu ấn chung của nền văn học, thời đại và truyền thống. Trƣớc kia, khi
xem xét nhân vật, ngƣời ta thƣờng tập trung chú ý tới phƣơng diện nội dung
và tính khách thể của nó để xem nhân vật có ngoại hình, ngôn ngữ, tính cách
ra sao. Họ đối chiếu nhân vật với hiện thực để xem nhà văn miêu tả có giống
với nguyên mẫu thực tế hay không, vốn sống nhà văn giàu có nhƣờng nào…


18
Điều đó dẫn đến việc nhiều khi ngƣời ta đồng nhất nhân vật văn học với con
ngƣời có thật ngoài đời một cách phiến diện và đơn nhất. Về sau, quan niệm
nghệ thuật về con ngƣời dần thay đổi theo một hƣớng khác. Nó hƣớng ngƣời
ta khám phá, phát hiện cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan, sáng tạo của chủ
thể, ngay cả khi miêu tả con ngƣời giống hay không giống so với nguyên mẫu
ngoài đời. Cách nhìn này về con ngƣời hƣớng đến sự đa chiều, phong phú
nhƣ nó vốn có ngoài đời. Đã có một thời, câu thơ sau trong bài Tây Tiến
(Quang Dũng) bị đánh giá thấp vì cho là mang cái “mộng rớt tiểu tư sản”,
không phản ánh đúng khí thế của thời đại cả dân tộc đang dồn sức đánh giặc:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Nhƣng càng ngày, ngƣời ta càng nhận ra rằng: viết nhƣ Quang Dũng
mới là phản ánh đúng tâm hồn và vẻ đẹp của con ngƣời. Giữa bom đạn ác liệt,
nơi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, nếu không có những giấc
mơ hào hoa, bay bổng nhƣ thế để thăng bằng lại cảm xúc, làm sao họ có đủ
sức lực mà bƣớc tiếp? Hơn nữa, xuất thân là những chàng trai Hà thành thì
nỗi nhớ quê của họ phải gắn với những cô gái thanh lịch, trẻ trung, tràn đầy
sức sống nhƣ thế mới làm toát lên đƣợc vẻ độc đáo, riêng biệt của những
ngƣời lính Thủ đô ngàn năm hoa lệ. Bỏ qua quan niệm của nhà thơ về ngƣời

lính trong cấu tứ của mỗi bài thơ, những ngƣời phê bình trƣớc kia đã không
thấy đƣợc sự đa dạng của hình tƣợng nghệ thuật khi viết về ngƣời thật.
Lê Minh Khuê là nhà văn sinh ra trong thời kháng chiến chống Pháp,
trƣởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và có những trải nghiệm ở thời
bình. Các tác phẩm của bà vắt ngang giữa hai thời đại nên những biến đổi về
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, cách nhìn nhận, đánh giá về con ngƣời là
rất rõ ràng.


19
Trƣớc năm 1975, Lê Minh Khuê tập trung vào việc xây dựng hình
tƣợng những con ngƣời mang tầm thời đại. Đó là con ngƣời tập thể, con
ngƣời cộng đồng mang lý tƣởng và phẩm chất anh hùng cao đẹp. Theo sát
nhiệm vụ chính trị của thời đại, nhà văn thông qua con ngƣời để biểu hiện lịch
sử, con ngƣời trở thành phƣơng tiện khám phá lịch sử. Chiến tranh đặt ra vấn
đề sống còn của dân tộc, mọi quyền lợi, ứng xử phải nhìn theo quan điểm
“địch – ta”, sự thống nhất muôn ngƣời nhƣ một trở thành nguyên tắc tối
thƣợng. Mọi cá nhân đều hƣớng về cộng đồng, tự nguyện hòa tan trong cộng
đồng. “Con đường giải quyết mọi bi kịch, mọi vướng mắc cá nhân là hướng
về cách mạng, về cộng đồng” [57]. Đó là những chàng lái xe, những cô gái
thanh niên xung phong, những bác sĩ… rời ghế nhà trƣờng để bƣớc thẳng vào
cuộc chiến ác liệt. Nho, Định, Thao (Những ngôi sao xa xôi)… là những cô
gái xung phong tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đƣờng Trƣờng
Sơn thời chống Mỹ. Họ dũng cảm, luôn sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy để
hoàn thành nhiệm vụ. Công việc phá bom của họ luôn đối mặt thƣờng xuyên
với cái chết: “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng
hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất
chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều
quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ
nổ…”. Mặc dù đã rất quen công việc nguy hiểm này, thậm chí một ngày có

thể phải phá tới năm quả bom, nhƣng mỗi lần vẫn là một thử thách với thần
kinh cho đến từng cảm giác: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một
tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy
tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu
hiệu chẳng lành”. Công việc ấy không hề đơn giản, đòi hỏi họ phải bình tĩnh,
dũng cảm, khôn ngoan, nhạy cảm và khéo léo. Nhƣng họ không hề chùn


20
bƣớc. Họ chính là những Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc ngoài đời.
Họ đã góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Sau 1975, Lê Minh Khuê đi sâu vào miêu tả con ngƣời cá nhân, không
phải chỉ bằng một thứ ánh sáng vĩnh cửu mà cần soi chiếu con ngƣời bằng
nhiều thứ ánh sáng, từ nhiều phƣơng diện khác nhau. Với Lê Minh Khuê:
“Đáng ước mơ là thứ văn chương viết thật hay về mối quan hệ giữa những
con người” [46]. Nhà văn tâm niệm văn chƣơng nghệ thuật phải viết trung
thực về con ngƣời, “thoát được cái gọi là chủ nghĩa tình cảm… tránh được
thói biện luận dài dòng và tránh cái nhìn thiển cận…”. Ngƣời cầm bút phải
có cái nhìn khách quan và một quan niệm sâu sắc hơn về con ngƣời mới có
thể “nhìn được bí mật của tương lai”, mới “đạt đến sự giản dị và bí ẩn, mỗi
dòng chữ đều biểu hiện được trạng thái tâm hồn con người” [69, tr. 351].
Với quan niệm mới mẻ ấy, nhà văn không ngại đi sâu vào miêu tả
những mặt trái của xã hội (Bi kịch nhỏ…), để tái hiện “thế giới của những
mưu mô chẳng những còn manh nha mà đang tác oai, tác quái tạo nên tấn
thảm kịch nhân sinh” [13, tr.295]. Tuy nhà văn đôi lúc đã quá tay trong việc
lựa chọn chi tiết, nhƣng khi mà “Cái ác như nấm độc, như cỏ dại đang hủy
hoại cộng đồng, báo hiệu sự suy kiệt khủng khiếp về văn hóa, báo hiệu sự mất
trắng về đạo đức truyền thống của một dân tộc” [44] thì đó chính là một cách
cảnh tỉnh về những gì đang diễn ra, đang mất đi, giúp con ngƣời ta sống tốt
hơn.

×