BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG
NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số : 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÝ HOÀI THU
HÀ NỘI, 2014
Lời cảm ơn
Em xin trân trọng cảm ơn khoa Ngữ văn, phòng Đào tạo sau đại học –
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, cảm ơn các bậc Giáo sư, Tiến sĩ đã nhiệt
tình giảng dạy, giúp đỡ chúng em trong khóa học.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lý Hoài Thu,
người hướng dẫn khoa học, đã tận tâm giúp đỡ em trong quá trình học tập và
thực hiện luận văn này.
Nhân dịp này, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới những người thân
yêu trong gia đình và tất cả bạn bè đã dành cho tôi sự giúp đỡ, động viên rất
quý báu trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Ninh Bình, tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Nhung
Lời cam đoan
Thực hiện luận văn này, tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực. Nội dung luận văn không hề trùng lặp với các
đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn hoàn toàn
chính xác, được trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng, minh bạch. Nếu sai, tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi xin đề nghị Hội đồng khoa học xem xét và ghi nhận kết quả quá
trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Ninh Bình, tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Nhung
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 10
6. Phương pháp nghiên cứu 10
7. Đóng góp của luận văn 10
8. Cấu trúc của luận văn 10
PHẦN NỘI DUNG 12
CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ
THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI 12
1.1 Khái niệm về nhân vật 12
1.2. Chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học 14
1.3 Các loại nhân vật văn học 16
1.4 Nhân vật nữ trong văn học 18
CHƢƠNG 2
CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI 40
2.1 Kiểu nhân vật bi kịch 41
2.2 Kiểu nhân vật tự ý thức 54
2.3 Nhân vật nữ từ góc nhìn giới 57
CHƢƠNG 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN
NGẮN TRẦN THÙY MAI 72
3.1 Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật 72
3.2 Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật 76
3.3 Ngôn ngữ 81
3.4 Giọng điệu 98
PHẦN KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975, nhất là từ sau đổi mới 1986 là thể
loại giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển văn học. Có thể khẳng định: với
đặc trưng của thể loại “tự sự cỡ nhỏ” năng động, thích hợp với đời sống hiện
đại, chưa bao giờ truyện ngắn Việt Nam lại phát triển mạnh như hiện nay.
Diện mạo của truyện ngắn nước nhà có sự thay đổi rõ rệt cả về đề tài, chủ đề,
tư tưởng và hình thức biểu hiện theo hướng dân chủ hóa và hiện đại hóa. Có
nhiều tác giả, tác phẩm truyện ngắn xuất sắc, góp phần làm thay đổi cơ bản
đời sống văn học Việt Nam đương đại. Sự xuất hiện càng nhiều các cây bút
nữ cũng đã làm nên sự phát triển phong phú, đa dạng của văn học giai đoạn
này. Tác giả Bích Thu trong bài viết “Văn xuôi của phái đẹp” đã đánh giá cao
các sáng tác của các cây bút nữ: “Văn chương của phái đẹp hiện nay sắc và
sâu khi khai thác đề tài thế sự, đời tư với nội dung nhân tình thế thái bằng lối
viết dịu dàng và bén ngọt, riết róng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân
phận, những con người sống quanh mình” [62]. Tác giả Vũ Tuấn Anh trong
bài viết “Đổi mới văn học vì sự phát triển” ghi nhận các cây bút nữ đã có
được “những dấu ấn cá nhân trong tư duy nghệ thuật và cách thể hiện” [1].
1.2. Trần Thùy Mai thuộc thế hệ những người cầm bút đầu tiên sau
chiến tranh cùng thời với Minh Ngọc, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị
Hảo… Đó là thế hệ chịu ảnh hưởng của văn học chiến tranh ở nhiều phương
diện nhưng đã có được những đổi mới rõ rệt cả về nội dung tư tưởng và
phương thức nghệ thuật. Trong số các nhà văn nữ, Trần Thùy Mai không phải
là một tên tuổi gây nên những cú “sốc” trong đời sống văn học như Võ Thị
Hảo hay Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư sau này nhưng vẫn được người
đọc và giới nghiên cứu chú ý. Truyện ngắn của Trần Thùy Mai cuốn hút ở lối
viết điềm đạm, tinh tế, mới đọc thấy nhẹ nhàng, càng ngẫm nghĩ càng thấy
2
sâu sắc. Chị đã tạo dựng cho mình một lối viết riêng, một phong cách khó
trộn lẫn, chị viết như một nhu cầu tự thân, chị luôn trung thành với lối viết
quen thuộc đồng thời cũng không ngừng tìm tòi, đổi mới về nội dung và hình
thức thể hiện.
Có thể thấy, nhân vật xuyên suốt trong truyện ngắn của các nhà văn nữ
nói chung và của nhà văn Trần Thùy Mai nói riêng đều là nhân vật người phụ
nữ. Bởi hình ảnh người phụ nữ là đề tài quen thuộc trong sáng tác thơ văn từ
xưa đến nay. Hơn ai hết, các nhà văn nữ là những người thấu hiểu được tâm
lý, có sự đồng cảm sâu sắc với người phụ nữ. Vì vậy, sáng tác của họ nhanh
chóng được người đọc đón nhận sự ủng hộ của. Trần Thùy Mai luôn để lại
dấu ấn của giới mình trong mỗi lời mình viết, nhân vật nữ trong sáng tác của
chị mang những nét riêng, độc đáo bởi những bi kịch tình yêu và hạnh phúc
gia đình. Điều này tạo nên sự khác biệt về nhân vật nữ trong sáng tác của
Trần Thùy Mai so với các tác giả nữ khác. Có nhiều bài viết về Trần Thùy
Mai, đặc biệt là sau khi một số truyện ngắn của chị được chuyển thể thành
phim. Một số luận văn tốt nghiệp đại học và thạc sỹ nghiên cứu truyện ngắn
Trần Thùy Mai đã có những tổng hợp, phân tích và phát hiện đáng kể về
phương diện nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, vấn đề nhân vật nữ trong
truyện ngắn Trần Thùy Mai vẫn chưa được chạm tới. Đây cũng chính là một
trong những lý do thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài này.
1.3. Tìm hiểu đề tài: Nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai,
chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm một góc nhìn mới về hướng tiếp cận, khả năng
phản ánh đời sống, giá trị nhân văn, phong cách sáng tạo cũng như cách thể
hiện nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai. Qua đó khẳng định những
đóng góp của chị trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Bắt đầu có truyện ngắn đăng trên tuần báo Văn nghệ từ năm 21 tuổi,
đến nay, gần 40 năm cầm bút với 12 tập truyện ngắn, Trần Thùy Mai đã miệt
3
mài, cần mẫn tạo dựng một vị trí trên văn đàn. Chị cũng đã đạt một số giải
thưởng khá cao của Hội nhà văn và của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật
Việt Nam cho các tập truyện Quỷ trong trăng và Thập tự hoa. Truyện ngắn
Trần Thuỳ Mai đã nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình. Tuy
nhiên, vì nhiều lẽ, vấn đề nghiên cứu về truyện ngắn của Trần Thùy Mai còn
khá khiêm tốn và rời rạc. Hầu hết những bài viết về chị mới chỉ dừng lại ở
nhận xét khái quát, sơ bộ và bộc bạch ấn tượng, cảm xúc về một tập truyện
hay một tác phẩm cụ thể nào đó. Mặc dù sơ lược, nhưng cũng đã có những bài
viết chỉ ra được dấu ấn riêng trong sáng tác của nữ nhà văn này. Chúng tôi
tạm chia lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Trần Thuỳ Mai làm hai phần:
2.1 Những đánh giá chung về truyện ngắn Trần Thùy Mai
Về những nhìn nhận, đánh giá chung về truyện ngắn Trần Thuỳ Mai,
đáng chú ý là bài viết “Truyện ngắn Trần Thuỳ Mai - những giấc mơ huyền
thoại” của Hồ Thế Hà. Tác giả đã bày tỏ về những cảm nhận về “một đặc
điểm nổi bật” trong truyện ngắn Trần Thùy Mai đó là vẻ đẹp cổ tích, thần
thoại: “Phần lớn truyện ngắn của Trần Thùy Mai đều lôi cuốn người đọc ở
những chi tiết vừa ảo vừa thật, cái khoảnh khắc, cái vĩnh hằng, những điểm
mạnh và những điểm nhẹ đan xen nhau, có cảm giác như mọi tồn tại trên đời
đều mỏng, dễ vỡ. Thế nhưng đọc xong nó lại có sức bền lâu trong tâm trí”
[14]. Cũng trong bài viết này, khi đề cập đến nội dung của các tác phẩm, Hồ
Thế Hà đã nhận xét: "Truyện ngắn Trần Thuỳ Mai thường là những ghi nhận
đời thường với bao lo toan dằn vặt, với những mâu thuẫn có lúc âm thầm, có
lúc dữ dội giữa khát vọng tình yêu và khả năng không đạt được của con
người, để rồi sau những va chạm "dễ thương", niềm hi vọng, sự sẻ chia, lòng
nhân ái bao dung lại được xoa dịu, thanh lọc" [14].
Tác giả Lê Thị Mỹ Ý trong bài viết Nhà văn dịu dàng và đa đoan đánh
giá về truyện ngắn Trần Thuỳ Mai: "Văn chương của chị như một trái cây
4
chín muộn, càng có thời gian vị càng ngọt, hương càng nồng, màu sắc càng
hấp dẫn, càng mang đến một dư vị riêng mà những cây bút cùng thời với chị
không có được" [68].
Tác giả Phan Diễm Phương với bài viết “Nét hấp dẫn của truyện ngắn
Trần Thùy Mai” có phát hiện “Chị thường viết về những cái bình thường,
thông thường của cuộc sống… Thoạt tiên, cuộc sống đó hiện ra có phần đơn
giản và có tính chất bề mặt qua câu chuyện kể. Nhưng rồi sau đó, một số
truyện của Trần Thùy Mai có vẻ lắng vào chiều sâu hơn… chị đã cố gắng
hướng ngòi bút của mình vào việc khai thác các trạng thái tâm tưởng của
nhân vật”. Và “đâu đâu trên mỗi dòng truyện, người đọc cũng tìm thấy tấm
lòng bao dung, nhân hậu của nhà văn” [51]. Tác giả đã xác định điểm nhấn
đáng chú ý trong truyện ngắn Trần Thùy Mai là kiểu nhân vật tâm tưởng.
Tháng 11 năm 2002, báo Kiến thức gia đình có đăng bài Trần Thuỳ
Mai và bi kịch của người phụ nữ của tác giả Diệu Hiền. Trong đó, tác giả bài
viết đã có những cảm nhận bước đầu về những bi kịch đau đớn của người phụ
nữ trong truyện ngắn Trần Thuỳ Mai. Từ việc dẫn ra một số truyện tiêu biểu,
người viết đã chỉ ra rằng: “Tất cả phụ nữ trong truyện ngắn của Trần Thuỳ
Mai đều đẹp, yêu hết mình, sống tốt hết mình, nhưng kết cục phần nhiều họ đều
gặp bất hạnh, đau khổ” [21].
Tác giả Thái Phan Vàng Anh với bài viết có tựa đề “Tình yêu huyền
thoại trong truyện ngắn Trần Thùy Mai” đã nêu ra một số nét đậm rất riêng ở
nhà văn Trần Thùy Mai. Đó là đề tài tình yêu – một đề tài được Trần Thùy
Mai rất quan tâm: “Với chị, tình yêu là biểu tượng của những khát vọng tuyệt
đối, là hoài niệm để níu giữ niềm tin", là “những tình yêu huyền thoại lung
linh như ảo ảnh” [2]. Đó là mối quan hệ giữa hai bờ thực - ảo, giữa khát vọng
mong manh với thực tại đầy đắng cay và bất hạnh. Nổi bật lên trong bài viết
là những nhận định khá tinh tế về nhân vật nữ trong các cuộc tình gấp gáp,
5
vội vã và ngắn ngủi: Những nhân vật nữ của Trần Thùy Mai đều gặp gỡ nhau
ở việc lấy tình yêu làm điểm tựa để “cứu rỗi linh hồn”, “đắm chìm trong hoài
niệm”. “Các mối tình, các sợi xích tình yêu ( ) chưa bao giờ thôi quấn riết,
giằng níu trong nhân vật, và rồi biến thực tại thành dư âm của quá khứ vừa
bỏng rát, vừa dịu dàng”. Cuối cùng, “cũng bởi vì định mệnh mà những cuộc
tình đẹp như ảo ảnh ấy lại không thể vượt qua những giới hạn thực tế” [2].
Tác giả Lý Hạnh trong bài viết “Trần Thùy Mai – viết về tình yêu không
phải để câu khách” cho rằng: “Các nhân vật nữ của Trần Thùy Mai dường
như không có thật bởi họ thánh thiện quá, mong manh quá… Cuộc sống dẫu
dành cho họ sự nhọc nhằn, tủi nhục, xót xa đến bao nhiêu thì cuối cùng vẫn
phải kính cẩn cúi đầu bởi những điều thấp hèn, nhỏ bé dường như chưa bao
giờ chạm đến họ” [16].
Tác giả Văn Mai Hoan trong bài “Truyện ngắn Trần Thùy Mai” nhận
xét về tính nhân văn trong truyện ngắn Trần Thùy Mai: “Mỗi câu chuyện là
một tình khúc buồn, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Những tình khúc buồn ấy nhắc
nhở mọi người phải biết tận hưởng, phải biết bảo vệ, phải biết nâng niu, trân
trọng cái đẹp và hạnh phúc trong cuộc sống” [19].
Nhìn chung, hầu hết các nhận định về nhân vật phụ nữ trong truyện
ngắn Trần Thùy Mai đều cho rằng nhân vật nữ của chị hiền hậu, tốt bụng,
giàu yêu thương và đức hi sinh nhưng luôn gặp phải bi kịch trong tình yêu và
cuộc sống. Song có điều, các nhận định này chưa chỉ ra được nhân vật nữ của
Trần Thùy Mai có điểm gì khác biệt với nhân vật nữ của các nhà văn nữ khác.
2.2 Những đánh giá về các tập truyện ngắn của Trần Thùy Mai
Về những tập truyện ngắn cụ thể của Trần Thùy Mai cũng có nhiều bài
viết mang tính chất giới thiệu và nêu cảm nhận. Sau đây, chúng tôi xin giới
thiệu một số nhận xét tiêu biểu.
6
Hồ Thế Hà trong bài: “Thế giới truyện ngắn Trần Thùy Mai qua “Trò
chơi cấm” đã trình bày một cách hệ thống các khía cạnh trong thế giới nghệ
thuật của tập truyện này như: kết cấu, cốt truyện, không gian và thời gian
nghệ thuật. Theo tác giả bài viết, không gian và thời gian khát vọng được
miêu tả bằng bút pháp huyền thoại. Còn giọng điệu chủ đạo trong Trò chơi
cấm là “giọng văn tâm tình, mềm mại gắn với những phản ứng tâm thức kín
đáo của nhân vật đã tạo nên giá trị nhân văn; giọng văn thủ thỉ tâm tình và
thấm đẫm chất thơ, quyến rũ bởi chất huyền thoại” [13], qua đó thấy được
truyện ngắn Trần Thùy Mai mang đậm “tính triết lý về sự sống của con người
hiện đại”. Đồng thời tác giả cho rằng, với Trò chơi cấm (1998), Trần Thùy
Mai đã khẳng định bước tiến trong hành trình nghệ thuật. Đặc biệt, Hồ Thế
Hà đã có sự cảm nhận tinh tế, nhân văn về những nhân vật phụ nữ trong Trò
chơi cấm, họ “có tâm hồn như ngọc nhưng ít gặp hồng phúc trong tình yêu.
Họ vẫn hướng về đường chân trời có ánh hào quang rực rỡ nhưng chưa bao
giờ dám vượt qua giới hạn trước mắt bởi cuộc sống mưu sinh… để rồi cuối
cùng họ luôn tự an ủi mình trong vòng tròn khép kín” [13].
Năm 2001, Trần Thùy Mai giới thiệu với độc giả tập truyện ngắn Quỷ
trong trăng với những thông điệp về bi kịch đau đớn của người phụ nữ, tập
truyện nhanh chóng được độc giả đón nhận với sự đồng cảm sâu sắc. Tác giả
Diệu Hiền có bài: “Trần Thùy Mai và bi kịch của những người phụ nữ”, bằng
một số dẫn chứng truyện ngắn tiêu biểu, Diệu Hiền đã chỉ ra rằng: “Tất cả
phụ nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai đều đẹp, yêu hết mình, sống tốt hết
mình, nhưng kết cục phần nhiều họ đều gặp bất hạnh, đau khổ” [11]. Còn
Báo Lao động miền Trung cũng có bài đăng “Cuộc hành hương bên bờ xa
vắng” của Lê Thị Mỹ Ý. Tác giả bài viết đã điểm qua những truyện ngắn tiêu
biểu và khẳng định: “Giữa mê lộ ám ảnh, giác độ tình yêu được soi xét từ
nhiều điểm chiếu Dù ở điểm chiếu nào, truyện ngắn của chị cũng hiện hữu
7
một niềm say đắm miên man của ý niệm thuần khiết. Đấy là ý niệm để tác giả
vén lên một luồng sáng mong manh, đi sâu vào những ngóc nghách nhỏ nhoi,
tìm ra đời sống hơn là đời sống, nhận thức ra tia sáng hằng hữu, bất biến
trong tình yêu” [68]. Sức hấp dẫn của tập truyện này còn được Lê Thị Mỹ Ý
đánh giá ở giọng văn nhẹ nhàng với thứ ngôn ngữ tự nhiên. Bài báo đã tạo
được một sự chú ý cần thiết, hướng người đọc có được tâm thế nhập vào
“cuộc hành hương của linh hồn phù du bên bến bờ xa vắng, đi tìm luồng ánh
sáng mong manh cho khát khao” trong truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai.
Cũng đánh giá về tập truyện Quỷ trong trăng, Nguyễn Thị Kim Huệ
với bài viết “Quỷ trong trăng và thế giới đậm cá tính phương Tây” đã phát
hiện: Quỷ trong trăng là một thế giới của nhân vật nữ đang tồn tại thật với
bản ngã của chính mình, dù họ phải trả giá bằng chính cuộc đời của họ. Thế
nhưng, họ không nuối tiếc hay hối hận cho những lựa chọn của mình, bởi họ
là những phụ nữ phương Đông dịu dàng bao dung nhưng lại tiềm tàng sự nổi
loạn, tự do và bất chấp kể cả cái chết cho tình yêu. Nguyễn Thị Kim Huệ gọi
đây là thế giới nữ đậm cá tính phương Tây: “những người phụ nữ phương
Đông dịu dàng, ấy thế mà trái tim họ lại còn mang dòng máu nóng phương
Tây bất chấp và nổi loạn, dù đôi lúc nổi loạn trong bế tắc. Các nhân vật nữ
bên nét thánh thiện, đều tiềm tang một dòng máu “quỷ” mộng yêu, ngông
cuồng vì yêu và chết vì yêu” [22]. Những phát hiện trong bài viết cho thấy nét
sáng tạo mới lạ của Trần Thuỳ Mai trong việc xây dựng tâm hồn, tính cách và
lẽ sống của các nhân vật nữ trong tác phẩm của mình.
Về tập truyện Mưa đời sau, tác giả Minh Phương có bài giới thiệu: Đọc
sách: Mưa đời sau đã có những nhận định khá sâu sắc về các tác phẩm trong
tập truyện: “Ngòi bút Trần Thuỳ Mai hướng tới phát hiện vẻ đẹp phẩm cách
và lòng hướng thiện của những nhân vật trong truyện” [58] và đặc biệt nhân
vật của chị được “Khéo léo khắc họa diễn biến tâm lí với lối kết hợp tự nhiên,
8
bất ngờ, lôi cuốn” [52]. Trong bài viết, tác giả đã nhận xét cả về phẩm chất
của các nhân vật và cách xây dựng nhân vật của Trần Thùy Mai.
Tập truyện Một mình ở Tokyo (2008) cũng gây được sự chú ý đặc biệt.
Nhà xuất bản văn nghệ có lời giới thiệu: “Vẫn là những câu chuyện tình yêu
ngọt ngào, dang dở, Trần Thùy Mai đã “đổi món” cho độc giả bằng các bối
cảnh và các tuyến nhân vật độc đáo, khác lạ (nhưng không xa lạ). Người đọc
như chạm vào những vàng son xưa cũ rồi lại thấy mình đang ở đâu đó rất xa
xôi giữa lòng hiện tại. Dù dở dang hay vẹn vẻ; dù cái ác, cái xấu vẫn còn tồn
tại trong đời sống thông qua những câu chuyện tình đẹp mà buồn, song thông
điệp mà tác giả gửi đến độc giả là: Hãy sống đẹp, hãy yêu thương và tha thứ
bởi nó là cội nguồn của sự sống nguyên khôi, ý vị”.
Tập truyện Trăng nơi đáy giếng (2009) tác giả Minh Tú trên trang báo
Tuổi trẻ nhận xét về kiểu nhân vật nữ mà Trần Thùy Mai hướng tới khai thác:
“Ai đọc Trăng nơi đáy giếng cũng hiểu Trần Thùy Mai dành nhiều tình cảm,
xót thương cho những thân phận phụ nữ liễu yếu đào tơ thế nào mà trở thành
quân cờ thời cuộc… Những người phụ nữ ấy, dù là tuyệt sắc giai nhân chốn
đế đô hay chỉ là thôn nữ quê mùa vùng xa xôi hẻo lánh, dù có thể chẳng bao
giờ được sử sách nhắc đến nhưng cuộc đời của họ, số phận của họ mãi mãi
được dân gian lưu truyền, để lại nghĩ suy trong lòng người đọc”.
Về tập truyện Onkel yêu dấu (2010), truyền hình VTV1 có giới thiệu
tập truyện này trong chuyên mục Mỗi ngày một cuốn sách. Trong đó, người
giới thiệu đã nhấn mạnh tới ý thức về giới mình của các nhân vật nữ, họ sống
với thiên chức làm vợ và làm mẹ: “Mỗi nhân vật nữ trong cuốn truyện ngắn
này mang một thân phận biểu trưng cho hàng ngàn, hàng vạn thậm chí hàng
triệu người vợ, người mẹ. Họ có thể là một người thành đạt, có thể chỉ là một
người nội trợ, một người mẹ đảm đang của gia đình, một người suốt đời hy
sinh trong thầm lặng và cũng có thể là một con người bị tình yêu lợi dụng.
9
Nhưng dù sao họ vẫn không oán thán cuộc đời oán trách số phận, họ vẫn
lặng lẽ vươn mình đứng dậy. Đứng dậy để tha thứ, quá khứ trong họ luôn
hiện hữu là một kỷ niệm đẹp, về những ngày tháng đẹp đã có những phút giây
cùng nhau sánh bước trên đường đời” (www.moingaymotcuonsach.com.vn).
Trang báo điện tử Báomới.com ngày 23/05/2010 cũng đăng tin về tập
truyện bằng những lời nhận định sâu sắc về mặt nội dung cũng như nghệ
thuật: “14 truyện ngắn viết về tình yêu lãng mạn, nhưng cũng không kém
phần chua xót về những thân phận người phụ nữ trong cuộc sống của một
giọng văn đầy nữ tính và luôn đứng về phía người phụ nữ. Ở tập truyện ngắn
này, tác giả chú trọng miêu tả tâm lý của những người phụ nữ trong bộn bề
xã hội và nhỏ bé giữa gia đình”.
Như vậy, nhìn chung qua các bài viết, nhà văn Trần Thùy Mai được
đánh giá là tác giả có lối viết rất riêng với giọng văn riêng, chị khai thác
những vấn đề gần gũi, bình dị xung quanh đời sống nhưng lại mang giá trị
mới mẻ và sâu sắc. Nhân vật nữ trong sáng tác của Trần Thùy Mai được nhìn
nhận ở nhiều khía cạnh khác nhau, họ khao khát hạnh phúc và cũng gặp nhiều
bi kịch. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu tìm
hiểu nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai.Trên cơ sở tiếp thu ý kiến,
kết quả của người đi trước, chúng tôi triển khai đề tài: Nhân vật nữ trong
truyện ngắn Trần Thùy Mai.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, khám phá thế giới nhân vật
nữ cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Trần
Thùy Mai. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng góp của tác giả vào đời
sống văn xuôi đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nhân vật văn học.
10
- Vận dụng những kiến thức lý luận trên vào việc tìm hiểu thế giới nhân
vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nhân vật nữ trong truyện ngắn của Trần
Thùy Mai.
Luận văn sẽ bao quát các tập truyện ngắn của Trần Thùy Mai xuất bản
từ năm 1983 trở về đây: Bài thơ về biển khơi – 1983; Cỏ hát (in chung với Lý
Lan) – 1984; Thị trấn hoa quỳ vàng – 1994; Trò chơi cấm – 1998; Quỷ trong
trăng – 2001; Thập tự hoa – 2003; Đêm tái sinh – 2004; Mưa đời sau – 2005;
Mưa ở Strabourg – 2006; Một mình ở Tokyo – 2008; Trăng nơi đáy giếng –
2009; Onkel yêu dấu – 2010.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
7. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở lý luận về nhân vật văn học, vận dụng để tìm ra các kiểu
loại nhân vật cùng một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng những nhân
vật nữ trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai.
Khẳng định sự độc đáo của Trần Thùy Mai trong sáng tác truyện ngắn (trên
cơ sở đối sánh với một số nhà văn nữ cùng thời), qua đó thấy được sự đổi mới về
tư duy nghệ thuật, đặc điểm thi pháp và phong cách truyện ngắn của nhà văn.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được triển khai thành ba chương:
11
Chương 1: Khái lược chung về nhân vật văn học và quan niệm nghệ
thuật về con người trong truyện ngắn Trần Thùy Mai
Chương 2: Các kiểu nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI
1.1 Khái niệm về nhân vật
* Về phương diện thuật ngữ
Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm. Trong tiếng Hy Lạp cổ,
“nhân vật” (đọc là persona) lúc đầu mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên
trên sân khấu. Theo thời gian thuật ngữ này đã được sử dụng nhiều nhất,
thường xuyên nhất để chỉ đối tượng mà văn học miêu tả và thể hiện. Đôi khi
nhân vật văn học còn được gọi bằng các thuật ngữ khác như: “vai” (actor) và
“tính cách” (character). Tuy nhiên, theo chúng tôi, các thuật ngữ này có nội
hàm hẹp hơn so với “nhân vật”. Thuật ngữ “vai” chủ yếu nhấn mạnh đến tính
chất hành động của cá nhân, thích hợp với loại nhân vật hành động. Còn thuật
ngữ “tính cách” lại thiên về những nhân vật có tính cách. Trong thực tế sáng
tác, không phải nhân vật nào cũng hành động, đặc biệt là những nhân vật
thiên về “suy tư” và cũng không phải nhân vật nào cũng có tính cách rõ rệt.
Từ đó, có thể thấy các thuật ngữ “vai”, “tính cách” không bao quát được hết
những biểu hiện khác nhau của các loại nhân vật trong sáng tác văn học. Còn
“nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú, đủ khả năng khái quát những
hiện tượng phổ biến của tác phẩm văn học ở mọi bình diện và mọi cấp độ.
* Một số quan niệm trong nghiên cứu, phê bình về nhân vật văn học
Đã có khá nhiều những quan điểm khác nhau về nhân vật văn học trong
giới nghiên cứu, phê bình. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một số quan niệm
về nhân vật văn học.
13
Trong Từ điển Văn học: “Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác
phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ đề và đến lượt mình
nó lại được cấc yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc
họa. Nhân vật, do đó, là nơi tập trung giá trị tư tưởng – nghệ thuật của tác
phẩm văn học” [3; 86]. Với định nghĩa này, các nhà biên soạn từ điển đã nhìn
nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của nó đối với tác phẩm và từ
mối quan hệ của nó với các yếu tố hình thức tác phẩm. Có thể nói đây là một
định nghĩa tương đối toàn diện về nhân vật văn học.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân đề xuất cách nhìn
khác. Nhân vật được ông xem xét trong mối tương quan với cá tính sáng tạo,
phong cách nhà văn, trường phái văn học: “nhân vật văn học là một trong
những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh
hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng
nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của
con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học
có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán
cho những đặc điểm giống con người” [4; 241]. Theo tác giả Lại Nguyên Ân,
nhân vật văn học là một trong những yếu tố tạo nên phong cách nhà văn và
màu sắc riêng của một trường phái văn học. Tác giả còn chỉ ra những đối
tượng tiềm tàng khả năng trở thành nhân vật văn học.
Các tác giả của cuốn Từ điển Thuật ngữ văn học quan niệm nhân vật
văn học là: “Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân
vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể
không có tên riêng như thằng bán tơ, một mụ nào trong truyện Kiều… Khái
niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con
người cụ thể nào cả mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm…
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng
14
nhất nó với con người có thật trong cuộc sống” [15; 235]. Cách hiểu này đã
chỉ ra đối tượng tiềm tàng có thể trở thành nhân vật văn học.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, nhân vật là một khái niệm tương đối
ổn định trong nghiên cứu phê bình văn học. Trước nay dù đã có khá nhiều
cách định nghĩa về nhân vật, song tập trung các ý kiến đều gặp nhau trong sự
khẳng định: Nhân vật văn học là thành tố quan trọng trong tác phẩm, là
phương tiện để nhà văn phản ánh đời sống và được nhà văn xây dựng bằng
những yếu tố nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu về tác phẩm văn chương cần
phải tiếp cận nhân vật để chỉ ra cái mới trong cách viết của nhà văn và đưa ra
những kết luận về những đóng góp của nhà văn đó.
1.2. Chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học
“Nhân vật văn học không phải là “bản dập” của con người ngoài đời.
Nó là một hình tượng, một đơn vị nghệ thuật được sáng tạo theo những ước lệ
của văn học” [54; 75]. Nhân vật văn học có chức năng quan trọng đối với mỗi
tác phẩm và đối với chủ nhân sáng tạo ra nó.
Nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự thể hiện đời sống trong tác
phẩm văn học. Nó không chỉ là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề mà còn là nơi tập
trung giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Trong cuốn Dẫn luận văn
chương, G.N.Pospelov nhấn mạnh: “Nhân vật là phương diện có tính chất
thứ nhất trong hình thức tác phẩm. Nó quyết định phần lớn vừa cốt truyện,
vừa chọn lựa chi tiết, vừa ngôn ngữ, vừa kết cấu” [53; 43]. Nhân vật là yếu tố
vừa thuộc về nội dung, vừa thuộc về hình thức tác phẩm. Nhân vật là điều
kiện thiết yếu để sự khám phá, sự đánh giá, lý giải, sự miểu tả mang tính nghệ
thuật của tác giả về đời sống đạt đến tính toàn vẹn, có chiều sâu và có sức hấp
dẫn riêng đối với độc giả. Có thể nói, yếu tố nhân vật chi phối mạnh mẽ đến
sự thành công hay thất bại của tác phẩm.
15
Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn
học có được chiều sâu và tính hình tượng. Vì vậy, nhân vật nhiều khi trở
thành “đối tác” sống động của độc giả, có thể khơi lên những chủ đề đối thoại
thực sự có ý nghĩa về cuộc đời và con người. Nhân vật văn học sẽ có nhiều
chức năng tương ứng với nhiều vai trò khác nhau trong tác phẩm. Nhìn một
cách tổng quát, các chức năng đó là:
Thứ nhất, nhân vật có chức năng miêu tả và khái quát các loại tính cách
trong xã hội. “Văn học không thể thiếu nhân vật vì đó chính là phương tiện cơ
bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng” [9]. Với chức năng
này, nhân vật chứng tỏ được chức năng vô song của văn học trong việc phản
ánh bản chất của đời sống xã hội qua một hiện tượng mang tính chất kết tinh
là tính cách.
Thứ hai, ngoài việc thể hiện tính cách, nhân vật còn là công cụ để nhà
văn sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm, là chiếc chìa khóa để nhà
văn mở cánh cửa bước vào hiện thực đời sống vô cùng rộng lớn, đặt ra những
vấn đề mới mẻ, sâu sắc, có ý nghĩa.
Thứ ba, nhân vật có chức năng biểu hiện tư tưởng, quan niệm của nhà
văn về con người và cuộc sống. “Nhân vật là công cụ cho nên việc tìm ra
nhân vật mới bao giờ cũng là chìa khóa để mở rộng các mảng đề tài mới”
[29]. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người là cơ sở để nhà văn xây
dựng nhân vật, hay nói cách khác, nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm
nghệ thuật về con người của nhà văn và nó có thể chỉ được xây dựng dựa trên
cơ sở quan niệm đó. Với các nhân vật cụ thể, thái độ đánh giá về các tính
cách, về các vấn đề xã hội của nhà văn có điều kiện được bộc lộ tốt hơn, tập
trung hơn. Những nét chung của nhân vật văn học trong một thời kỳ, một giai
đoạn có thể cho phép nêu lên những hiện tượng văn học. Chính vì vậy, nhân
16
vật văn học còn là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác
của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc một dòng phong cách.
Thứ tư, nhân vật còn chi phối và góp phần quyết định hình thức tác
phẩm, nhân vật có chức năng quan trọng trong việc tạo nên các mối liên kết
giữa các yếu tố thuộc hình thức tác phẩm. Một phần lớn nhờ nhân vật mà kết
cấu nhiều tác phẩm đạt sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ và nhiều tiềm
năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ được phát lộ, để rồi tự chúng trở
thành những phương diện nghệ thuật độc lập, có thể được nghiên cứu riêng
như một đối tượng thẩm mĩ chuyên biệt.
Như vậy, hiểu được chức năng của nhân vật văn học, người viết có
thêm cơ sở lý luận để nghiên cứu vấn đề nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai.
1.3 Các loại nhân vật văn học
Thế giới nhân vật văn học cũng mênh mông, phong phú tương tự như
thế giới con người trong thực tại. Dưới ngòi bút của các nhà văn, mỗi nhân
vật có nét độc đáo riêng. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu văn học đã chia thế
giới nhân vật thành các kiểu loại nhân vật khác nhau để thuận tiện trong việc
tiếp nhận, phân tích và đánh giá. Có nhiều tiêu chí phân loại, với mỗi tiêu chí
sẽ xuất hiện một danh sách các loại nhân vật khác nhau.
Thứ nhất, dựa vào vai trò của nhân vật với nội dung và hình thức của
tác phẩm có nhân vật chính, nhân vật trung tâm và nhân vật phụ. Trong đó,
nhân vật chính đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều và liên quan đến các sự
kiện chủ yếu trong tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của
tác phẩm. Trong một tác phẩm có nhiều nhân vật chính, nhân vật chính có vai
trò quan trọng hơn cả là nhân vật trung tâm. Nhân vật trung tâm xuyên suốt từ
đầu đến cuối tác phẩm, về mặt ý nghĩa, đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn
của tác phẩm. Còn các nhân vật phụ mang tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính
17
chất phụ trợ, bổ sung, có vai trò khá khiêm tốn trong những sự kiện chính của
tác phẩm.
Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm tính cách của nhân vật và mối quan hệ
thuận nghịch giữa nhân vật với lý tưởng xã hội, lý tưởng thẩm mỹ của nhà
văn, có thể chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Trong đó,
nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) là nhân vật chiếm được tình yêu, niềm
tin, mang lý tưởng, quan niệm đạo đức tốt đẹp của tác giả và của thời đại,
được nhà văn khẳng định, đề cao, còn nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực)
thì ngược lại, mang phẩm chất xấu, trái với lý tưởng đạo đức, đáng lên án và
phủ định.
Thứ ba, dựa vào sự chi phối của quy luật thể loại đến nhân vật, theo
cách phân chia loại thể theo truyền thống của Aristot thì nhân vật gồm có
nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự, nhân vật kịch. Trong đó, nhân vật trữ tình
được thể hiện chủ yếu qua thế giới tinh thần, nội tâm và cảm xúc phong phú.
Nhân vật tự sự là nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm tự sự (truyện, tiểu
thuyết, ký…), thường được hiện lên đầy đủ từ ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ
đến nội tâm bên trong. Nhân vật tự sự là con người đời thường tham gia vào
các tình huống khác nhau của đời sống để tạo thành các diễn trình tự sự trong
tác phẩm. Còn nhân vật kịch là loại nhân vật hiện lên chủ yếu qua hành động
và đối thoại.
Thứ tư, dựa vào hình thức cấu trúc hình tượng nhân vật, nhân vật được
phân chia thành: nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách,
nhân vật tư tưởng. Trong đó, nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn
học cổ đại và trung đại, là loại nhân vật xuất hiện để thực hiện một số chắc
năng nhất định nào đó trong tác phẩm và trong việc phản ánh đời sống. Loại
nhân vật này thường có đặc điểm, tính cách ổn định với những phẩm chất cố
định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Nhân vật loại hình là loại nhân vật thể
18
hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định của
một thời. Nhân vật loại hình thể hiện được những nét đặc trưng, ổn định và
bất biến ở phẩm chất xã hội, đạo đức, tính cách của một loại người. Đó là
nhân vật nhằm khái quát cái chung về loại của các tính cách và nhờ vậy được
gọi là điển hình. Loại nhân vật này bao giờ cũng có một số phẩm chất loại
biệt về mặt xã hội được nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Dĩ nhiên, nhân
vật loại hình cũng đòi hỏi một cá tính nhất định, được thể hiện một cách sinh
động qua các chi tiết cụ thể, chân thực. Nhân vật tính cách là loại nhân vật có
tính cách nổi bật, được xây dựng cụ thể, sinh động. Nhân vật tính cách thường
đa diện, chứa đầy mâu thuẫn và chính những mâu thuẫn ấy làm cho tính cách
không tĩnh tại mà vận động, phát triển. Nhân vật tư tưởng là nhân vật có tư
tưởng, nhân cách nhưng cơ bản thể hiện tập trung tư tưởng của tác giả. Xây
dựng loại nhân vật này, các nhà văn nhằm tới việc phát biểu hoặc tuyên
truyền cho một tư tưởng nào đó về đời sống.
Trên đây là những loại nhân vật thường gặp, sự phân biệt này chỉ mang
tính chất tương đối. Bởi thực tiễn sáng tác cực kỳ phong phú, đa đạng, loại
nhân vật này có thể bao hàm một số yếu tố của loại nhân vật kia. Loại nhân
vật nào cũng có vẻ đẹp riêng, mang sức hấp dẫn riêng của nó.
1.4 Nhân vật nữ trong văn học
1.4.1 Nhân vật nữ trong văn học thế giới
Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống, là sản phẩm tuyệt diệu của tạo hóa, là
biểu tượng của cái đẹp, là hiện thân của sự sinh tồn và luân chuyển sự sống.
Trong dòng chảy văn học từ cổ chí kim, hình tượng nhân vật nữ luôn là nguồn
cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời vẫn chưa khai thác hết. Mỗi nhà văn,
mỗi thời đại khác nhau lại có cái nhìn khác nhau, có sự phản ánh khác nhau
về người phụ nữ. Do đó, hình tượng người phụ nữ mang những nét cá tính
19
riêng, độc đáo, giữa các nhân vật không bị hòa lẫn mà khu biệt nhau nhờ một
sức sống riêng mà mỗi nhà văn đã sáng tạo, xây dựng nên.
Nếu như trước đây, nhân vật nữ được phản ánh trong văn học còn đơn
điệu theo một mục đích phê phán hay ngợi ca từ cái nhìn đạo đức thì giờ đây,
hình tượng nhân vật nữ đã có sự “lột xác”. Nhà văn đã xem phụ nữ như một
khách thể thẩm mỹ độc lập, như một thế giới riêng đầy bí ẩn và hấp dẫn cần
được khám phá và lý giải. Người phụ nữ hiện lên trong vẻ đẹp đa chiều, trong
những bi kịch lớn lao của xã hội. Dù xuất hiện dưới góc độ nào thì họ cũng vô
cùng đa dạng, sinh động. Dưới đây chúng tôi xin dẫn ra một số các nhân vật
nữ để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả:
Trước hết là các nhân vật nữ được yêu mến trong một số tác phẩm văn
xuôi đặc sắc. Đó là Natasa trong Chiến tranh và hòa bình (L.Tônxtôi) với tâm
hồn trong sáng, đôn hậu được ví như “hạt ngọc”, biểu trưng cho vẻ đẹp của
người phụ nữ Nga. Nàng hiện lên trong tác phẩm chân thực, sinh động, không
chút kiểu cách, khác hẳn với Lida hay Elen. Cũng chính tâm hồn nhạy cảm,
giàu chất nhạc ấy đã khiến một tâm hồn tưởng chừng khô cằn của Anđrây tiếp
tục sống và yêu thương. Chính người phụ nữ và chỉ có người phụ nữ mới
mang tới điều kì diệu như vậy.
Scarlett Ohara trong Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell là một
tiểu thư xinh đẹp, kiêu kì, có sức cuốn hút kỳ lạ: vừa yếu đuối, mỏng manh lại
vừa mạnh mẽ, can trường; thông minh, có bản lĩnh và ý chí kiên cường vượt
qua mọi hoàn cảnh, những biến cố lịch sử và biến cố cuộc đời. Cô có lúc cao
thượng, sẵn sàng hi sinh nhưng cũng không kém phần xảo quyệt, toan tính,
ích kỷ và vô tâm. Cô đã rong ruổi theo một tình yêu ngộ nhận, để rồi khi cô
nhận ra tình yêu đích thực của mình thì nó đã rời xa cô mãi mãi. Trải qua
cuộc đời biến động với ba đời chồng, kiên cường chống đỡ trước bão táp cuộc
đời, Scarlett đã trở thành hình ảnh của người phụ nữ đầy cá tính, tham vọng,
20
không hề đầu hàng trước số phận, bởi “mai là một ngày mới”. Những mâu
thuẫn trong tính cách cùng những giằng xé trong nội tâm khiến cho nhân vật
có sức hấp dẫn đặc biệt đối với độc giả.
Bên cạnh Scarlett đầy cá tính, dám sống đúng với con người thực của
mình thì nhân vật Maggie trong Tiếng chim hót trong bụi mận gai lại được
Colleen Macugh bao bọc trong một màu sắc lãng mạn. Người đàn ông mà cô
yêu thương duy nhất lại tôn thờ Chúa và coi đó là tình yêu lớn nhất của đời
mình. Đau khổ, tuyệt vọng nhưng Meggie không chịu đầu hàng, quyết đấu
tranh suốt cả cuộc đời để giành lấy tình yêu của cha Ralph với Chúa. Nàng
luôn khao khát yêu thương dù trong khoảnh khắc. Nhân vật đã cho thấy
những khao khát rất đỗi bình dị của người phụ nữ.
Có thể nói, người phụ nữ luôn luôn là đề tài bất tận trong sáng tạo nghệ
thuật. M.Gorki từng khẳng định: “Không có phụ nữ thì hoa hồng không nở,
không có người mẹ thì không có thiên tài”. Chính nhà văn đã khắc họa thành
công hình ảnh người mẹ trong truyện ngắn Một con người ra đời. Một người
mẹ đã “vượt cạn” một cách xuất sắc trong một hoàn cảnh đặc biệt. Bản năng
của một người mẹ, thiên tính phụ nữ đã thôi thúc và là sức mạnh để người mẹ
ấy vượt qua tất cả.
Về thơ ca, các tác giả cũng luôn quan tâm và đề cao người phụ nữ. Tiêu
biểu nhất là Aragông – nhà thơ “Tái sinh từ tình yêu Enxa” đã có những tuyệt
phẩm bắt nguồn từ tình yêu dạt dào, đắm say với Enxa. Một người bạn đời
tuyệt vời đã trở thành hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ để nhà thơ thể hiện những
suy tư, tình cảm, những quan niệm trước cuộc đời.
Văn học nghệ thuật đã tạo ra những hình tượng nhân vật nữ tuyệt đẹp.
Chính vẻ đẹp huyền diệu, lạ thường tỏa ra từ hình thức, từ tâm hồn người phụ
nữ đã khiến các nghệ sỹ say mê khám phá, kiếm tìm và lý giải. Do đó, mảng
đề tài về người phụ nữ luôn luôn khiến độc giả quan tâm sâu sắc.