Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Chuỗi cung ứng mặt hàng cá tra, cá basa xuất khẩu vào thị trường mỹ thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504 KB, 84 trang )

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm qua, hàng thủy sản luôn là một trong những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính
thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam liên tục đạt được mức kim ngạch và tốc độ tăng trưởng khả quan.
Trong đó, cá Tra, cá Basa là một trong những sản phẩm quan trọng nhất và
hiện nay chiếm khoảng 30 đến 34% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả
nước. Cá Tra Việt Nam đã có mặt tại hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới, chiếm hơn 80% sản lượng cá tra toàn cầu. Đặt biệt, thị trường
Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ cá Tra, cá Basa lớn nhất của Việt
Nam với giá trị xuất khẩu đạt trên 358 triệu USD vào năm 2012, chiếm
khoảng hơn 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt
Nam.
Tuy đã và đang đạt được nhiều thành công nhưng ngành xuất khẩu cá
Tra, cá Basa vào thị trường Mỹ vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.
Đó là việc Mỹ áp đặt thuế chống bán phá giá theo các mức thuế khác nhau
làm người dân Việt Nam luôn trong tình thế bị động và lo lắng. Vậy làm thế
nào để nâng cao vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu cá Tra, cá
Basa của Việt Nam trên thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường Mỹ? Tôi cho
rằng mọi vấn đề đều nằm trong “chuỗi cung ứng” bởi trong chuỗi có một mối
liên hệ chặt chẽ giữa người nuôi, nhà chế biến và nhà phân phối. Chỉ khi
chúng ta xây dựng được và áp dụng một chuỗi cung ứng bền vững thì mới có
thể đảm bảo chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc, giải trình các chi phí
một cách rõ ràng, khách quan, có mối tiêu thụ ổn định và khi đó xuất khẩu cá
Tra, cá Basa mới phát triển bền vững được. Đứng trên góc độ một nhà quản lí
doanh nghiệp xuất khẩu cá Tra, cá Basa của Việt Nam, tôi thiết nghĩ chìa khóa
để giải quyết các vấn đề hiện nay là chúng ta cần phải có một sự nghiên cứu kĩ
lưỡng về chuỗi cung ứng để từ đó có thể đưa ra được các giải pháp phù hợp
với từng khâu trong chuỗi và phù hợp với từng thị trường xuất khẩu. Do vậy,
tôi đã quyết định chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là “Chuỗi cung ứng mặt
hàng cá Tra, cá Basa xuất khẩu vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải


pháp”.
1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng chuỗi cung ứng cá Tra, cá Basa của Việt Nam xuất
khẩu vào thị trường Mỹ để từ đó tìm ra những điểm mạnh cũng như những
vấn đề còn tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra, cá Basa xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra, cá Basa của Việt
Nam xuất khẩu sang Mỹ.
 Phạm vi nghiên cứu: thực trạng chuỗi cung ứng cá Tra, cá Basa tại Việt Nam
xuất khẩu sang Mỹ trong vòng 5 năm trở lại đây.
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Bố cục
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng biểu, bài khóa luận gồm 60 trang được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Trong phần này người viết đưa ra lý thuyết tổng quát nhất về chuỗi
cung ứng, chuỗi cung ứng mặt hàng thủy sản và vấn đề về truy xuất nguồn
gốc trong chuỗi cung ứng
Chương 2: Thực trạng chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra, cá Basa
xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Phần này người viết nghiên cứu một cách tổng quát về thị trường Mỹ
và đi sâu về các thành phần, đối tượng tham gia vào chuỗi cung ứng cá Tra,
cá Basa xuất khẩu của Việt Nam, từ đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra,
cá Basa của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Trên cơ sở những hạn chế tìm ra ở chương 2, người viết đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra, cá Basa xuất khẩu
vào Mỹ của Việt Nam
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHUỖI CUNG ỨNG

1.1. Lý thuyết tổng quát về chuỗi cung ứng
1.1.1. Định nghĩa chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng
1.1.2. Các thành phần của chuỗi cung ứng và các đối tượng liên quan
1.1.2.1. Các thành phần của chuỗi cung ứng
1.1.2.2. Các đối tượng tham gia vào chuỗi cung ứng
1.1.3. Các hoạt động trong chuỗi cung ứng
1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả của chuỗi cung ứng
1.1.5. Ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng
1.2. Khái quát về chuỗi cung ứng mặt hàng thủy sản
1.2.1. Đặc điểm nổi bật của ngành thủy sản
1.2.2. Cấu trúc cơ bản của một chuỗi cung ứng thủy sản
1.2.3. Vấn đề truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng ngành thủy sản
1.2.3.1. Khái niệm về truy xuất nguồn gốc
1.2.3.2. Quy trình truy xuất thông tin theo chuỗi đối với hàng thủy sản
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG ỨNG MẶT HÀNG CÁ TRA,
CÁ BASA XUẤT KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
2.1. Giới thiệu tổng quan về thị trường Mỹ
2.1.1. Nhu cầu tiêu thụ cá Tra, cá Basa ở Mỹ
2.1.2. Ảnh hưởng của việc nhập khẩu cá Tra, cá Basa đối với ngành sản xuất
cá da trơn của Mỹ
2.1.3. Một số tiêu chuẩn đối với sản phẩm thủy sản được chấp nhận ở Mỹ
2.1.3.1. HACCP
2.1.3.2. GlobalGap
2.1.3.3. SQF
2.1.3.4. ASC
2.1.3.5. BRC
2.2. Thực trạng chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra, cá Basa xuất khẩu sang Mỹ
2.2.1. Cấu trúc chuỗi cung ứng cá Tra, cá Basa xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường Mỹ
2.2.1.1. Nuôi cá Tra, cá Basa

2.2.1.2. Vận chuyển cá Tra, cá Basa về các nhà máy chế biến
2.2.1.3. Chế biến và đóng gói
2.2.1.4. Vận chuyển thành phẩm ra cảng
2.2.1.5. Xuất khẩu vào Mỹ
2.2.2. Đánh giá thực trạng chuỗi cung ứng cá Tra, cá Basa xuất khẩu sang Mỹ
của Việt Nam
2.2.2.1. Ưu điểm
2.2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại
2.2.2.2.1. Nguồn nguyên liệu đầu vào chưa ổn định
2.2.2.2.2. Thiếu tính quy hoạch, thống nhất trong dây chuyền cung ứng
2.2.2.2.3. Hạn chế ở khâu nuôi trồng
2.2.2.2.4. Hạn chế ở khâu đánh bắt
2.2.2.2.5. Hạn chế ở khâu chế biến
2.2.2.2.6. Hạn chế trong khâu vận chuyển
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHUỖI CUNG ỨNG MẶT
HÀNG CÁ TRA, CÁ BASA XUẤT KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
3.1. Định hướng phát triển ngành xuất khẩu cá Tra, cá Basa vào thị trường
Mỹ trong những năm tới
3.2. Giải pháp
3.2.1. Giải pháp đối với nguồn nguyên liệu đầu vào
3.2.2. Giải pháp đối với các đối tượng trong chuỗi cung ứng
3.2.2.1. Giải pháp đối với nhà nuôi
3.2.2.2. Giải pháp đối với nhà đánh bắt
3.2.2.3. Giải pháp đối với nhà sản xuất, chế biến
3.2.2.4. Giải pháp đối với nhà vận chuyển
3.2.3. Kiến nghị với nhà nước
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHUỖI CUNG ỨNG
1.1. Lý thuyết tổng quát về chuỗi cung ứng
1.1.1. Định nghĩa chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng

Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu tiếp cận chuỗi cung ứng theo những
hướng khác nhau và cũng có rất nhiều định nghĩa về chuỗi cung ứng:
“Chuỗi cung ứng là sự liên kết các công ty nhằm đưa sản phẩm và dịch
vụ vào thị trường”- “Fundaments of Logistics Management”, Lambert, Stock
and Ellram (1998, Boston MA: Irwin/McGraw- Hill, c.14)
“Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối
nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên vật liệu, chuyển đổi nguyên
liệu thành bán thành phẩm, thành phẩm và phân phối chúng cho khách
hàng”- “An introduction to supply chain management”, Ganesham, Ran and
Tery P.Harison, 1995.
“Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức
tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn bao
gồm cả nhà vận chuyển, kho bãi, nhà bán lẻ và khách hàng”- “Supply chain
managment: Strategy, planning and operation”, Sunil Chopra and Peter
Meindl, 2001, Upper Saddle Riverm NI: Prentice Hall C1).
Như vậy, chuỗi cung ứng là một mạng lưới với các mắt xích có mối liên
hệ chặt chẽ nhằm thực hiện chức năng thu mua nguyên vật liệu; sản xuất, chế
biến nguyên vật liệu thành bán thành phẩm và thành phẩm và phân phối sản
phẩm tới nơi tiêu thụ cuối cùng.
Quản trị chuỗi cung ứng
Quản trị chuỗi cung ứng là gì? Thuật ngữ này ra đời vào cuối những
năm 1980 và trở nên phổ biến vào những năm 1990. Có rất nhiều định nghĩa
về quản trị chuỗi cung ứng:
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng Mỹ: Quản trị chuỗi cung ứng là việc
quản lý cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và
lắp ráp, kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn
hàng, phân phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng.
Theo Hội đồng quản trị hậu cần Mỹ: Quản trị chuỗi cung ứng là sự phối
hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh doanh truyền thống và các

sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một công ty cụ thể và giữa các
doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với mục đích cải thiện thành tích dài hạn
của các công ty đơn lẻ và của cả chuỗi cung ứng.
Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà quản trị chuỗi cung ứng: Quản trị
chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan
đến tìm nguồn cung, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị
logistics. Ở mức độ quan trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp
và cộng tác của các đối tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung
gian, các nhà cung cấp dịch vụ, khách hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung
ứng sẽ tích hợp vấn đề quản trị cung cầu bên trong và giữa các công ty với
nhau. Quản trị chuỗi cung ứng là một chức năng tích hợp với vai trò đầu tiên
là kết nối các chức năng kinh doanh và các qui trình kinh doanh chính yếu bên
trong công ty và của các công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu
quả cao và kết dính. Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt động
quản trị logistics đã nêu cũng như những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự
phối hợp về qui trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh,
thiết kế sản phẩm, tài chính, công nghệ thông tin.
Theo uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á Thái Bình Dương (Economic and
Social Commission for Asia and the Pacific - ESCAP): Quản trị chuỗi cung ứng
là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi quan hệ từ nhà cung cấp
nguyên liệu – đơn vị sản xuất - đến người tiêu dùng. Khái niệm quản trị chuỗi
cung ứng chú trọng việc phát triển các mối quan hệ với đối tác, kết hợp chặt
chẽ giữa nhà sản xuất với nhà cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên quan
như các công ty vận tải, kho bãi, giao nhận và các công ty công nghệ thông tin.
Vậy quản trị chuỗi cung ứng thực chất là những cách thức tổ chức sao
cho hoạt động có hiệu quả của nhà cung cấp, người sản xuất, khai thác hệ
thống kho bãi, sử dụng các dịch vụ và các điểm bán hàng nhằm phân phối
hàng hóa được sản xuất đến đúng địa điểm, đúng lúc, đúng yêu cầu về chất
lượng, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí toàn hệ thống nhưng vẫn thỏa mãn
được yêu cầu của khách hàng.

1.1.2. Các thành phần của chuỗi cung ứng và các đối tượng liên quan
1.1.2.1. Các thành phần của chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng của các sản phẩm khác nhau thì có các mắt xích cũng
như các đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung bất kì một chuỗi cung ứng
nào cũng được cấu tạo từ 5 thành phần cơ bản. Đó là: sản xuất, vận chuyển,
tồn kho, định vị, thông tin. Các thành phần này là các nhóm chức năng khác
nhau và cùng nằm trong dây chuyền cung ứng.
Sản xuất: là khả năng của hệ thống cung ứng sản xuất ra và lưu giữ
sản phẩm. Nhà xưởng, nhà kho là những cơ sở vật chất, trang thiết bị quan
trọng nhất của thành phần này. Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp
phải biết cân bằng giữa khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng và hiệu
quả sản xuất của doanh nghiệp thông qua việc xác định đúng đắn là phải sản
xuất cái gì, số lượng bao nhiêu? Sản xuất như thế nào, quản lý và giám sát quá
trình sản xuất ra sao? Khi nào cần sản xuất và mất bao lâu để có được sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường?
Có hai phương pháp sản xuất:
 Tâm điểm sản xuất: Đi theo phương pháp này các doanh nghiệp sẽ thực hiện
các hoạt dộng sản xuất khác nhau để tạo ra các dòng sản phẩm khác nhau và
lắp ráp tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Phương pháp này có xu hướng đi sâu vào
việc phát triển một sản phẩm với sự đặc biệt hóa một số chức năng nào đó.
 Tâm điểm chức năng: Phương pháp này đi sau vào việc chuyên môn hóa một
vài hoạt động sản xuất để tạo ra những bộ phận nhất định hay chỉ tập trung
vào công việc lắp ráp. Các chức năng này có thể áp dụng để sản xuất nhiều
loại sản phẩm khác nhau. Không giống như phương pháp tâm điểm sản xuất,
phương pháp này lại chú trọng về các chức năng cụ thể thay vì chuyên về một
sản phẩm sẵn có.
Mỗi phương pháp có những ưu và nhược điểm riêng nên doanh nghiệp
cần có những quyết định sáng suốt trong việc lựa chọn phương pháp sản xuất
thích hợp ứng với từng giai đoạn để đảm bảo đủ công suất nhưng cũng phải
có sư chuyên môn hóa cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Ứng với mỗi phương pháp sản xuất cần có một sự lựa chọn phương
pháp lưu kho sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Có ba cách lưu kho
doanh nghiệp thường áp dụng:
 Lưu kho theo đơn vị: Đây là một phương pháp truyền thống, hiệu quả và đơn
giản mà các doanh nghiệp hay dùng nhất. Theo phương pháp này, tất cả cá
sản phẩm cùng loại sẽ được lưu giữ chung ở một nơi.
 Lưu kho theo công năng: Theo phương pháp này, mọi sản phẩm khác nhau có
liên quan đến nhu cầu của một nhóm khách hàng hay một công việc cụ thể
nào đó sẽ được lưu giữ chung với nhau. Phương pháp này rất hiệu quả trong
việc đóng gói, giúp tiết kiệm thời gian và công sức nhưng lại yêu cầu không
gian lưu trữ rộng hơn so với phương pháp lưu kho theo đơn vị.
 Lưu kho chéo: Với phương pháp này, kho hàng là nơi lưu trữ các lộ trình
trong đó các xe tải đến từ nhà cung cấp và vận chuyển xuống một lượng lớn
các loại hàng hóa khác nhau. Những lô hàng lớn này sẽ được chia ra thành
các lô hàng nhỏ hơn và phân phối đến điểm giao hàng cuối cùng.
Vận chuyển: là việc vận chuyển các nguyên vật liệu, bán thành phẩm
cũng như các sản phẩm giữa các vị trí khác nhau trong chuỗi cung ứng. Trong
việc vận chuyển, thông qua việc lựa chọn phương thức vận chuyển có thể thấy
được mối liên hệ giữa khả năng đáp ứng nhu cầu vận chuyển và hiệu quả
công việc. Hiện nay có 6 phương thức vận chuyển phổ biến mà các doanh
nghiệp có thể sử dụng:
Đường biển: giá cước rẻ, mất nhiều thời gian vận chuyển nhất và bị
giới hạn về địa điểm giao nhận.
Đường sắt: giá cước rẻ, thời gian vận chuyển trung bình, bị giới hạn về
địa điểm giao nhận.
Đường bộ: tương đối nhanh, linh hoạt, chi phí dễ biến động do chi phí
nhiên liệu biến động và chất lượng đường xá thay đổi.
Đường hàng không: thời gian vận chuyển nhanh, giá thành cao, bị giới
hạn bởi địa điểm giao nhận và công suất vận chuyển.
Dạng điện tử: giá thành rẻ, mất ít thời gian vận chuyển nhất nhưng bị

giới hạn về loại hàng hoá vận chuyển (chỉ dành cho dữ liệu, âm thanh, hình
ảnh, nhạc, văn bản…).
Đường ống: tương đối hiệu quả nhưng bị giới hạn loại hàng hoá (chỉ
sử dụng được khi hàng hóa là chất lỏng, chất khí ).
Mỗi phương thức vận chuyển có những ưu và nhược điểm nhất định.
Do đó, các doanh nghiệp phải lựa chọn được các phương thức tốt nhất trên cơ
sở cân bằng giữa chi phí và lợi nhuận của mình nhưng phải đảm bảo chất
lượng hàng trong suốt quá trình vận chuyển.
Tồn kho: là việc giải quyết vấn đề hàng hoá được sản xuất ra tiêu thụ
như thế nào. Hàng tồn kho xuất hiện trong hầu hết các mắt xích của chuỗi
cung ứng, từ nguyên vật liệu, bán thành phẩm đến thành phẩm. Chính yếu tố
tồn kho sẽ góp phần quyết định doanh thu và lợi nhuận của một doanh nghiệp.
Tồn kho ít tức là sản phẩm sản xuất ra bao nhiêu sẽ được tiêu thụ hết bấy
nhiêu. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, doanh
nghiệp cần cân nhắc giữa việc sẵn sàng đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của
khách hàng và tính hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp mình. Tồn
kho một lượng nguyên liệu lớn sẽ giúp chuỗi cung ứng đáp ứng nhanh với
những yêu cầu mới của khách hàng. Trong mỗi mắt xích của chuỗi cung ứng,
các nhà quản trị cần phải xử lí các câu hỏi: Cần tồn kho những mặt hàng nào,
trong giai đoạn nào, với số lượng bao nhiêu? Điều đó cũng phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực bảo quản cũng như hệ thống trang thiết bị, cơ sở vật chất
phục vụ cho việc bảo quản hàng tồn kho.
Có ba vấn đề mà nhà quản trị doanh nghiệp cần xem xét trong việc sản
xuất và lưu giữ hàng tồn kho:
 Hàng tồn kho chu kỳ: Là lượng hàng tồn kho cần thiết để đáp ứng nhu cầu sản
phẩm trong kỳ giữa các lần thu mua sản phẩm. Các doanh nghiệp thường sản
xuất và thu mua các lô hàng lớn để được hưởng lợi ích theo quy mô hay lợi
ích từ việc mua sỉ. Tuy nhiên, các lô hàng lớn cũng tiềm ẩn những rủi ro như
phát sinh chi phí bảo quản, lưu trữ, trông non hay thiệt hại khi hàng bị hỏng
Do đó các doanh nghiệp phải có sự cân nhắc giữa giảm chi phí đặt hàng, chi

phí nguyên liệu khi sản xuất lớn và những rủi ro có thể xảy ra.
 Hàng tồn kho an toàn: Do nhu cầu của con người luôn thay đổi nên cần phải
có một lượng hàng dự phòng để đáp ứng trong trường hợp nhu cầu tăng lên
đột ngột. Ở đây doanh nghiệp cần cân nhắc giữa chi phí lưu kho, chi phí trung
chuyển hàng tồn kho và lượng doanh thu bị mất do không đủ hàng tồn kho.
 Hàng tồn kho thời vụ: Là lượng hàng được dự trữ để đáp ứng nhu cầu tăng
đột biến vào những thời điểm nhất định trong năm. Tuy nhiên, nếu việc dự
đoán nhu cầu không chính xác thì có thể dẫn đến những mất mát lớn. Do vậy,
thay vì dự trữ hàng tồn kho, các doanh nghiệp nên đầu tư vào việc cải tiến
trang thiết bị sản xuất để có thể tăng năng suất nhằm đáp ứng sự biến động
của nhu cầu trong thời gian ngắn. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cần
cân nhắc giữa chi phí của việc lưu kho hàng và chi phí đầu tư để cải thiện
năng lực sản xuất.
Định vị: là việc trả lời cho các câu hỏi: Tìm kiếm các nguồn nguyên vật
liệu sản xuất ở đâu? Sản xuất ở đâu? Đâu là nơi tiêu thụ tốt nhất? Ở đây, sự
cân nhắc giữa tính đáp ứng nhanh và hiệu quả sản xuất được nhìn thấy trong
việc ra các quyết định tập trung các hoạt động ở một vài nơi nhất định nhằm
đạt được hiệu quả sản xuất theo quy mô hay việc phân bổ các hoạt động ra
nhiều nơi khác nhau để tiếp cận gần với khách hàng và nhà cung cấp nhằm
giảm chi phí phân phối… Nhìn chung, các quyết định về định vị bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố: chi phí vận chuyển, chi phí nhân công, sự sẵn có về lao động,
điều kiện cơ sở vật chất, sự thuận lợi về khí hậu, địa hình, Định vị tốt sẽ giúp
quy trình sản xuất được tiến hành một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Đồng thời qua đó cũng phản ánh được chiến lược của doanh nghiệp trong
việc xây dựng, phát triển và phân phối sản phẩm trong dài hạn.
Thông tin: là cơ sở để có được những quyết định liên quan đến sản
xuất, vận chuyển, tồn kho và định vị. Nếu thông tin chuẩn xác, hệ thống quản
trị chuỗi cung ứng sẽ mang lại những kết quả chuẩn xác, các mắt xích trong
chuỗi cung ứng sẽ đưa ra được các quyết định phù hợp nhất với hoạt động
của họ. Ngược lại, với những thông tin sai lệch, hệ thống quản trị chuỗi cung

ứng sẽ không thể phát huy hết tác dụng. Thông tin cần được khai thác từ
nhiều nguồn khác nhau và cần phải cố gắng thu thập nhiều nhất lượng thông
tin cần thiết. Trong chuỗi cung ứng, thông tin được sử dụng với hai mục đích.
Đầu tiên, thông tin được sử dụng để ra các quyết định phục vụ cho hoạt động
hàng ngày như kế hoạch thu mua nguyên vật liệu, sản xuất, lượng tồn kho, lộ
trình vận chuyển, Thứ hai, thông tin dùng để dự đoán và lên kế hoạch sản
xuất dài hạn, thỏa mãn nhu cầu trong trong tương lai, mở rộng hay thu hẹp
quy mô, thâm nhập thị trường mới. Xét về tổng thể, trong một chuỗi cung ứng,
các thông tin về cung cầu, phản hồi từ khách hàng, dự báo thị trường và kê
hoạch tương lai mà các mắt xích trao đổi với nhau càng nhiều thì hoạt động
của toàn chuỗi càng hiệu quả.
Hình 1.1: Sơ đồ mối liên hệ giữa 5 yếu tố cơ bản của một chuỗi cung
ứng
chuỗi cung ứng mở rộng) và các công ty cung cấp dịch vụ cho các công ty
khác trong chuỗi. Đó là những công ty cung cấp các dịch vụ hậu cần, tài chính,
tiếp thị, quảng cáo, công nghệ thông tin. Các công ty cung cấp dịch vụ hậu cần
này tùy thuộc vào từng chuỗi mà có những dịch vụ đặc thù khác nhau. Ví dụ
như đối với chuỗi cung ứng hàng thủy sản, ngoài các công ty cung cấp các
dịch vụ về tài chính, tiếp thị, nghiên cứu thị trường còn có các công ty cung
cấp dịch vụ thức ăn chăn nuôi, kiểm tra sức khỏe con giống, thuốc thú y…
Nhìn chung, trong bất kì chuỗi cung ứng nào cũng luôn cần sự kết hợp
hiệu quả giữa các mắt xích, mỗi mắt xích sẽ đảm nhận một vai trò nhất định
và sự thành công hay thất bại của mỗi mắt xích sẽ ảnh hưởng đến những mắt
xích ứng lại. Dưới đây là các đối tượng (mắt xích) điển hình trong một chuỗi
cung ứng:
Nhà cung cấp: Là các hộ gia đình, công ty, doanh nghiệp cung cấp
nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Thông thường, nhà
cung cấp được hiểu là những đơn vị cung cấp nguyên vật liệu trực tiếp như
nguyên liệu thô, các bộ phận của sản phẩm, bán thành phẩm Ngoài ra còn có
các nhà cung cấp dịch vụ. Đó là những công ty cung cấp dịch vụ cho các nhà

sản xuất, phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Họ thường phát triển theo
hướng chuyên môn hóa để tập trung vào một hoạt động nhất định nhằm phục
vụ cho chuỗi cung ứng hiệu quả hơn và tốn ít chi phí hơn so với việc nhà sản
xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay khách hàng tự làm.
Nhà sản xuất: Là các nhà máy, xí nghiệp sản xuất thành phẩm sử dụng
nguyên vật liệu và các bán thành phẩm của các nhà sản xuất khác để làm ra
thành phẩm cuối cùng. Sản phẩm ở đây không chỉ là những hàng hóa hữu
hình mà còn có thể là các sản phẩm vô hình như các dịch vụ.
Nhà phân phối: Là các công ty mua số lượng lớn sản phẩm từ nhà sản
xuất và phân phối chúng cho các khách hàng. Họ còn được gọi là các nhà bán
buôn và đi bán cho các công ty khác, cửa hàng khác với số lượng lớn hơn
lượng mà người tiêu dùng mua. Một nhà phân phối cần thực hiện những chức
năng sau: khuyến mại, hạ giá sản phảm, quản lí kho hàng cũng như hàng tồn
kho, vận chuyển sản phẩm, hỗ trợ khách hàng và cung cấp dịch vụ hậu mãi.
Nhà phân phối cũng có thể là nhà môi giới giữa nhà sản xuất và khách hàng
và họ không bao giờ sở hữu sản phẩm. Với vai trò này, họ chủ yếu thực hiện
chức năng khuyến mại và giảm giá sản phẩm. Khi nhu cầu của khách hàng
thay đổi, nhà phân phối lại đóng vai trò trung gian trong việc tiếp nhận và
truyền đạt thông tin tới nhà sản xuất để có những điều chỉnh kịp thời, đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Nhà bán lẻ: Là các cửa hàng dự trữ và bán hàng với số lượng nhỏ hơn
nhà bán nuôn. Họ là nơi cung cấp hàng hóa trực tiếp tới người tiêu dùng. Họ
cũng theo dõi sự thay đổi trong thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng để
phản ánh lại với nhà sản xuất thông qua nhà phân phối. Mục đích chính của
nhà bán lẻ là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mình bán nện họ
thường quảng cáo và sử dụng những kĩ thuật kết hợp về giá, sự lựa chọn và
tiện dụng của sản phẩm.
Khách hàng: Là bất cứ cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp nào mua và
tiêu dùng sản phẩm. Khách hàng có thể là người sử dụng cuối cùng sản phẩm
nhưng họ cũng có thể mua một sản phẩm để kết hợp với sản phẩm khác tạo ra

một sản phẩm mới và bán lại cho một khách hàng khác.
Hình 1.2: Các đối tượng tham gia vào chuỗi cung ứng
Mô hình chuỗi cung ứng giản đơn
Mô hình chuỗi cung ứng mở rộng
Nhà cung
cấp
Nhà sản
xuất
Khách hàng
Khách hàng
cuối cùng
Khách hàngNhà sản
xuất
Nhà cung
cấp
Nhà cung
cấp cuối
cùng
Nhà cung cấp dịch vụ
1.1.3. Các hoạt động trong chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng là sự tổng hợp của rất nhiều hoạt động liên quan đến
các đối tượng khác nhau như lên kế hoạch, tìm kiếm nguồn nguyên liệu, sản
xuất, giao hàng, trả hàng Nhìn chung, các hoạt động trong một chuỗi cung
ứng có thể được chia làm hai nhóm lớn:
 Các hoạt động cơ bản: Nhóm này gồm có các hoạt động như bốc hàng, dỡ
hàng, bảo quản hàng, xuất- nhập hàng ra vào kho, mua bảo hiểm, điều vận lô
hàng
 Các hoạt động tổ hợp: Nhóm này gồm ba nhóm nhỏ hơn:
 Nhóm cơ sở: Gồm các hoạt động nền tảng của một chuỗi cung ứng, đó là cung
ứng, sản xuất và tiêu thụ.

 Nhóm chủ chốt: Gồm các hoạt động như đảm bảo quy trình tiêu chuẩn phục
vụ khách hàng, thu mua nguyên vật liệu, vận tải, dự trữ, quản trị đơn hàng,
quản trị sản xuất, phân bổ nguồn lực
 Nhóm phụ trợ: Gồm các hoạt động xử lí lô hàng, đóng gói, quản lý hàng trả lại,
hệ thống thông tin
Các hoạt động trong chuỗi cung ứng được thực hiện bởi các mắt xích
một cách nhịp nhàng, phối hợp với nhau nhằm đạt được mục đích cuối cùng
của chuỗi là phải tạo ra giá trị về tài chính (gia tăng lợi nhuận cho tất cả các
mắt xích trong chuỗi), giá trị cho khách hàng (chất lượng sản phẩm tốt, giá cả
phải chăng, mạng lưới phân phối rộng khắp và chất lượng dịch vụ tốt) và giá
trị cho toàn xã hội (phát triển bền vững, đóng góp tích cực cho các hoạt động
xã hội và bảo vệ môi trường.
Hình 1.3: Mô hình một số hoạt động trong chuỗi cung ứng trên cơ sở
các mắt xích cơ bản.
Khách hàng
Nhà sản xuất
Nhà cung cấp
1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả của chuỗi cung ứng
Về mặt tổng thể, tính hiệu quả của một chuỗi cung ứng có thể được
đánh giá thông qua giá trị dịch vụ khách hàng hay một số chỉ tiêu về tính
nhanh nhạy như thời gian chu kỳ của toàn chuỗi cung ứng hay chu kỳ tuần
hoàn tiền mặt Tuy nhiên chuỗi cung ứng là tập hợp của các mắt xích nên sự
thành công của một chuỗi cung ứng phụ thuộc rất nhiều vào tính hiệu quả của
từng khâu trong chuỗi. Do vậy, trong phạm vi bài khóa luận này, người viết sẽ
sử dụng phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của một chuỗi cung ứng
thông qua việc xem xét tính hiệu quả của hai khâu quan trọng nhất, có vai trò
quyết định đến sự thành công của một chuỗi cung ứng.
1.1.4.1. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà cung cấp
Hiệu quả hoạt động của nhà cung cấp được đánh giá chủ yếu qua hai
tiêu chí sau:

Sự ổn định của nguồn nguyên liệu cung ứng
Bất kỳ một hoạt động sản xuất nào cũng cần có nguồn nguyên liệu đầu
vào. Sự ổn định về nguồn nguyên liệu đảm bảo cho dây truyền sản xuất diễn ra
liên tục và hiệu quả, tiết kiệm cả về thời gian và chi phí. Tính ổn định này được
thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Số lượng nguyên liệu đầu vào có đáp ứng được nhu cầu sản xuất hay không?
Do nhu cầu của con người luôn thay đổi và rất khó lường trước nên đôi khi
việc dự đoán nhu cầu không thật chính xác dẫn đến tình trạng sản xuất dư
thừa hoặc thiếu hụt. Vì vậy lượng nguyên liệu sẵn sàng để phục vụ sản xuất
Quản trị đơn hàng,
phản hồi về sản phẩm,
dịch vụ,
Quản trị sản xuất, quản
trị dự trữ, quản trị chất
lượng,vận tải nội bộ, kho
bãi, định giá
Cung cấp nguyên vật
liệu, vận chuyển, dự
trữ, lưu kho, xử lí đơn
hàng, cung cấp dịch
vụ
kịp thời trong những thời điểm nhu cầu biến động mạnh là vô cùng quan
trọng, quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp bởi trong môi trường
cạnh tranh khốc liệt như ngày nay thì việc nắm bắt được cơ hội sẽ là một đòn
bẩy giúp doanh nghiệp phát triển nhanh chóng.
- Chất lượng có đạt tiêu chuẩn và đồng nhất hay không? Đủ về mặt số lượng,
kịp thời về thời gian nhưng nếu nguyên liệu đầu vào không đạt tiêu chuẩn thì
sẽ ảnh hưởng xấu tới toàn bộ chuỗi cung ứng bởi doanh nghiệp dù có áp dụng
công nghệ hiện đại tới đâu cũng không thể làm ra những sản phẩm tốt với
nguồn nguyên liệu đầu vào không đảm bảo chất lượng.

- Giá cả nguồn nguyên liệu có ổn định hay không? Chi phí nguyên vật liệu chiếm
phần lớn trong tổng chi phí của một doanh nghiệp sản xuất. Vì vậy, giá cả
nguyên vật liệu đầu vào ổn định có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì
sản xuất, giúp doanh nghiệp đánh giá hiệu quả hoạt động của mình dễ dàng
hơn.
Sự hợp tác, hỗ trợ giữa những nhà cung ứng
Trong cùng một ngành có rất nhiều nhà cung ứng, nhà sản xuất khác
nhau. Mỗi đơn vị nhỏ có những ưu và nhược điểm riêng, đôi khi điểm yếu của
đơn vị này lại là điểm mạnh của đơn vị khác và ngược lại. Do đó, việc hợp tác
và hỗ trợ lẫn nhau để khắc phục những nhược điểm và phát huy những ưu
điểm để cùng xây dựng một khối tổng thể vững mạnh là rất cần thiết. Sự
tương hỗ này được đánh giá thông qua việc các doanh nghiệp có thường
xuyên trao đổi thông tin với nhau hay không? Có cùng nhau thống nhất
phương pháp sản xuất và tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm hay không? Có
giúp đỡ nhau mỗi khi gặp phải khó khăn hay không?
1.1.4.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà sản xuất
Nếu như nhà cung cấp là điểm khởi đầu của một chuỗi cung ứng thì
nhà sản xuất lại là tâm điểm của chuỗi cung ứng đó bởi hoạt động của nhà
sản xuất hướng tới mục đích chính của một chuỗi cung ứng là nhằm tạo ra
sản phẩm cuối cùng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Do vậy, tính hiệu quả
trong hoạt động của nhà sản xuất đóng góp một phần rất quan trọng đến sự
thành công của một chuỗi cung ứng. Để đánh giá về vấn đề này, có hai khía
cạnh quan trọng nhất cần cần xem xét:
Chất lượng sản phẩm
Một doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại lâu dài nếu sản phẩm của họ sản
xuất ra không đảm bảo chất lượng. Do đó các chỉ tiêu về chất lượng cần được
kiểm soát và theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình sản xuất để có thể tạo ra
những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng và các cơ quan
chức năng. Ví dụ như khi đánh giá về chất lượng sản phẩm mặt hàng thủy
sản, người ta thường đặt ra các câu hỏi như hàm lượng dinh dưỡng có đạt

chuẩn không? Có đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm không? Có sử sụng
lượng chất bảo quản vượt mức cho phép hay không? Quy trình đóng gói, bảo
quản có đảm bảo không?
Chất lượng dịch vụ khách hàng
Đánh giá chất lượng dịch vụ khách hàng cho thấy doanh nghiệp nói
riêng và chuỗi cung ứng nói chung hỗ trợ, tương tác với thị trường của họ
như thế nào. Có hai hình thức chủ yếu của một chuỗi cung ứng: sản xuất để
tồn kho và sản xuất theo đơn đặt hàng. Mỗi hình thức lại có những tiêu chí
khác nhau để đánh giá chất lượng dịch vụ khách hàng:
 Đối với trường hợp làm để tồn kho: Trong tình huống này, các tiêu chí phổ
biến được sử dụng gồm: tỉ lệ hoàn tất đơn đặt hàng, tỉ lệ đáp ứng từng khoản
mục cụ thể trong đơn đặt hàng; quá trình phân phối đúng giờ, đúng địa điểm;
giá trị đơn hàng và số đơn hàng bị bỏ lỡ
 Đối với trường hợp làm theo đơn đặt hàng: Trong tình huống này, các chỉ tiêu
hay được sử dụng gồm: tỉ lệ hoàn tất đúng giờ và thời gian hoàn tất đơn
hàng; tỉ lệ phân phối đúng giờ; tính thường xuyên của việc giao hàng trễ
1.1.5. Ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng (SCM)
Đối với các doanh nghiệp nói riêng và cả một ngành hàng nói chung thì
quản lí chuỗi cung ứng có vai trò vô cùng quan trọng:
 SCM tốt giúp doanh nghiệp giải quyết được cả đầu ra lẫn đầu vào một cách
hiệu quả.
 Giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí, tăng khả năng cạnh tranh do
tối ưu hóa chu trình luận chuyển vật liệu, hàng hóa hay dịch vụ
 Có vai trò quan trọng trong việc phân phối sản phẩm đến đúng địa điểm và
trong phạm vi thời gian cho phép.
 Góp phần đẩy mạnh tính hiệu quả trong việc sản xuất và marketing của doanh
nghiệp.
 Cung cấp khả năng trực quan hóa đối với các dữ liệu liên quan đến sản xuất
và khép kín dây chuyền cung cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tối ưu hóa
sản xuất bằng các hệ thống sắp xếp và lên kế hoạch.

 Tạo ra một sự liên kết xuyên suốt từ khâu cung cấp nguyên liệu đến khâu sản
xuất và phân phối sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng.
1.2. Khái quát về chuỗi cung ứng mặt hàng thủy sản
1.2.1. Đặc điểm nổi bật của ngành thủy sản
Những đặc trưng riêng về phương pháp nuôi trồng cũng như sản phẩm
của ngành thủy sản cùng với những tiêu chuẩn mà thị trường đặt ra đòi hỏi
cần có một sự liên kết chặt chẽ giữa các mắt xích trong chuỗi cung ứng mặt
hàng này. Những đặc điểm nổi bật về thị trường và dây chuyền cung ứng của
ngành thủy sản bao gồm:
 Rủi ro cao. Quá trình nuôi trồng phụ thuộc vào điều kiện địa lý và khí hậu nên
đôi khi rất khó dự đoán trước được, có thể bị thay đổi về số lượng, chất lượng
sản phẩm do biến đổi gen, thay đổi mùa vụ, ô nhiễm môi trường
 Sản phẩm dễ hỏng, phải bảo quản trong những điều kiện nhất định, thời gian
sử dụng ngắn.
 Sự khác biệt về tốc độ sản xuất giữa các ngành công nghiệp chế biến và khu
vực nuôi trồng.
 Sự khác biệt về quy mô, trình độ cũng như năng lực sản xuất giữa các nhà
nuôi trồng, nhà sản xuất.
 Nhu cầu về sản phẩm thủy sản tương đôi ổn định.
 Người tiêu dùng ngày càng có những yêu cầu khắt khe về chất lượng sản
phẩm do nhận thức của họ tăng lên và vấn đề bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi
trường ngày càng được chú trọng.
 Sự hạn chế trong nguồn vốn đầu tư cho cơ sở vật chất và công nghệ tiên tiến
dẫn đến việc sản xuất chưa thật hiệu quả.
Đặc tính dễ hư hỏng của sản phẩm thủy sản là một trong những điểm
đáng lưu ý nhất của ngành hàng này, đòi hỏi một quy trình bảo quản hoàn
hảo và một mối liên kết chặt chẽ trong việc vận chuyển xuyên suốt dây truyền
cung ứng. Đặc biệt, trong ngành thủy sản, sự liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa
các mắt xích có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của cả chuỗi một cách đáng
kể bởi thông tin về nguồn gốc sản phẩm sẽ dễ dàng đến với khách hàng và

những biến động trong nhu cầu của người tiêu dùng sẽ nhanh chóng đến với
từng mắt xích trong chuỗi để từ đó có những điều chỉnh cho phù hợp.
1.2.2. Cấu trúc cơ bản của chuỗi cung ứng thủy sản
Hình 1.4: Cấu trúc cơ bản của chuỗi cung ứng thủy sản
Cơ sở đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
Đây là mắt xích đầu tiên của chuỗi cung ứng thủy sản, họ đóng vai trò
là nhà cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp chế biến,
xuất khẩu. Thông thường, các cơ sở nuôi trồng và đánh bắt cung cấp nguyên
liệu cho các doanh nghiệp chế biến thông qua đại lí thu mua. Tuy nhiên, có
trường hợp các cơ sở đánh bắt và nuôi trồng thủy sản trực tiếp cung cấp cung
Nhà phân
phối
Khách hàngDoanh
nghiệp chế
biến
Đại lý thu
mua
Vùng nuôi
trồng và đánh
bắt
Nhà cung cấp dịch vụ
cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp sản xuất. Trong giai đoạn này, việc quản lý
chuỗi cung ứng phải đáp ứng được hai yêu cầu sau:
 Quy trình nuôi trồng, đánh bắt phải đảm bảo các tiêu chuẩn về kĩ thuật cũng
như an toàn thực phẩm do cơ quan quản lý đề ra. Điều này có một vai trò vô
cùng quan trọng bởi nó quyết định đến chất lượng của dòng chảy vật chất
trong toàn chuỗi.
 Phải có sự đánh giá và lựa chọn cơ sở nuôi trồng, đánh bắt ngay từ đầu để tập
trung nguồn lực, tránh lãng phí thời gian và tiền bạc, đảm bảo chất lượng sản
phẩm về sau.

Đại lý thu mua
Là bên trung gian, dẫn truyền các dòng chảy vật chất, tài chính và
thông tin giữa cơ sở đánh bắt, nuôi trồng và doanh nghiệp chế biến. Họ là
người thu mua sản phẩm từ các cơ sở đánh bắt và bán lại cho nhà chế biến.
Trong trường hợp này, họ là người cung cấp nguyên liệu đầu vào trực tiếp
cho doanh nghiệp chế biến. Tuy nhiên, với trường hợp các cơ sở nuôi trồng
cung cấp trực tiếp sản phẩm của họ đến doanh nghiệp sản xuất thì họ vẫn có
vai trò là đại lý thu mua. Sự xuất hiện của đại lý thu mua trong chuỗi cung
ứng mang lại lợi ích cho cả cơ sở nuôi trồng, đánh bắt và nhà sản xuất, chế
biến:
 Cơ sở nuôi trồng, đánh bắt: có nơi tiêu thụ với giá cả và số lượng ổn định, có
nguồn cung cấp thông tin tương đối chính xác và nhanh chóng về nhu cầu
cũng như những yêu cầu của thị trường.
 Doanh nghiệp chế biến: có nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định, không mất
nhiều thời gian đàm phán về giá cả và truyền đạt yêu cầu về chất lượng
nguyên liệu đầu vào.
Doanh nghiệp chế biến
Là các công ty, nhà máy thu mua nguyên liệu đầu vào từ đại lý thu mua
và tiến hành chế biến, đóng gói tạo ra sản phẩm cuối cùng. Họ có nhiệm vụ
phân loại và đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra các loại hàng hóa với bao bì, mẫu
mã, chất lượng khác nhau. Bên cạnh đó, họ phải xây dựng được một quy trình
sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn của người tiêu dùng và các cơ quan chức năng
và phải đầu tư hệ thống nhà kho bảo quản đạt chuẩn để đảm bảo chất lượng
sản phẩm.
Nhà phân phối
Nhà phân phối đóng vai trò trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng. Nhiệm vụ của nhà phân phối là tìm kiếm nhu cầu tại các địa điểm khác
nhau và vận chuyển hàng hóa giao cho người tiêu dùng. Ngoài ra họ còn là
kênh trung gian truyền đạt những yêu cầu cũng như các phản hổi từ người
tiêu dùng đến doanh nghiệp chế biến để từ đó doanh nghiệp chế biến có

những điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Khách hàng
Đáp ứng nhu cầu của khách hàng là mục tiêu hướng tới của bất kì
chuỗi cung ứng nào. Sự hài lòng của khách hàng là một trong những tiêu chí
để đánh giá sự thành công của một chuỗi cung ứng. Nhu cầu của khách hàng
định hướng cho việc sản xuất của các doanh nghiệp chế biến và việc nuôi
trồng của các cơ sở nuôi trồng- đánh bắt.
Nhà cung cấp dịch vụ
Nhà cung cấp dịch vụ có vai trò cung cấp các dịch vụ hỗ trợ giúp cho
toàn chuỗi cung ứng được vận hành liên tục. Chất lượng dịch vụ tốt làm đẩy
nhanh các hoạt động, tiết kiệm thời gian và chi phí, từ đó tăng hiệu quả hoạt
động của chuỗi.
1.2.3. Vấn đề truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng thủy sản
1.2.3.1. Khái niệm về truy xuất nguồn gốc
Nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng và những yêu cầu về
pháp lý cũng như cung cấp thông tin cho doanh nghiệp để trợ giúp trong việc
kiểm soát và quản lý quá trình sản xuất và hỗ trợ trong việc giải quyết các
khiếu nại đòi hỏi cần có một chương trình truy xuất nguồn gốc. Có rất nhiều
khái niệm về truy xuất nguồn gốc, dưới đây là một vài định nghĩa phổ biến:
Theo Ủy ban Codex/FAO: Truy xuất nguồn gốc là khả năng theo dõi,
nhận diện được một đơn vị sản phẩm qua từng công đoạn của quá trình sản
xuất, chế biến và phân phối.
Theo qui định 178/2002/EC của Liên minh Châu Âu: Truy xuất nguồn
gốc là khả năng cho phép truy tìm tất cả các công đoạn của quá trình sản
xuất, chế biến, phân phối của một sản phẩm thực phẩm, một sản phẩm thức
ăn động vật, một động vật dùng để chế biến thực phẩm hoặc một chất được
dùng để đưa vào hoặc có thể được đưa vào một sản phẩm thực phẩm hoặc
thức ăn cho động vật.
Theo ISO 9000:2008: Truy xuất nguồn gốc có nghĩa là khả năng truy lại
các hồ sơ, các ứng dụng hay vị trí của những gì liên quan đến sản phẩm.

Nói tóm lại, truy xuất nguồn gốc là quá trình tìm dấu vết và truy tìm
theo dấu vết. Bằng việc tìm ra dấu vết, sản phẩm được xác định, đánh dấu và
ghi lại thông tin từ nguồn nguyên vật liệu đến tay người tiêu dùng. Tất cả
thông tin liên quan đến sản phẩm như: nguồn nguyên vật liệu, xuất xứ, cách
thức sản xuất hay những vấn đề liên quan khác đều được chỉ ra trên bao bì
của sản phẩm một cách rõ ràng.
Truy xuất nguồn gốc góp phần ngăn ngừa hàng giả, hàng kém chất
lượng. Hơn thế nữa, truy xuất nguồn gốc giúp cho người tiêu dùng có đầy đủ
thông tin về sản phẩm. Quản lý truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng sẽ
giúp cho việc tối ưu hóa việc kinh doanh của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh
nghiệp nhanh chóng thu hồi những sản phẩm không đảm bảo chất lượng
trong dây chuyền sản xuất hay trên thị trường.
1.2.3.2. Quy trình truy xuất thông tin trong chuỗi đối với mặt hàng thủy sản

×