MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
DANH MỤC BẢNG - BIỂU 3
LỜI MỞ ĐẦU 4
I. Tổng quan về quá tải dân số 6
1. Dân số đô thị và tăng dân số đô thị 6
a) Khái niệm, đặc điểm dân số đô thị 6
b) Biến động quy mô dân số đô thị, xu thế và quan hệ với dân số nông thôn 7
2. Ảnh hưởng của quy mô dân số đến tăng trưởng đô thị. Dự tính dân số tương lai, quy mô
đô thị 11
a) Vấn đề quy mô và mật độ dân số đô thị 12
b) Ước tính dân số đô thị 13
3. Quá tải dân số đô thị và những nguyên tắc của chính sách dân số 13
a) Quy mô dân số đô thị hợp lý và phương pháp xác định quy mô dân số hợp lý 13
b) Quá tải dân số và những nguyên tắc của chính sách dân số 17
4. Quản lý dân số đô thị 17
a) Sự cần thiết của công tác quản lý dân số đô thị 17
b) Nội dung quản lý quy mô dân số đô thị 19
5. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình đô thị hoá: 19
II. Tác động của quá tải dân số đến các hoạt động kinh tế - xã hội 20
1. Tình hình quá tải dân số ở Hà Nội hiện nay 20
Thực trạng quá tải dân số ở Hà Nội từ năm 2000 đến 2006 20
2. Tác động của quá tải dân số đến các hoạt động kinh tế - xã hội: 23
III. Giải pháp hạn chế tăng dân số và khắc phục những ảnh hưởng của quá tải dân số 29
1. Nguyên nhân của quá tải dân số tại Hà Nội hiện nay 29
2. Giải pháp hạn chế quá tải dân số và khắc phục ảnh hưởng của quá tải dân số đến các hoạt
động kinh tế - xã hội 30
a) Phân tán dân số trên cơ sở quy hoạch khu ở, khu làm việc ở đô thị, tạo khoảng cách
hợp lý nơi ở, nơi làm việc, tạo ra sự dao động con lắc của dân số 30
b) Phát triển giao thông, đặc biệt là giao thông công cộng 31
c) Phát triển các đô thị vệ tinh, tạo việc làm ngay tại nông thôn (đô thị hoá nông thôn),
“ly nông bất ly hương”. 31
d) Áp dụng các sắc thuế đô thị: 32
e) Hạn chế tăng tự nhiên dân số, tạo hàng rào chống quá tải dân số 32
f) Khắc phục các vấn đề về y tế, giáo dục, môi trường 32
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
DANH MỤC BẢNG - BIỂU
1. Mật độ dân số trung bình qua các năm (H – 1) – tr. 21
2. Tỷ lệ mật độ dân số Hà Nội so với ĐB S. Hồng và cả nước 2000 – 2006
(H – 2) – tr. 22
3. Dân số trung bình nông thôn và thành thị ở Hà Nội 2000 – 2006 (H – 3) –
tr. 22
4. Cơ cấu dân số Hà Nội 2000 – 2006 (H – 4) – tr. 23
5. Tình hình lao động ở Hà Nội qua các năm 2000 – 2006 (H – 5) – tr. 29
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng quy mô dân số đô thị và đô thị hóa là xu thế tất yếu của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Để phát triển đô thị cần khuyến khích sự phát triển
dân số đô thị. Nhưng một quy mô dân số không hợp lý sẽ dẫn đến hàng loạt vấn
đề bất cập trong đời sống đô thị bởi con người vẫn luôn là yếu tố trung tâm, là
mục đích phục vụ, là động cơ làm việc và cũng chính là nguyên nhân của mọi
vấn đề trên địa bàn đô thị. Cùng với việc đô thị hóa diễn ra ngày càng rộng và
sâu hiện nay, sự tăng lên không ngừng của dân số đô thị nói chung và ở Hà Nội
nói riêng đã dẫn đến sự quá tải về dân số. Quá tải dân số đã và đang gây ra
những tác động không mong muốn đến tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống như: ô
nhiễm môi trường (ô nhiễm nước, không khí, tiếng ồn…), cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, vi phạm trật tự an toàn xã hội, thiếu nhà ở, nhà ở chất lượng kém,
tắc nghẽn giao thông, quá tải ở bệnh viện, trường học… Đó là biểu hiện khả
năng đáp ứng không đầy đủ của các ngành dịch vụ, thất nghiệp không ngừng
tăng, chất lượng sống của người dân ngày càng bị đe doạ. Quá tải dân số đô thị
là vấn đề bức xúc của hầu hết các nước trong quá trình đô thị hoá nói chung,
cũng như ở Việt Nam nói riêng, đặc biệt là ở Hà Nội. Việc kiểm soát dân số đô
thị sao cho có được một quy mô dân số đô thị hợp lý vẫn đang là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà quản lý đô thị.
Vậy giải pháp nào cho quá tải dân số ở Hà Nội hiện nay?
Đã có một số nghiên cứu liên quan đến đề tài này như nghiên cứu về đô
thị hoá, về quá tải giao thông đô thị, về bùng nổ dân số… Tuy nhiên, thời gian
luôn thay đổi, kèm theo nó là những diễn biến mới khó lường. Đứng trước đòi
hỏi tất yếu của thực tiễn, tôi đã tiến hành nghiên cứu về sự quá tải dân số và
ảnh hưởng của nó đến các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn Hà Nội trong
khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay, từ đó rút ra những giải pháp nhằm hạn
chế sự gia tăng dân số và khắc phục những ảnh hưởng của quá tải dân số đến
hoạt động kinh tế - xã hội ở Hà Nội trong thời gian tới, nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả công tác quản lý quy mô dân số đô thị nói riêng và công tác quản lý đô
thị ở Hà Nội nói chung.
Số liệu thống kê, bảng biểu trong bản nghiên cứu này chủ yếu được tổng
hợp từ Niên giám thống kê 2006 - Cục thống kê thành phố Hà Nội (4 – 2007) và
một số sách, bài báo khác.
Nội dung của bản báo cáo này gồm 3 phần (không kể phần mở đầu và kết
luận):
I. Tổng quan về dân số và quá tải dân số
II. Tác động của quá tải dân số đến các hoạt động kinh tế - xã hội
III. Giải pháp hạn chế tăng dân số và khắc phục những ảnh hưởng của
quá tải dân số
Tôi hy vọng rằng bản đề án này sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho UBND
Thành phố và các nhà quản lý đô thị. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của quý vị
để bản báo cáo được hoàn thiện hơn.
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về: Đặng Thu Trang (Lớp Kinh tế & quản lý
đô thị 46 - Trường ĐH Kinh tế quốc dân).
E-mail:
Tôi xin tiếp thu và cảm ơn!
Hà Nội, ngày… tháng12 năm 2007
I. Tổng quan về quá tải dân số
1. Dân số đô thị và tăng dân số đô thị
a) Khái niệm, đặc điểm dân số đô thị
Dân số đô thị là bộ phận dân số sống trên lãnh thổ đô thị vào một thời
điểm nhất định. Dân số của một đô thị luôn luôn biến động do các yếu tố sinh,
chết, đi, đến. Do đó, khi nói đến dân số đô thị cần phân biệt rõ dân số thường trú
và dân số hiện có vào những thời điểm nhất định của đô thị. Để xem xét quá tải
dân số và tác động của quá tải dân số đến các hoạt động kinh tế - xã hội đô thị,
ta cần dựa trên dân số đô thị hiện có.
Khi xác định dân số đô thị cần phân biệt với nhân khẩu phi nông nghiệp ở
nông thôn. Dân số thường trú là số dân đăng ký nhân khẩu thường trú trên địa
bàn đô thị. Dân số hiện có bao gồm dân số thường trú và dân số tạm trú quy về
dân số thường trú trên địa bàn đô thị.
N
o
=
Trong đó: N
o
: dân số tạm trú quy về dân số đô thị (người)
N
t
: tổng số lượt khách đến tạm trú (số lượt)
m : số ngày tạm trú trung bình (ngày)
Để phản ánh quy mô đô thị và trình độ đô thị hóa của một vùng hay một
quốc gia, các nhà kinh tế sử dụng tỷ trọng dân số đô thị trong tổng dân số.
Một trong những đặc điểm cơ bản của đô thị là dân số tập trung với mật
độ cao. Mật độ dân số là một trong các chỉ tiêu để phân biệt nông thôn và thành
thị. Mật độ dân số là số dân thường trú (hoặc hiện có) tính bình quân trên một
đơn vị diện tích. Mật độ dân số ở các đô thị cũng rất khác nhau. Có những thành
phố có mật độ dân số rất cao như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, nhưng cũng
có những thành phố có mật độ dân số tương đối thấp như thành phố Đà Lạt…
Để phản ánh những đặc điểm cơ bản của dân số đô thị, cần nghiên cứu cơ
cấu dân số đô thị. Cơ cấu tuổi - giới của dân số được coi là đặc điểm quan trọng
nhất vì nó có liên quan đến rất nhiều vấn đề của dân số. Tiếp theo đó là cơ cấu
lao động, ngành nghề của dân số.
b) Biến động quy mô dân số đô thị, xu thế và quan hệ với dân số nông thôn
Sự biến động quy mô dân số đô thị
Quy mô đô thị ngày càng mở rộng và biểu hiện trước hết của nó là tăng
quy mô dân số. Dân số đô thị tăng nhanh do nhiều nguyên nhân. Trước hết phải
kể đến tốc độ đô thị hóa. Đô thị hóa có thể xem như là quá trình biến đổi các
vùng chưa phải đô thị thành đô thị. Biểu hiện cụ thể của đô thị hóa là sự mở
rộng các thành phố về mặt quy mô diện tích. Số lượng các đường phố, các quận,
các phường, các khu đô thị mới được công bố hàng năm cũng đủ cho ta cảm
nhận được tốc độ đô thị hóa. Tốc độ đô thị hóa ở các nước đang phát triển được
đánh giá là cao nhất trong giai đoạn hiện nay và đó chính là nguyên nhân cơ bản
làm tăng dân số đô thị. Những nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó
là sự biến động tự nhiên và biến động cơ học của dân số. Sự biến động tự nhiên
của dân số như sinh, chết chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế, xã hội, phong
tục tập quán, tâm lý.
Sự biến động cơ học của dân số đô thị là hiện tượng phổ biến, vì đô thị là
nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho cuộc sống, sinh hoạt: Thu nhập ở đô thị
thường cao hơn ở nông thôn, địa bàn đô thị có nhiều khả năng kiếm việc làm
hơn, chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội tốt hơn. Dân cư tìm mọi cách để được
nhập cư vào đô thị, từ đó hình thành dòng chuyển dịch vào đô thị. Chính dòng
này đã gây ra những quá tải dân số ở các đô thị ở các nước đang phát triển như
Việt Nam và nhiều nước khác.
Biến động cơ học của dân số đô thị: Phản ánh mối quan hệ giữa đô thị và
nông thôn (ngoại thành) trên giác độ dân số.
Dòng người đi vào thành phố nhằm hưởng thụ các dịch vụ
Các dịch vụ ở thành phố như: Cửa hàng, nhà băng, rạp chiếu phim, phòng
hòa nhạc v.v… đều có đặc tính là các dịch vụ này không thể vận chuyển được,
nên mọi người phải tới những nơi có dịch vụ đó và phần lớn các dịch vụ được
cung cấp có hiệu quả trên quy mô đủ lớn. Vì vậy, các cửa hàng này chỉ hình
thành ở một số trung tâm có số dân đủ đông và kinh tế phát triển… Với lý do đó,
những cư dân sống ở nông thôn muốn mua sắm một hàng hóa như một bộ com-
lê hoặc một tivi sẽ phải tới thị trấn, thị xã hoặc thành phố gần nhất. Hơn nữa, khi
người dân nông thôn phá bỏ quan hệ tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa phát
triển thì những chuyến đi ra thành phố tìm kiếm dịch vụ là tất yếu.
Dòng người đi vào thành phố để tìm kiếm việc làm
Dòng người ở nông thôn ngày càng tiến đến vào các thành phố để tìm
kiếm việc làm. Các trung tâm việc làm cũng phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào
những nhân công sống ở các nơi khác, bởi vì: 1) Việc làm ở đô thị tăng nhanh
hơn so với ở nông thôn, trong khi đó dân số đô thị tăng chậm hơn ở nông thôn.
Điều này gây nên sự mất cân bằng địa lý về cung và cầu lao động, dẫn tới hiện
tượng dòng người đi tìm việc làm ở các thành phố và thị trấn. 2) Do sự phát
triển mạnh mẽ các phương tiện giao thông, những chuyến đi cá nhân ngày càng
được thực hiện dễ dàng hơn, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Vấn đề được đặt ra là
liệu sự gia tăng các phương tiện đi lại cá nhân ở nông thôn là nguyên nhân hay
chỉ là tác động làm cho những chuyến đi tìm việc ngày càng dài hơn.
Một cách nhìn khác về dòng người từ nông thôn ra thành thị: Các hộ gia
đình tới các “trung tâm vùng”, tới “thị trấn lớn”, tới “thành phố lớn” để buôn
bán. Thực tế cho thấy có rất nhiều hộ đã thành công trong buôn bán, họ đã góp
phần tích cực vào việc phát triển kinh tế đô thị.
Dòng người ra khỏi thành phố để thư giãn
Nông thôn đang được coi như sự mở rộng cuộc sống ở thành phố. Đó là
nơi để một người có thể thư giãn sau những ngày làm việc. Nhờ các phương tiện
giao thông, nông thôn đã và đang trở thành một phần không thể thiếu của môi
trường – nó gắn liền với đời sống thành phố - hay nói cách khác là, người thành
thị có thể rời thành phố và về nghỉ với miền quê bất cứ khi nào họ muốn. Thực
tế, vành đai nông thôn quanh thành phố đã và đang trở thành “không gian sống”
và gắn liền với thành phố.
Trên giác độ tài chính, một số vốn lớn mà dân đô thị tích lũy để mua đất
đai vùng nông thôn mà phần lớn diện tích đất đó nông dân sử dụng không hiệu
quả lắm. Những người dân thành thị sẽ đầu tư xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ tầng
là tăng giá trị và tăng hiệu quả đất đai. Thông qua đó người dân nông thôn quen
dần với cách quản lý và nếp sống đô thị, đồng thời bảo đảm an ninh tốt hơn cho
vùng nông thôn.
Tác động tài chính về dòng người thành phố - nông thôn
Khi cư dân ngoại ô tìm kiếm dịch vụ ở thành phố, họ sẽ tạo ra một số khu
vực trung chuyển; khi họ tìm kiếm việc làm thì họ sẽ tạo ra khu vực nông thôn
mà ở đó có các chuyến xe thường xuyên đi làm vào thành phố; và khi cư dân đô
thị muốn thư giãn thì tạo ra một vùng nông thôn giải trí. Vì vậy, một đô thị với
chất lượng cuộc sống cao sẽ có một số vùng nông thôn xung quanh là điều tất
yếu. Và cũng vì vậy mà chúng ta sẽ không thể chỉ nói đến thành thị mà không
nói đến nông thôn.
Về khía cạnh tài chính, khi dòng người vào thành phố để tìm kiếm dịch vụ
thì họ phải mang theo tiền để chi tiêu tại thành phố. Điều đó làm cho thu nhập
của nhân viên trong các ngành dịch vụ ở thành phố tăng, đồng thời làm tăng cầu
để tu bổ và xây dựng các khu nhà ở thành phố và cuối cùng nó làm tăng thuế ở
thành phố. Một phần nguồn tài chính mà thành phố có được, lại có nguồn gốc từ
các khu vực nông thôn. Đồng thời, dòng người tới thành phố đã tạo ra lượng cầu
về dịch vụ. Những dịch vụ này do chính đô thị cung cấp với kinh phí có từ
những nguồn nộp thuế, lệ phí (ví dụ các phương tiện giao thông công cộng, vệ
sinh đường phố, bãi đỗ xe, ăn uống). Dòng người nông thôn ra thành phố rất đa
dạng, trong đó có những người sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có thu nhập và
một phần thu nhập được sử dụng ngay tại thành phố.
Biến động tự nhiên của dân số đô thị
Mức sinh, mức chết của dân số ở đô thị là những chỉ tiêu phản ánh đặc
điểm biến động tự nhiên của dân số đô thị về mặt quy mô. Để có thể so sánh với
các vùng nông thôn hoặc giữa các đô thị ta cần sử dụng các tỷ suất sinh, các tỷ
suất chết được xác định bằng cách so sánh các mức sinh, mức chết với dân số
bình quân của đô thị trong một thời kỳ nhất định. Các tỷ suất sinh, chết ở đô thị
thường thấp hơn và tuổi thọ cao hơn do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là
điều kiện sống ở đô thị cao hơn.
Xu thế biến động của dân số đô thị
Trong tương lai, dân số đô thị sẽ tăng với tốc độ ngày càng cao và dân số
nông thôn sẽ giảm tương ứng. Sự biến động dân số do các nguyên nhân đã nêu
trên có ảnh hưởng rất lớn đến các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia nói chung và đối với các thành phố nói riêng. Lối sống đô thị sẽ ngày càng
phổ biến hơn. Mức sống người dân thành thị cũng như nông thôn ngày được
nâng cao. Tỷ lệ dân số nông thôn ngày càng giảm, nhưng cũng không thể tiến
đến sự tuyệt đối bằng không.
2. Ảnh hưởng của quy mô dân số đến tăng trưởng đô thị. Dự tính dân số
tương lai, quy mô đô thị.
Quy mô và mật độ dân số đô thị có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh
tế và các vấn đề văn hóa xã hội đô thị. Quy mô dân số quá lớn, mật độ cao, trình
độ dân trí thấp sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc tổ chức đời sống của dân cư,
giao thông, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường cảnh quan và các vấn đề xã hội,
việc làm.
Ba vấn đề lớn đặt ra trước sự quá tải dân số của các nước:
Dân số đô thị và việc làm, thu nhập.
Dân số đô thị và vấn đề nhà ở.
Dân số đô thị và vấn đề cung cấp lương thực, thực phẩm.
Vấn đề thứ nhất sẽ và chỉ có thể giải quyết bằng con đường tăng trưởng
kinh tế; hai vấn đề còn lại được giải quyết thông qua sự phát triển kinh tế và các
chính sách định cư, nhà ở (như tạo ra sự dao động con lắc của lao động).
Tuy nhiên, quy mô dân số quá nhỏ thì tổ chức sản xuất cũng khó khăn và
hoạt động đô thị kém hiệu quả.
a) Vấn đề quy mô và mật độ dân số đô thị
Quy mô dân số đô thị có liên quan đến những chi phí xã hội, chi phí bảo
vệ và tái tạo môi trường ở đô thị, tổ chức xã hội, khả năng cung cấp các dịch vụ
ở đô thị.
Quy mô dân số đô thị có liên quan đến thị trường lao động ở đô thị: Quy
mô dân số đô thị lớn sẽ có khả năng cung cấp cho các ngành ở đô thị một lực
lượng lao động dồi dào và ngược lại.
Mật độ dân số ở đô thị là số người dân sống trên một đơn vị diện tích.
Dân số đô thị phân bố không đồng đều, thường tập trung đông đúc ở trung tâm
và thưa dần ra vùng ngoại vi. Mối quan hệ giữa mật độ dân số và khoảng cách
so với trung tâm là quan hệ hàm số. Qua số liệu thực tế người ta đã xây dựng
hàm số phản ánh quan hệ giữa mật độ dân số và khoảng cách so với trung tâm.
Hàm mật độ dân số có dạng:
D(x) = a x e
–x
Trong đó: - D(x) là mật độ dân số tại điểm có khoảng cách x so với trung tâm
- a là tham số được xác định bằng phương pháp hồi quy
- e là cơ số logarit tự nhiên
Ở các nước phát triển, những người nghèo thường sống tập trung ở gần
các trung tâm đô thị để tiết kiệm chi phí đi lại. Tuy nhiên, họ phải chịu giá thuê
nhà và các chi phí dịch vụ đắt đỏ. Để khắc phục khó khăn đó, họ chỉ có cách duy
nhất là tiêu dùng ít đi và ở chật chội hơn. Những người giàu sống xa trung tâm,
song tiện nghi đầy đủ, diện tích lớn hơn, cơ sở hạ tầng không thua kém trung
tâm và môi trường tốt hơn.
Ở các nước đang phát triển thì tình hình ngược lại, người giàu mới có khả
năng mua nhà ở trung tâm để được hưởng các dịch vụ đô thị và vấn đề thuê nhà
chưa phổ biến. Hơn nữa, người ta thường ở kết hợp với kinh doanh buôn bán để
kiếm sống. Người nghèo thường sống ở các vùng gần ngoại vi thành phố, ở đó
cơ sở hạ tầng thường thua kém nhiều so với trung tâm.
b) Ước tính dân số đô thị
Để ước tính dân số đô thị trong tương lai, có thể sử dụng các phương
pháp:
Ước tính mức tăng dân số tự nhiên, mức tăng cơ học trên cơ sở quy hoạch
đô thị (nếu quy hoạch đô thị được tôn trọng)…
Ước tính bằng các phương pháp thống kê: Sử dụng số liệu thống kê trong
quá khứ để ước tính dân số đô thị trong tương lai thường được các nhà quy
hoạch, kế hoạch sử dụng. Cơ sở của phương pháp này là coi biến động dân số là
một hàm phụ thuộc thời gian. Công thức thường được dùng là:
S
n
= S
o
(1+k
n
)
Trong đó: - S
n
là dân số vào năm thứ n mà ta cần ước tính
- S
o
là dân số năm hiện tại
- K là hệ số tăng tự nhiên hoặc hệ số tăng chung.
Phương pháp này thường sử dụng trong ngắn hạn vì K sẽ biến đổi theo thời
gian.
Ước tính bằng phương pháp kinh tế cơ sở (dựa vào số nhân lao động, việc
làm). Phương pháp kinh tế cơ sở được sử dụng phổ biến ở đô thị vì lao động
luôn là một bộ phận của dân số.
Giả sử: Số nhân = = 2,5 ; khi tăng 1 lao động sẽ tăng thêm 2,5 nhân
khẩu. Khi đó ta có = x Số nhân LĐ. Dân số năm sau bằng dân số năm
hiện tại cộng thêm mức tăng dân số.
3. Quá tải dân số đô thị và những nguyên tắc của chính sách dân số
a) Quy mô dân số đô thị hợp lý và phương pháp xác định quy mô dân số hợp lý
Quy mô dân số đô thị hợp lý là quy mô cho phép đảm bảo điều kiện tốt
nhất để tổ chức sản xuất, đời sống, bảo vệ môi trường cảnh quan và với kinh phí
xây dựng và quản lý đô thị thấp nhất. Nội dung của việc tổ chức sản xuất đời
sống bao gồm các vấn đề: Tổ chức sản xuất, tổ chức đời sống dân cư, tổ chức
giao thông đi lại, tổ chức mạng lưới các công trình kỹ thuật, tổ chức bảo vệ môi
trường cảnh quan, sử dụng đất đai xây dựng, quản lý kinh tế đô thị.
Tính hợp lý của quy mô dân số đô thị được thể hiện:
• Các ngành dịch vụ có khả năng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của dân số,
sự phát triển các ngành xây dựng, thương mại, y tế, giáo dục, môi trường tương
ứng với tăng dân số đô thị.
• Các ngành sản xuất cung cấp đủ chỗ làm cho lao động đô thị.
• Dân số có khả năng cung cấp đủ lao động cho các ngành kinh tế của đô
thị.
• Chất lượng sống của người dân đô thị ngày càng được cải thiện.
Xác định quy mô dân số hợp lý cho một đô thị trong từng giai đoạn là cần
thiết nhằm tạo nên sự hoạt động có hiệu quả của đô thị, tránh những lãng phí về
nguồn lực và đảm bảo vấn đề về môi trường và an ninh xã hội. Tuy nhiên việc
xác định quy mô dân số hợp lý là vấn đề không đơn giản. Để xác định quy mô
dân số đô thị hợp lý, người ta dùng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp
phân tích chi phí - lợi ích của việc tăng dân số đô thị và phương pháp phân tích
nhu cầu lao động đô thị:
• Phương pháp phân tích chi phí và lợi ích của việc tăng dân số đô thị:
Vấn đề xác định chi phí và lợi ích của việc tăng (giảm) quy mô dân số đô
thị là khá phức tạp. Mọi chi phí bằng tiền có thể xác định được, nhưng thực tế
còn rất nhiều nguồn lực không phải bằng tiền không xác định được. Tương tự
với chi phí thì lợi ích cũng vậy, ta không thể tính hết, tính đầy đủ những lợi ích
do quy mô dân số mang lại. Hướng tiếp cận ở đây là xác định những chi phí và
lợi ích cơ bản để thấy được khả năng tăng quy mô dân số có nên tiếp tục hay
không, chính quyền đô thị có đủ sức quản lý nữa hay không. Trong thực tế xảy
ra hiện tượng quá tải về dân số ở các đô thị là sự so sánh với năng lực quản lý và
công suất cơ sở hạ tầng. Trên thế giới có những đô thị 10 – 20 triệu dân nhưng
không quá tải về dân số nhưng có những đô thị 2 – 3 triệu dân đã có nhiều vấn
đề tưởng chừng như không khắc phục nổi…
Vấn đề đặt ra ở đây là để xác định những lợi ích do quy mô dân số mang
lại và những chi phí xã hội cho vấn đề dân số thì cần có những phương pháp
thống kê, lượng hóa một cách khoa học.
Những chi phí có liên quan đến quy mô đô thị xét trên góc độ xã hội bao
gồm:
Chi phí cho việc cung cấp các dịch vụ đô thị: Chi phí về nhà ở, chi phí về
cung cấp nước sạch, chi phí về y tế, giáo dục, chi phí về dịch vụ cung cấp lương
thực, thực phẩm, về giao thông đô thị, về môi trường, về đảm bảo an ninh trật
tự…
Những lợi ích do quy mô dân số mang lại là:
- Tăng dân số làm tăng cung lao động, tăng cầu hàng tiêu dùng, kích thích
các ngành sản xuất phát triển.
- Sự phát triển các ngành sản xuất làm tăng cầu lao động, kích thích nhập cư
lao động đặc biệt là sinh viên các trường đại học.
- Kết quả là tăng GDP trên địa bàn, tăng năng suất lao động xã hội, tăng hiệu
quả sử dụng cơ sở hạ tầng…
Quy mô dân số đô thị hợp lý được xác định tại điểm mà ở đó hiệu quả của
nó là lớn nhất:
Hiệu quả = (Lợi ích – Chi phí) Max
• Phương pháp phân tích nhu cầu lao động đô thị:
Một trong những yêu cầu cơ bản của phát triển sản xuất ở đô thị là lực
lượng lao động dồi dào đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất. Lao động là một bộ
phận của dân số. Người lao động luôn cần có một gia đình ổn định gần nơi làm
việc. Để xác định quy mô dân số hợp lý trong tương lai cần căn cứ vào việc xác
định quy mô lao động, sản xuất của các ngành trên địa bàn đô thị trong tương
lai.
Giả sử tỷ trọng lao động đô thị trong dân số đô thị là tương đối ổn định và
được xác định bằng phương pháp thống kê, nhu cầu lao động ở đô thị được xác
định bằng cách lấy số lao động cần thiết chia cho tỷ trọng lao động.
Một số phương pháp dự đoán dân số đô thị trong tương lai:
- Dự đoán tổng dân số theo phương pháp ngoại suy hàm xu thế:
Sn = So (1+k)
Trong đó: Sn - Dân số năm thứ n cần dự đóan;
So - Dân số năm hiện tại;
k - Hệ số tăng chung của dân số.
- Dự đoán dân số theo từng độ tuổi:
Sx(t+1) = Sx(t) Px
So = ∑0,5[Sg(x) + Sg(x)Px] F(x)
Trong đó: Sx(t) - Số người ở độ tuổi x có ở thời điểm t;
Sx(t+1) - Số người ở độ tuổi x có ở thời điểm t+1;
Px - Hệ số sống được khi chuyển từ tuổi x sang tuổi x+1;
So - Số trẻ em sinh ra ở năm sau;
Sg(x) - Số phụ nữ ở tuổi x;
F(x) - Hệ số sinh của phụ nữ ở tuổi x.
Dự đoán dân số là vấn đề phức tạp nhưng có ý nghĩa lớn trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội nói chung và với đô thị nói riêng. Các phương pháp dự
đoán đều có những ưu nhược điểm riêng của nó.
b) Quá tải dân số và những nguyên tắc của chính sách dân số
Quá tải dân số xảy ra khi quy mô dân số hay nhu cầu của dân số vượt quá
khả năng đáp ứng của các ngành dịch vụ; các ngành sản xuất không cung cấp đủ
chỗ làm cho lao động đô thị; sự phát triển các ngành xây dựng, thương mại, y tế,
giáo dục, môi trường không tương xứng với tăng dân số đô thị; chất lượng cuộc
sống người dân không được đảm bảo.
Những nguyên tắc của chính sách dân số:
• Phân tán dân số trên cơ sở quy hoạch khu ở, khu làm việc ở đô thị,
khoảng cách hợp lý nơi ở, nơi làm việc, tạo ra sự dao động con lắc của dân số.
• Bổ sung, điều hòa dân cư đô thị nhằm tạo ra thị trường lao động phù hợp
với mức tăng trưởng đô thị.
• Thay đổi cơ cấu ngành nghề của dân cư theo hướng tích cực: Nền kinh tế
quốc dân được chia làm 3 khu vực: Khu vực 1 sẽ giảm dần, khu vực 2 tăng dần,
khu vực 3 tăng nhanh hơn.
• Tạo việc làm ngay tại nông thôn (đô thị hóa nông thôn).
• Hạn chế tăng tự nhiên dân số, tạo hành rào chống quá tải dân số.
• Hạn chế dân số đô thị bằng cách hạn chế nhập cư vào đô thị. Tuy nhiên,
phương pháp này có thể tạo ra sự tách biệt giữa thành thị và nông thôn một cách
sâu sắc hơn.
• Áp dụng các sắc thuế đô thị: Thuế nhà ở, thuế tiêu thụ hàng hóa khác, lệ
phí… là những công cụ kinh tế để điều hòa dân cư đô thị.
4. Quản lý dân số đô thị
a) Sự cần thiết của công tác quản lý dân số đô thị
• Con người là nhân tố trung tâm, là đối tượng phục vụ của mọi hoạt động
kinh tế - xã hội đồng thời là điểm xuất phát của mọi vấn đề trên địa bàn đô thị.
• Để phản ánh quy mô đô thị của một quốc gia, trình độ đô thị hóa của một
vùng hay một quốc gia, các nhà kinh tế sử dụng tỷ trọng dân số đô thị trong tổng
dân số.
• Một trong những đặc điểm cơ bản của đô thị là dân số tập trung với mật
độ cao. Quy mô và mật độ dân số là một trong những chỉ tiêu để phân biệt nông
thôn và thành thị. Mật độ dân số là số dân thường trú (hoặc hiện có) tính bình
quân trên một đơn vị diện tích.
• Để phản ánh những đặc điểm cơ bản của dân số đô thị, cần nghiên cứu cơ
cấu dân số đô thị. Cơ cấu tuổi - giới của dân số được coi là đặc điểm quan trọng
nhất vì nó có liên quan đến rất nhiều vấn đề của dân số. Tiếp theo đó là cơ cấu
lao động, ngành nghề của dân số.
• Đô thị hóa và phát triển dân số đô thị:
Trên phạm vi toàn bộ xã hội, tăng trưởng đô thị là tăng tỷ lệ dân số đô thị
trong tổng dân. Có 3 yếu tố làm tăng dân số đô thị:
- Tăng dân số tự nhiên ở các đô thị.
- Tăng cơ học.
- Mở rộng diện tích và xây dựng đô thị mới.
Tăng dân số và tăng trưởng kinh tế là hai yếu tố tạo nên tăng trưởng đô thị. Tăng
trưởng dân số là sự khởi đầu vì nó làm tăng cầu tiêu dùng và tăng cung lao động
- yếu tố đầu vào của sản xuất.
Tăng trưởng quy mô dân số đô thị và đô thị hóa là xu thế tất yếu của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Để phát triển đô thị cần khuyến khích sự phát triển
dân số đô thị. Tất cả các biện pháp di dân đô thị đi vùng kinh tế mới, hàng rào
ngăn cản di dân vào đô thị… là những biện pháp không tích cực cho phát triển
đô thị. Tuy nhiên trong từng đô thị cụ thể thì tăng quy mô dân số hay ổn định là
vấn đề cần nghiên cứu.
Tăng trưởng dân số đô thị và tăng trưởng kinh tế đô thị luôn có liên quan
đến nhau nhưng không phải luôn luôn cùng chiều hướng và tốc độ.
Xã hội luôn luôn trong trạng thái vận động, các ngành sản xuất phát triển
nhưng trong mỗi thời kỳ tốc độ phát triển không giống nhau, có thể có những
thời kỳ suy thoái. Dân số đô thị ở những nước đang phát triển luôn có xu hướng
tăng.
• Quản lý quy mô dân số đô thị là điều kiện bước đầu để ổn định phát triển
kinh tế - xã hội.
b) Nội dung quản lý quy mô dân số đô thị
Quản lý quy mô dân số đô thị là xây dựng hệ thống chính sách, biện pháp
nhằm định hướng phát triển dân số đô thị. Các giải pháp, biện pháp bao gồm:
kinh tế, hành chính, pháp luật, giáo dục để đô thị có quy mô dân số hợp lý.
5. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình đô thị hoá:
Có thể tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc, một trong những quốc gia
được đánh giá có tốc độ đô thị hoá cao nhất ở Châu Á. Hàn Quốc đã gặt hái
được nhiều thành tựu cũng như nhìn ra được những mặt trái của quá trình đô thị
hóa. Đây là những bài học kinh nghiệm đối với các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
Ngay từ những năm 70, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra chính sách điều
chỉnh nhanh chóng chiến lược phát triển đô thị bằng cách mở rộng vùng đô thị,
nâng cấp mở rộng các đô thị đã có. Một loạt các thành phố vệ tinh mới có quy
mô vừa và nhỏ lần lượt được xây dựng. Các thành phố mới đều là các trung tâm
công nghiệp lớn, tạo thành hành lang đô thị nối từ thành phố trung tâm thông ra
các cảng biển nằm ở miền Nam của Hàn Quốc.
Những thành phố này có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Chẳng hạn như
thành phố Un-xan vào năm 1960 còn là một làng chài nhỏ bé với vài ngàn dân,
nhưng sau 20 năm (đến năm 1980) đã trở thành thành phố lớn thứ 7 của Hàn
Quốc, nơi có công ty Hun-đai và tổ lọc dầu lớn nhất Hàn Quốc. Việc xây dựng
các đô thị vừa và nhỏ một cách kịp thời đã khiến Hàn Quốc tránh khỏi những đổ
vỡ lớn mà các quốc gia khác gặp phải trong tiến trình đô thị hoá nhanh như ở
châu Á và châu Phi.
Các thành phố vệ tinh của Xơ-un nằm cách trung tâm 40km, được nối
bằng hệ thống tàu điện ngầm và đường cao tốc. Cho đến năm 1990, 45% dân số
của Hàn Quốc tập trung sống ở vùng đô thị Xơ-un. Những khu định cư mới
dành cho tầng lớp trung lưu được hình thành xung quanh Xơ-un từ sau năm
1980 như vùng Bun-dang, I-li-xan, Py-ung-chon, hình thành nên một khuynh
hướng mới trong việc sử dụng các chung cư cao tầng.
Đô thị hóa bền vững góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, gia
tăng xã hội hóa giáo dục, dịch vụ y tế và văn hoá xã hội, mở rộng quy mô và
chất lượng của hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Hàn Quốc đạt được những
thành công nhất định như vậy, trước hết phải kể đến vai trò chỉ đạo của chính
phủ trong việc tập hợp mọi nguồn lực trong nước cho công cuộc đô thị hóa đất
nước. Thứ hai là những chiến lược phát triển cụ thể được vạch định phù hợp với
khả năng của từng địa phương, tận dụng mọi cơ hội để tăng trưởng kinh tế, lấy
mục tiêu tăng trưởng và xuất khẩu làm nhiệm vụ trọng tâm của mọi kế hoạch
kinh tế. Thứ ba là vai trò quan trọng của văn hóa truyền thống đã tạo nên một
đội ngũ lao động giỏi, tính kỷ luật cao, một nền công nghiệp đồ sộ có cơ cấu
quản lý chuyên biệt.
II. Tác động của quá tải dân số đến các hoạt động kinh tế - xã hội
1. Tình hình quá tải dân số ở Hà Nội hiện nay
Thực trạng quá tải dân số ở Hà Nội từ năm 2000 đến 2006
• Quy mô dân số Việt Nam hiện nay khoảng trên 84 triệu người, đứng thứ
13 trên thế giới, mật độ dân số vẫn cao và đang tăng mạnh (mỗi năm dân số tăng
thêm một tỉnh loại trung bình, 1 triệu dân). (Theo Niên giám thống kê 2006 -
Tổng Cục thống kê, dân số Việt Nam năm 2006 là 84155,8 triệu người, với mật
độ dân số là 254 người/km
2
)
• Mật độ dân số của Việt Nam hiện nay cao gấp 6 – 7 lần mật độ chuẩn.
Các nhà khoa học của Liên Hợp Quốc đã tính toán rằng, để cuộc sống thuận lợi,
bình quân trên 1 km
2
chỉ nên có từ 35 – 40 người. Trong khi đó mật độ dân số
nước ta, năm 2006, lên tới 254 người/km
2
. So với mật độ dân số Trung Quốc
(136 người/km
2
) thì Việt Nam cũng gần gấp đôi, còn so với các nước đã phát
triển thì gấp trên 10 lần. Vùng đồng bằng Sông Hồng khoảng 1225 người/km
2
,
trong đó, mật độ dân số Hà Nội năm 2006 khoảng 3490 người/km
2
, cao gấp 13,7
lần mật độ dân số cả nước và gấp 87 – 99 lần mật độ chuẩn.
(H – 1) - Mật độ dân số trung bình qua các năm 2000 - 2006
Tỷ lệ
mật
độ
dân số
(lần)
1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
HN/Cả
nước 12,07343 12,61581 12,91318 13,14676 13,28995 13,43782 13,53033 13,74016
HN/ĐB
S.Hồng 2,422919 2,585492 2,650492 2,700872 2,740245 2,779847 2,804183 2,84898
(H – 2) - Tỷ lệ mật độ dân số Hà Nội so với ĐB S. Hồng và cả nước
2000 – 2006
(Theo Niên giám thống kê 2006 – Nxb Thống kê Hà Nội 2006)
• Dân số Hà Nội tăng lên không ngừng, đặc biệt là dân số đô thị ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn. Trong toàn thành phố Hà Nội, tỷ trọng dân số thành thị năm
2000 là 57.9 %, con số này năm 2006 đã tăng lên đến 65,3 %.
(H – 3) – Dân số trung bình nông thôn và thành thị ở Hà Nội 2000 – 2006
Cơ cấu (%) 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Toàn thành
phố HN 100 100 100 100 100 100 100 100
Thành thị 52,4 57,9 57,8 58,7 61,0 64,9 65,3 65,3
Nông thôn 47,6 42,1 42,2 41,3 39,0 35,1 34,7 34,7
(H – 4) – Cơ cấu dân số Hà Nội 2000 - 2006
• Theo thống kê của Ủy ban Dân số gia đình và trẻ em Hà Nội, trong gần 6
tháng đầu năm 2005, tổng số trẻ được sinh ra trong toàn thành phố là 21.340 trẻ,
tăng gần 90 trẻ so với cùng kỳ năm 2004. Đáng chú ý, hơn 1.220 trẻ là con thứ
ba trở lên.
Dự báo, con số này sẽ tiếp tục tăng gấp đôi hoặc hơn gấp đôi. Mặc dù chiến
dịch truyền thông, cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được thành phố triển
khai từ cuối năm 2004 tại 30 xã ngoại thành đông dân, có mức sinh và tỷ lệ sinh
con thứ ba trở lên cao đã phát huy tác dụng nhưng các biện pháp triệt sản và đặt
vòng không được người dân hưởng ứng nhiều.
Năm 2004, Hà Nội đã không hoàn thành cả hai chỉ tiêu về giảm sinh và giảm
sinh con thứ ba trở lên. Toàn thành phố có hơn 50.430 trẻ được sinh ra, trong đó
có tới 2.815 trẻ là con thứ ba trở lên (năm 2002 tổng số trẻ mới sinh chỉ là
41.750 trẻ, năm 2003 là gần 49.370 trẻ).
• Quá tải dân số tạo nên một áp lực lớn đối với tất cả các hoạt động kinh tế
- xã hội hiện nay. Quá tải dân số là nguyên nhân của hầu hết các vấn đề ở Hà
Nội như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,
lụt lội đô thị, xung đột xã hội, nhà ổ chuột, các vấn đề đáp ứng điện nước, y tế,
giáo dục… Điều này sẽ được làm rõ hơn ở mục 2 – Tác động của quá tải dân số
đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
2. Tác động của quá tải dân số đến các hoạt động kinh tế - xã hội:
Quá tải dân số đã dẫn đến việc các ngành dịch vụ không có khả năng đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu của dân số, sự phát triển của các ngành xây dựng,
thương mại, y tế giáo dục môi trường không tương ứng với tăng dân số đô thị.
Trước hết, đó là sự quá tải về đất đai, nhà ở, cơ sở hạ tầng giao thông đô
thị.
Người dân sinh sống và làm việc cần có nhà để ở. Tuy nhiên theo số liệu
của Bộ Xây dựng thì hiện nay ở Hà Nội có khoảng 30% số dân có mức bình
quân diện tích nhà ở dưới 3m
2
/người, trong đó có tới 300 nghìn người có mức
bình quân diện tích nhà ở dưới 2m
2
/người. (với 3m
2
/người là diện tích bình quân
người lao động cần có để đảm bảo các điều kiện tối thiểu về sinh hoạt và môi
trường). Cùng với đó là tình trạng nhà ở xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là tại
các khu chung cư cũ, khu phố cổ. Hà Nội có khoảng 23 khu chung cư cũ từ 4
đến 5 tầng, có tổng diện tích sàn khoảng 1 triệu m2 với trên 30 nghìn hộ và 10
khu nhà ở tập thể thấp tầng. Ngoài ra với diện tích 100ha, 76 phố chính và hơn
1.000 nhà cổ, nhà cũ, khu phố cổ Hà Nội có đặc trưng là nơi tập trung dân cư,
với trên 10 vạn người đang sinh sống: diện tích phụ bình quân 1m
2
/người, trên
50% số nhà không có nhà vệ sinh riêng, 20% số nhà không có bếp, trên 50% số
hộ có 6 người ở trong một buồng, mật độ vi khuẩn trong một mét khối môi
trường nhiều gấp 5 lần tiêu chuẩn môi trường sạch, trung bình có 4 đến 5 hộ ở
trong một "ống nhà" mà trước kia là của một gia đình ở Cùng với mật độ dân
số tăng nhanh là sự xuống cấp của nhà ở đã được xây dựng hơn 100 năm. Hiện
nay, số nhà cần phải sửa chữa là 80%, 20% trong số đó bị hư hỏng nặng. Nhưng
do nguồn vốn đầu tư của quỹ nhà ở hạn hẹp nên người dân vẫn phải sống chật
vật trong các căn nhà xuống cấp này.
Quá tải về giao thông đô thị.
Lưu lượng người tham gia giao thông ngày càng lớn, hiện tượng ùn tắc
gần như thường xuyên diễn ra trong ngày; ví dụ mỗi ngày có tới 1,3 - 1,4 triệu
lượt xe máy tham gia giao thông trên các con đường trong nội thành Hà nội.
Theo con số thống kê mới nhất của cơ quan chức năng, 6 tháng qua Hà Nội đã
đăng ký thêm 233.000 xe mô tô, 21.399 ô tô, nâng tổng số phương tiện quản lý
là 1.901.481 mô tô, 193.932 ô tô (chưa kể xe các cơ quan trung ương, xe quân
đội và khoảng 30% xe 2 bánh các tỉnh thường xuyên hoạt động ở Hà Nội). Hiện
nay, sự quá tải về mật độ giao thông đang là nguyên nhân chính gây ra sự ùn tắc
tại 71 tuyến, điểm nội đô. Bình quân hiện nay 1 km đường Hà Nội chịu tải 5.900
xe 2 bánh và 5.400 ô tô, như vậy mỗi xe chỉ có 2m
2
đường để lưu thông (tối
thiểu mỗi xe cần có 3m
2
để lưu thông bình thường).
Về mặt kỹ thuật, nhiều con đường đã được làm từ lâu, do sử dụng quá tải
gây ra những hiện tượng nứt gãy mặt đường, lại không được sửa chữa ngay nên
trở thành những điểm dễ gây tai nạn giao thông. Thực tế mạng lưới đường phố
trong các đô thị Việt Nam hiện nay, đang có nhiều vấn đề bất cập. Về mặt số
lượng không đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như mật độ mạng lưới đường
phố km/km
2
thấp; Tỷ lệ đất giao thông chỉ đạt 6 - 8%, so với tiêu chuẩn 20 -
25%, chỉ tiêu chiều dài đường cho 1 người chỉ đạt 0,1 - 0,2m/người trong khi đó
chỉ tiêu trung bình của các nước từ 0,4 - 0,8m/người đối với thành phố lớn và từ
0,9 - 1,5m/người đối với các đô thị nhỏ.
Thực tế tốc độ tăng dân số nhanh (mật độ dân số Hà Nội cao gấp gần 100
lần mức chuẩn của UN) cộng với tốc độ tăng trưởng kinh tế vào hàng nhanh
nhất thế giới đang tạo sức ép cho hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của nước ta,
đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội. Hệ thống đường xá, cầu cống của Hà
Nội cần phải cải tạo để theo kịp tốc độ phát triển, nâng cao tính cạnh tranh của
nền kinh tế vì giao thông là mạch máu, là một trong những bộ phận quan trọng
của cơ sở hạ tầng sản xuất.
Theo dự báo của HAIDEP (Chương trình phát triển đô thị tổng thể Hà
Nội do Nhật Bản tài trợ), đến năm 2020 dân số nội thành Hà Nội khoảng 5,1
triệu người; diện tích thủ đô cũng tăng thêm 1,5 lần. Theo đó, nhu cầu đi lại của
người dân là 13,4 triệu lượt người/ngày và sẽ bị quá tải. Quy hoạch phát triển
giao thông Hà Nội đến năm 2020 đặt mục tiêu tăng tỷ lệ sử dụng phương tiện
GTCC lên 55 - 60% (xe máy giảm còn 15 - 20%).
Quá tải dân số dẫn đến qúa tải về giáo dục và y tế.
Hàng năm, số trẻ em đến độ tuổi đi học tăng lên không ngừng, cộng thêm
đó là học sinh, sinh viên từ các tỉnh ngoài về Hà Nội học. Hầu hết các trường
học đều phải tăng sĩ số mỗi lớp dù biết rằng lớp quá đông thì không đảm bảo
chất lượng giáo dục. Quá tải dân số dẫn đến thiếu trường học, thiếu giáo viên…
Một số trường Đại học phải thuê địa điểm ngoài để dạy và học, nhưng vẫn
không đảm bảo về thiết bị, môi trường dạy và học…
Theo điều tra mới nhất của Sở Y tế Hà Nội, các bệnh viện trong thành phố
đang quá tải 25 – 30%. Mỗi ngày, Bệnh viện Việt Ðức có khoảng hơn 300 người
bệnh đến khám, trong đó có tới 70% thuộc diện cấp cứu, số người nhập viện
năm sau cao hơn năm trước. Năm 2004 bệnh viện đã mổ hơn 30 nghìn ca, năm
2005 mổ 25 nghìn ca đến nay mới qua bảy tháng đầu năm bệnh viện đã phải mổ
hơn 14 nghìn ca. Thực trạng này không riêng Việt Ðức mà phổ biến ở nhiều
bệnh viện tại Hà Nội. Tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, số giường theo quy
định chỉ có 450, nhưng do quá đông nên phải nâng lên gần 500 giường. Tuy vậy
vẫn không thể đáp ứng so với lượng các bà mẹ đến sinh đẻ và người bệnh nhập
viện. Ðến khoa Sản 1 của Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, người nhà và "bà
bầu" tràn cả ra hành lang nằm. Ở Bệnh viện K, tỷ lệ quá tải có lúc vượt 200%.
Các bệnh viện nhi, sản đều phải ghép giường từ 2 - 3 bệnh nhân/giường. Còn ở
phòng khám thì bình quân mỗi buổi có hàng trăm người bệnh được khám - con
số gấp đôi tỷ lệ thông thường.
Kèm theo đó là quá tải về rác thải bệnh viện: hầu hết các bệnh viện đều
chưa có hệ thống chất thải đạt tiêu chuẩn, nước thải y tế gần như vẫn giữ nguyên
mức độ độc hại khi thải thẳng ra môi trường cùng với nước thải sinh hoạt; các
loại rác thải là mô, bộ phận cơ thể thì chủ yếu được chôn lấp… Gần đây, một số
loại rác thải y tế (nhựa) lại được tái chế (mà không hề qua quá trình xử lý đảm
bảo tiêu chuẩn) để sản xuất vật dụng hàng ngày (như ghế nhựa, xô, chậu…)
Điều này thực sự đang là mối nguy hại lớn đối với con người.
Quá tải dân số tác động đến môi trường tự nhiên và xã hội.
Cùng với quá tải về đất đai, nhà ở, giao thông đô thị, giáo dục, y tế, quá
tải dân số còn dẫn đến suy thoái môi trường nghiêm trọng. Đô thị hoá, tăng
trưởng kinh tế, tăng dân số đô thị là nguyên nhân khiến tài nguyên thiên nhiên bị
khai thác quá mức, không có quy hoạch, đa dạng sinh học bị đe doạ nghiêm
trọng. Lưu lượng giao thong tăng cùng với sự gia tăng của các phương tiện giao
thông cá nhân (xe máy, ô tô…) gây ra ô nhiễm bụi, ô nhiễm không khí, ô nhiễm
tiếng ồn… đang ngày càng làm suy giảm chất lượng cuộc sống và sức khoẻ
người dân.
Sự quá tải về dân số làm nảy sinh các vấn đề xã hội. Mật độ dân số khu
vực nội thành hiện đã vượt gấp 3 lần con số cho phép, chỉ tiêu sử dụng đất đô thị
bình quân trên đầu người quá thấp. Ðịa bàn 4 quận nội thành như Hoàn Kiếm,
Ðống Ða, Ba Ðình, Hai Bà Trưng đang là nơi tập trung dân cư đông nhất, trong
đó, dẫn đầu là quận Hoàn Kiếm với khoảng 34.051 người/km
2
, tiếp đó là các
quận Ðống Ða, Ba Ðình với trên 32.400 người/km
2
. Hà Nội đang có hơn hàng
chục vạn người ngoại tỉnh về làm ăn, học tập và cư trú dài hạn, thuộc diện KT3,
KT4, học sinh, sinh viên các tỉnh về tạm trú học tập, người nước ngoài, Việt
kiều Dân số tăng quá nhanh như vậy đã tạo nên những áp lực về nhiều mặt đời
sống, xã hội. Ðặc biệt là chuyện “nơi ăn, chốn ở” của những người “làm công ăn
lương” tại Hà Nội bức xúc từ nhiều năm nay, chi phí thuê nhà tăng, hầu hết
người lao động thu nhập thấp khó trả đủ tiền thuê nhà. Nếu trung bình mỗi năm
dân số Hà Nội tăng thêm khoảng 50.000 đến 100.000 người (tăng tự nhiên và cơ
học), thì tình trạng thiếu nhà ở còn kéo dài, phải mất nhiều năm nữa, nhu cầu
nhà ở tại Hà Nội mới bớt “nóng”.
Tình hình trật tự an toàn xã hội trong 8 tháng đầu năm 2007, trên địa bàn
Thành phố Hà Nội đã phát hiện và xảy ra 3612 vụ phạm pháp hình sự với 2993
đối tượng bị bắt giữ theo luật. Tổng số vụ buôn bán tàng trữ vận chuyển ma tuý
trong 8 tháng đầu năm 2007 là 1269 vụ, bắt giữ 1515 đối tượng.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực kiềm chế, song số liệu tổng điều tra mới nhất
cho thấy Hà Nội có gần 18.600 người nghiện ma túy, con số này có xu hướng
gia tăng mạnh trong những năm gần đây. Cùng với đó, đối tượng hoạt động tội
phạm ma túy cũng gia tăng. Số lũy tích người nhiễm HIV/AIDS của Hà Nội
hiện trên 9.000 người, 60% – 70% số này là người nghiện chích ma túy. Tội
phạm cướp giật tài sản diễn biến phức tạp, hoạt động của các đối tượng cướp
giật tài sản đang ở mức cao, với thủ đoạn gây án ngày càng manh động, trắng
trợn. Riêng tháng 7 - 2007, trên các tuyến đường thủ đô xảy ra 43 vụ cướp giật