Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư
tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng
nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là
khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật.(Theo Nguyễn Khải,
Các nhà văn nói về văn, tập 1NXB Tác phẩm mới, HN, 1985,trang 61) Anh, chị hiểu như
thế nào về ý kiến nêu trên? Hãy liên hệ với sáng tác của Xuân Diệu hoặc T
Yêu Cầu
1. Giải thích đúng nội dung cốt lõi trong ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải. Vấn đề này khá phong
phú, nhưng ở đây chỉ yêu cầu học sinh hiểu được: Tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật là tư tưởng
- cảm xúc, “tư tưởng nhiệt hứng” (Biêlinxki), không thể chỉ là tư tưởng trừu tượng.
- Sáng lác văn học là một hoạt động sáng tạo tinh thần, nhà văn không thể không có tư tưởng,
nhà văn lớn trước hết phải có tư tưởng lớn.
- Khi sáng tác, nhà văn huy động toàn bộ năng lực tinh thần mà trước hết là tấm lòng của
mình. Do đó, tình cảm là gốc, vừa khơi nguồn sáng tạo vừa tạo nên sức mạnh của tác phẩm. Chỉ
khi nào người viết có tình cảm chân thành, sâu sắc thì tác phẩm mới có sức hấp dẫn. Có tài mà
không có tình, có tâm thì không thể tạo nên những tác phẩm có giá trị.
- Tác phẩm nghệ thuật tác động đến người đọc trước hết cũng ở phương diện tư tưởng, tình
cảm.
2. Liên hệ với sáng tác của Xuân Diệu hoặc Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề vừa nêu.
Học sinh cần nắm chắc một số sáng tác tiêu biểu và hiểu được tương đối chắc chắn phong cách
nghệ thuật của Xuân Diệu hoặc Tố Hữu; chọn lựa được những ý thơ, câu thơ, bài thơ, thích hợp
của một trong hai nhà thơ đó để làm sáng tỏ vấn đề.
- Đối với Xuân Diệu: cần nắm tư tưởng nghệ thuật bao trùm trong sáng tác của ông: khát
khao sự sống, sống mạnh mẽ, sôi nổi, ghê sợ lối sống vô vị, tẻ nhạt trong “nỗi đìu hiu của cái Ao
Đời bằng phăng" và bằng mọi cách tìm sự giao cảm với đời.
- Đối với Tố Hữu: Ông là nhà thơ trữ tình - chính trị, thường nói đến những vấn đề lớn lao của
dân tộc, của thời đại, bằng những tình cảm, xúc cảm tha thiết đắm say. Chính nguồn tình cảm
đắm say ấy đã góp phần quan trọng tạo nên giọng điệu tâm tình, chan chứa mến thương rất Tố
Hữu.
Ở đề tài này, ngoài việc hiểu đúng ý kiến của Nguyễn Khải, năng lực cảm thụ tác phẩm là điều hết
sức quan trọng.
BÀI LÀM
Điều gì lạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tư tưởng của nhà văn hay tình cảm của
người nghệ sĩ? Câu hỏi đã làm băn khoăn hết thấy mọi người, không chỉ có chúng ta mà còn cả
giới nghệ sĩ. Đã có nhiều cách bàn bạc, lí giải xung quanh vấn đề này, ý kiến của nhà văn Nguyễn
Khải dưới đây, theo tôi cũng là một ý kiến đánh giá đầy đủ, chính xác và đáng ghi nhận: “Giá trị
của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được
rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang
giấy. Có thể nói, tình cảm của người việt là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây
dựng một tác phẩm nghệ thuật”.
Là một nhà văn đã lăn lộn nhiều với nghề viết, đã từng nếm trải và chịu đựng những quy luật
nghiệt ngã của văn chương, hơn ai hết Nguyễn Khải ý thức sâu sắc những yêu cầu khê khắt của
nghệ thuật. Ôns hiểu giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưỏng của nó.
Nhà văn phải là người có tư tưởng. Nhưng bằng những sự trải nghiệm của một đời cầm bút, ông
cũng thấm thía nghe thuật không phải chỉ là tư tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung
lên ở các cung bậc của tình cảm, nghĩa là tư tưởng ấy phải được tắm đảm trong tình cảm của
người viết, tư tưởng ấy phải được chuyển tải bằng tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Nói cách
khác, ý kiến của Nguyễn Khải đã khẳng định mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa tư
tưởng và tình cảm của nhà văn.
“Giá trị cùa một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó". Câu nói hiển nhiên
như một chân lí không thể phủ nhận. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất
được một tư tưởng mới mẻ. Một nhà văn có tầm cỡ hay không, tôi nghĩ điều yêu cầu đầu tiên là
nhà văn ấy phải là một nhà tư tưởng. Nghĩa là ông ta phải có những phát hiện riêng của mình về
chân lí đời sống, có những triết lí riêng của mình về nhân sinh. Bởi xét đến cùng, thiên chức cao
cả của văn chương nghệ thuật là phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống con người.
Văn học là một hình thái ý thức tinh thần; hỏi thế, nhà văn khi viết lác phẩm không thể không bộ lộ
tư tưởng của riêng mình, chủ kiến của riêng mình trước những vấn đề của đời sống. Làm sao văn
học có thể thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng của mình là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần
của con người, nếu như người viết không gửi được vào trong tác phẩm của mình tư tưởng nào đó
về cuộc sống?
Mặt khác, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, nghề văn phải là nghề sáng tạo. Mà tôi
cho rằng sáng tạo khó khăn nhất, nhưng cũng vinh quang nhất của người nghệ sĩ là khám phá,
phát minh ra một hệ thống tư tường của riêng mình. Văn chương đâu chấp nhận những sản phẩm
nghệ thuật chung chung quen nhàm, viết ra dưới ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng nào đấy.
Nếu thế thì văn chương sẽ trở nên tẻ nhạt biết bao. Không, “văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa
có” (Nam Cao). Mội khi anh đề xuất được những tư tưởng mang tính khám phá về đời sống, tư
tưởng ấy sẽ quyết định đến sự sáng tạo hình thức của tác phẩm. Chưa nói rằng, ở những nhà văn
lớn, tư tưởng là yếu tố cốt lõi hình thành nên phong cách nghệ thuật, gương mặt riêng, dấu ấn
riêng của nhà văn trong dời sống văn học vốn mênh mông phức tạp, vàng thau lẫn lộn này, có thể
khẳng định rằng, tư tưởng ấy là tố chất của một nhà nghệ sĩ lớn.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Khải, tư tưởng của một nhà văn không phải là thứ tư tưởng “nằm thẳng
đơ trên trang giấy", mà là tư tưởng “đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm”.
Vấn đề đặt ra là tại sao tư tưởng lại phải chuyển tải bằng tình cảm của người viết và tình cảm của
nhà văn sao lại là “khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ
thuật”?
Có lẽ, xin được bắt đầu từ quy luật lớn của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung. C.Mác có lần
nhấn mạnh: Nói quy luật của văn học là nói quy luật của cái đẹp. Người khác thì cụ thể hơn,
khẳng định quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm. Vậy, tình cảm chứ không phải bất kì yếu
tố nào khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải
hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của nhà văn. Tác phẩm của anh phải là sự lên tiếng,
sự thăng hoa cảm xúc của chính anh. Không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về thơ, nhiều nhà văn,
nhiều học giả đều khẳng định vai trò của tình cảm đối với thơ. Ngô Thì Nhậm thì kêu gọi các thi
nhân: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”, còn Muytxê cũng nhắn nhủ các nhà thơ: Hãy
đập vào tim anh, Thiên tài là ở đó. Tư tưởng cùa một nhà văn dẩu có giá trị đến đâu, độc đáo, mới
mẻ đến nhường nào thì nó cũng vẫn chỉ là một xác bướm ép khô trên trang giấy, nếu không được
tình cảm của họ thổi hồn đánh thức dậy. Nếu anh chỉ có tư tưởng không thôi, thì chưa đủ làm cho
một tác phẩm nghệ thuật có giá trị đích thực. Tư tưởng của anh phải được “rung lên ở các cung
bậc của tình cảm". Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua hời hợi, rốt cuộc những tư
tưởng đó dù hay đến mấy cũng chỉ “nằm thẳng đơ”, vô hồn, vô cảm trên trang giây mà thôi.
Những sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh hoạ giản đơn cho tư
tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay (ý của Khrapchencô). Tư tưởng của
nhà văn không khô khan và cứng nhắc, tư tưởng của nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là “tình
cảm”, là “nhiệt hứng”, là “say mê”, là tất cả nhiệt tình kết tinh lại (Biêlinxki).
Có thể nói tình cảm của người viết chính là khâu đầu tiên của quá trình xây dựng tác phẩm nghệ
thuật. Điều này có căn nguyên sâu xa từ đặc trưng của văn học. Văn học là tiếng nói tâm hồn, tình
cảm của cá nhân người nghệ sĩ trước cuộc đời. Làm sao nhà văn có thể viết nên tác phẩm - sản
phẩm của thế giới tinh thần của mình - nếu như tâm hồn trơ như đá trước cuộc đời? Nhà văn chỉ
có thể sáng tạo nên lác phẩm khi cảm thấy bức xúc trước cuộc sống con người, cảm thấy tiếng
nói thôi thúc mãnh liệt con tim. Nhiều nghệ sĩ đã gọi đó là giây phút “bùng nổ cảm hứng” hay “cú
hích của sáng tạo” là vì vậy. Không phải vô cớ mà Lê Quý Đôn cho rằng: “Thơ khởi phát tự trong
lòng người ta”. Tố Hữu cũng tâm sự về quá trình thai nghén, sáng tạo của thơ mình. Mỗi khi thấy
trong lòng có điều gì băn khoăn, không viết ra không chịu nổi, ông lại làm thơ. Còn Nêkraxôp thì
tâm tình với bạn văn rằng, tất cả những gì khiến cho ông đau khổ, rạo rực, say mê, ông đều gửi
vào thơ. Tôi chợt hiểu, vì sao trong thư gửi một nhà thơ trẻ để trả lời cho câu hỏi có nên làm thơ
hay không, Rinkle đã có một lời khuyên chân tình rằng, anh hãy đối diện với lòng mình vào đêm
khuya thanh vắng, để tự trả lời câu hỏi: Ta có thể không viết được không? Chỉ khi nào trả lời được
câu hỏi ấy, anh hãy viết. Điều đó nói lên rằng, lình cảm mãnh liệt - ấy chính là tố chất đặc thù của
người nghệ sĩ, là khâu đầu liên của quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Không chỉ có vậy, tình cảm còn là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm nghệ thuật
của nhà văn, người đọc đến với tác phẩm trước hết đâu phải bằng con đường của lí trí. Họ đến
với tác phẩm bằng chiếc cầu nối từ trái tim đến với trái tim. Những tư tưởng tâm đắc nhất, tha
thiết nhất nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài của
cảm xúc. Mỗi khi đọc một bài văn, bài thơ, lí trí ta chưa kịp hiểu câu chữ, hình ảnh, thì tình cảm
đã xâm chiếm hồn ta tự khi nào, lòng ta chợt rung lên theo những rung cảm của tâm hồn người
nghệ sĩ, cũng chợt thấy yêu ghét theo những yêu ghét của người viết. Phải chăng, bởi thế Bạch
Cư Dị đã khẳng định: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm” và tình cảm là gốc
của văn chương. Một tác phẩm có giá trị hay không xét cho cùng là do tình cảm của người viết có
chân thực hay không, có khả năng đánh động tới tình cảm của người đọc hay không. Tư tưởng
nghệ thuật nào phải một hình thái chết, nó là những phát hiện, những triết lí riêng của nhà văn,
một thứ triết lí nhân sinh đầy tình cảm, cảm xúc, thấm đẫm bầu tâm huyết của người nghệ sĩ.
Soi vào thực tế văn học, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà văn suốt đời không tạo nên một tác
phẩm có giá trị đích thực để rốt cuộc phải ngậm đắng, nuốt cay than thở cho sự bạc bẽo của nghề
văn. Và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như Xuân Diệu sống mãi với thời gian.
Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỉ thăng trầm, âm thầm
cái công việc của nó là phủ bụi, xoá bỏ tất cả những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống
mãi, trong đó có những vần thơ của Xuân Diệu.
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Và điều lạo nên tầm vóc của nhà thơ lớn ấy là bởi đâu, nếu không
phải bởi tư tưởng của thi sĩ? Tôi không bao giờ tín rằng mọi nhà văn có thể chỉ bằng kĩ thuật làm
thơ khéo léo của mình mà có thể làm nên tên tuổi. Không, một nhà văn lớn trước hết phải có tư
tưởng lớn, có những phát hiện riêng của mình về cuộc sống. Xuân Diệu đã đi đúng con đường mà
những người nghệ sĩ lớn vẫn thường đi bởi ông đã đề xuất với cuộc đời này một tư tưởng, một
quan niệm của riêng ông. Nếu có thể tóm gọn toàn bộ tư tưởng ấy thì ta chỉ có thể đặt cho nó một
cái tên là “niềm khát khao giao cảm với đời”. Tư tưởng ấy đã góp phần làm cho sự nghiệp thơ văn
của Xuân Diệu trụ vững với thời gian. Giữa bao nhà thơ khác đang chán chường tuyệt vọng, trốn
chạy vào quá khứ vàng son hay ẩn lánh trên một vì tinh tú đơn côi, thì chàng thi sĩ ấy, con người
có đôi mắt biếc luôn mở to nhìn cuộc đời với xiết bao say mê, quyến luyến, lại khát khao được
hoá thân thành cây xanh mãi mãi ở vườn trần, chân hoá rễ để hút mùa dưới đất, được mãi mãi ấp
ôm cõi đời này trong vòng tay say đắm. Đôi mắt “xanh non”, đôi mắt “biếc rờn” đã phát hiện ra cả
một thiên đường nơi mặt đất này, nơi mà bao thi sĩ khác như Thế Lữ, Chế Lan Viên, dường như
có lúc chỉ muốn lẩn tránh thật xa. Sáng tác thơ, Xuân Diệu muốn thả những mảnh hồn thơ sôi nổi,
tinh tế của mình tới mọi tâm hồn bè bạn, ở moi phương trời, của hôm nay và vĩnh viễn mai sau với
một tấm lòng “khát khao giao cảm với đời”. Tư tưởng nhân văn độc đáo và khoẻ khoắn ấy chăng
phải là cái gốc sáng của chùm cầu vồng nghệ thuật lung linh những vần thơ Xuân Diệu, chẳng
phải là cái ánh sáng của những viên ngọc trai tròn trặn đấy sao? Lòng “khát khao giao cảm với
đời” đã giúp Xuân Diệu viết lên những vần thơ tình yêu mới lạ, lành mạnh và cường tráng, những
vần thơ tình yêu đích thực, vừa trần thế vừa rất đỗi cao đẹp để Xuân Diệu lưu lại dấu ấn với thời
gian như một “ông hoàng của thơ tình” - danh hiệu mà biết bao người mơ ước.
Nhưng Xuân Diệu có thể nào sống trong lòng mỗi chúng ta với những vần thơ ấy, nếu tư tưởng
của ông không chỉ là một hình thái chết “nằm thẳng đơ trên trang giấy”? Không, tư tưởng ấy còn
lại mãi mãi với cõi đời này bởi nó đã được “rung lên ở những cung bậc của tình cảm”, là thứ ngọc
kết tinh từ toàn bộ con người và tâm hồn, thế giới tình cảm của thi sĩ Xuân Diệu. Ngay cái tên gọi
của tư tưởng nghệ thuật ấy đã hàm chứa biết bao tình cảm. Nó bắt nguồn từ nhịp rung lên mãnh
liệt của con tim Xuân Diệu - trái tim muốn đập mãi với cõi đời, cõi người này. Đó là khát khao cháy
bỏng, là say đắm khôn cùng hay là toàn bộ con người tinh thần của người nghệ sĩ. Chỉ biết rằng,
mỗi vần thơ Xuân Diệu như được chắt ra từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống nồng nhiệt. Tư tưởng
nhân văn độc đáo ấy nào phải do Xuân Diệu phát minh ra, rồi dùng tài năng của mình, phủ đắp
xương thịt lên hồn cốt ấy. Không, ngọn nguồn sâu xa của tư tưởng cao đẹp ấy chính là tình cảm,
là nỗi sợ cô đơn. Nỗi sợ hãi đã ám ảnh, đã bám riết tâm hồn cậu bé Xuân Diệu - con người từ
thuở nhỏ đã phải sống trong sự ghẻ lạnh thờ ơ của gia đình. Tâm hồn non tơ thiếu vắng tình yêu
thương của mẹ, bởi thế luôn khao khát đồng cảm, khao khát được mọi người tri âm. Xuân Diệu
tìm đến thơ như một lẽ tự nhiên không thể nào khác được bởi với ông, nhà thơ là chiếc cầu linh
diệu nhất nối trái tim đến với những trái tim. Nhà thơ lúc nào cũng ước mơ cháy bỏng được làm
phấn thông vàng bay khắp cõi đất này, tràn ngập cả không gian. Nỗi sợ cô độc vây phủ lên mọi bài
thơ, trong hạnh phúc tột cùng đã thấp thoáng những dự cảm âu lo:
Làng ta trống lắm, lòng ta lạnh,
Như túp nhà không bốn vách xiêu.
Tôi luôn tự hỏi, nếu những vần thơ Xuân Diệu không thấm đẫm một bầu cảm xúc, một niềm yêu
đời mãnh liệt thì liệu những vần thơ của ông có thể rung động lòng người đến thế? Mỗi vần thơ
như kết tinh từ xúc cảm đắm say đến cuồng nhiệt ngây ngất của người nghệ sĩ đối với cuộc sống
này. Nó giúp ông khám phá những hương mật ngọt ngào của thiên đường trần thế:
Của ong bướm này đây tuần trăng một,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Mỗi điệp ngữ này đây như một đợt sóng trào dâng của niềm yêu đời. Nhà thơ như muốn chỉ cho
mỗi người thấy cuộc sống này đáng yêu như vậy đấy. Vậy bạn ơi, hãy sống hết mình với đời, với
người, bằng tất cả tâm hồn mình và hưởng thụ cuộc sống đẹp đẽ này, cần gì phải đi đâu, phải toát
lên tiên hay mơ màng tới phương xa xứ lạ. Thiên đường là đây, là cõi đất mến yêu, gần gũi này.
Xúc cảm đâu chịu nguôi yên, lúc nào nó cũng muốn cựa quậy trên trang giây để bứt phá, đạp tung
những khuôn khổ bó buộc của câu chữ, khiến thành trì chữ nghĩa phải lung lay:
Ta muốn ôm,
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mảy đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cúi hổn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Các động từ mạnh riết, ôm, say, thâu như muốn xô lệch cả con chữ. Cái áo xưa giờ đã quá chật
hẹp không đựng nổi bầu cảm xúc tươi rói, luôn phập phồng sự sống. Cảm xúc tràn ra ngoài câu
chữ, thấm vào lòng người đọc, thổi bừng lên ngọn lửa của lòng yêu sống. Nó khiến ta không thể
yên. Thơ hay tiếng lòng của người nghệ sĩ đã thốt thành thơ? Bao xúc cảm, men say ngất ngây
tột đỉnh đã dồn tụ lại để bật lên một câu thơ độc đáo vào bậc nhất trên thi đàn Việt Nam: Hỡi xuân
hồng, ta muốn cắn vào ngươi! Có lẽ nhiều người cồn nhắc đến tính hiện đại của câu thơ ấy. Còn
tôi, tôi chỉ muốn nói rằng, câu thơ ấy là tiếng vang thốt ra từ bầu tâm huyết của Xuân Diệu đối với
cõi đời này. Tư tưởng lạo nên tầm vóc của nhà văn. Tình cảm thổi hồn cho tư tưởng ấy sống dậy
thành sinh thể. Có ihể nào phủ nhận mối quan hệ gắn bó máu thịt không thể tách rời ấy. Tư tưởng
của Xuân Diệu cũng vậy, nó đã sống trong tình cảm, trong tâm huyết của nhà thơ. Mỗi câu thơ
thâm nhập hồn ta đầu phải là con chữ vô hồn, nó là tất cả cảm xúc của thi nhân khuấy động mãi
trong ta, thắp lên trong ta ngọn lửa của niềm ham sống. Mỗi câu, mỗi chữ viết ra là máu thịt của
nhà văn. Không có bầu cảm xúc ấy, liệu người đọc có thể nhớ mãi câu thơ: Tháng giêng ngon như
một cặp môi gần - câu thơ được viết ra bởi một cảm quan nhân sinh yêu đời, khoẻ khoắn, nồng
nhiệt? Không có “lòng khát khao giao cảm với đời” ấy liệu có thể tạo nên một Nguyệt cầm tuyệt
tác, liệu Xuân Diệu có thể lắng nghe được những rung động tinh tế, mơ hồ, như thoảng trong lòng
người và vạn vậi để truyền vào những vần thơ ít lời, nhiều ý súc tích như đọng lại bao tinh hoa?
Tình cảm mãi là ngọn nguồn sâu xa của mọi sáng tạo nghệ thuật chân chính ưên cõi đời này.
Xuân Diệu đã ví minh như một con chim họa mi “đến từ núi lạ”, “ngứa cổ hót chơi” khi gió sớm, lúc
trăng khuya. Con chim hoạ mi ấy không mong vì tiếng hót của mình mà hoa nở, nhưng nguyện thề
rằng, đó phải là tiếng hót thiết tha, nồng nàn đến vỡ cổ, đến độ trào máu. Có lẽ vì tiếng hót đắm
say đến nhường ấy nên đã đọng lại trong bầu trời thi ca Việt Nam một cung bậc riêng, càng nghe
càng lảnh lót, vang ngân. Vâng, toàng bộ sức sống của hồn thơ Xuân Diệu là ở đấy chăng? Là
con người đã biết hát lên bằng tất cả những rung cảm sâu lắng mãnh liệt của mình niềm “khát
khao giao cảm với đời”, trái tim ấy cao hơn nhà thơ, cao hơn nhà nghệ sĩ.
Đã có một thời người ta quá đề cao vai trò tư tưởng của nhà văn. Điều đó dẫn đến một thực trạng
đáng buồn là văn chương cơ hồ trở thành triết học, luận thuyết giáo điều, rơi vào nguy cơ mất dần
vẻ đẹp đích thực của nó. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của tư tưởng nghệ thuật. Tuy
nhiên cũng không thể vì thế mà lãng quên đặc trưng của văn chương nghệ thuật, khiến văn
chương đúng là văn chương, là tình cảm: Văn học phải là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm. Tư
tưởng của nhà văn phải được gửi vào xúc cảm, sống trong tình cảm. Đó là bài học đối với mọi
nghệ sĩ chân chính trong sáng tạo nghệ thuật.
Đã có không ít người than thở về sự bạc bẽo của nghề văn. Theo tôi, sự bạc bẽo của văn chương
nêu có là ở đây chăng? Nghệ thuật không dung nạp những tác phẩm chỉ là cái loa phát ngôn cho
tư tưởng của nhà văn.
Và vì thế, ý kiên của Nguyễn Khải là lời tâm niệm của những ai quyết thuỷ chung với văn chương
nghệ thuật.
Bùi Việt Lâm
Trường THPT chuyên Hùng Vương , Phú Thọ - Bài đoạt giải nhất
Xem thêm tại: />c30a19526.html#ixzz3jnpdlygX