Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Các lý thuyết kinh tế của adam smith

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.82 KB, 40 trang )

DANH SÁCH NHểM 1:
1. Trương Thúy Diệu
2. Nguyễn Chí Công
3. Nguyễn Thị Thanh Mai
4. Nguyễn Trí Minh
5. Nguyễn Thị Hồng Nhung
6. Nguyễn Thị Phương
7. Trần Thị Mỹ Tiên
8. Lê Thị Hải Yến
NHẬN XẫT
MỤC LỤC:
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
A. Adam Smith 2
I. Khỏt quát chung về các học thuyết Tư sản cổ điển 2
1. Hoàn cảnh xuất hiện các học thuyết Tư sản cổ điển 2
2. Đặc điểm cơ bản 2
II. Giới thiệu về tác giả Adam Smith và tác phẩm 3
1. Cuộc đời của Adam Smith 3
2. Thời kỳ Khai Sáng và tác phẩm "Tài Sản" 5
B. Các lý thuyết kinh tế của Adam Smith 9
1. Lý thuyết về phân công lao động và lợi thế tuyệt đối 9
2. Lý luận về giá trị của Adam Smith 14
3. Lý luận về ba giai cấp và ba loại thu nhập 17
4. Lý luận tiền tệ 20
5. Lý luận về phân phối 22
6. Lý luận về tư bản của Adam Smith 25
7. Lý luận về tái sản xuất 27
8. Lý thuyết bàn tay vô hình 28
Kết luận 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Adam Smith, Của cải của cỏc dõn tộc, NXB Giáo Dục, 1997.
2. TS Hoàng Anh Quốc, Lịch sử các học thuyết kinh tế NXB ĐHKTTPHCM,
2003.
3. PTS Nguyễn Văn Trình (CB), Hướng dẫn nghiên cứu và ôn tập lịch sử các
học thuyết kinh tế, NXB Thống Kê, 1999.
4. GS A. Gộlộdan (CB), Lịch sử tư tưởng kinh tế (tập 1: Các nhà sáng lập),
NXB Khoa Học Xã Hội, 2000.
5. GSTS Mai Ngọc Cường, Lịch sử các học thuyết kinh tế (cấu trúc, bổ sung,
phân tích và nhận định mới), NXB Lý Luận Chính Trị, 2005.
6. Hoàng Anh Quốc, Lịch sử các học thuyết kinh tế (đề cương bài giảng dành
cho sinh viên), NXB ĐHKTTPHCM, 1994.
7. Các học thuyết kinh tế: lịch sử phát triển, tác giả và tác phẩm, NXB Thống
Kê, 1995.
8. Một số trang web…
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ Hễ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI:
“PHÂN TÍCH NỘI DUNG HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA
ADAM SMITH. TẠI SAO ADAM SMITH ĐƯỢC COI
LÀ CHA ĐẺ CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ?”
GV HƯỚNG DẪN: T.S NGUYỄN MINH TUẤN
NHểM THỰC HIỆN: NHểM 1
LỚP: KẾ TOÁN 4
Tháng 05/2009
LỜI MỞ ĐẦU:
Để tồn tại,chỳng ta cần có nhu cầu về ăn , mặc , ở… Để trở thành một nhà
kinh tế giỏi, chúng ta phải am hiểu các lý thuyết kinh tế không những về mặt lý
thuyết mà còn phải biết vận dụng chúng một cách hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế – xã hội của đất nước .

Vì lẽ đó, bên cạnh việc học những môn chuyên ngành, chúng tôi được học
thêm môn Lịch sử các học thuyết kinh tế. Đây là môn học cũng không kém phần
quan trọng, là cơ sở lý luận, tạo nền tảng cho việc nghiên cứu các môn học khác
tốt hơn.
Và sau đây là phần trình bày của chúng tôi về những lý luận của một nhà
kinh tế tư sản cổ điển – Adam Smith. Ông được coi là cha đẻ của lý luận kinh tế
thị trường.Tại sao như vậy? Câu trả lời được chúng tôi tập hợp, bàn bạc, thống
nhất và trình bày ở bài tiểu luận này.
Trong quá trình làm việc, do năng lực còn hạn chế nờn cũn nhiều thiếu sót,
mong sự thông cảm của quý thầy cô. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG:
A. ADAM SMITH:
I. Khỏt quát chung về các học thuyết Tư sản cổ điển:
1. Hoàn cảnh xuất hiện các học thuyết Tư sản cổ điển:
Thế kỷ XVIII, châu Âu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp, báo hiệu thời
kỳ tích lũy nguyên thuỷ tư bản của tư bản chấm dứt thay vào đó là tích lũy tư bản.
Chính cơ sở quan trọng đú đó tạo điều kiện cho sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển mạnh mẽ, nhiều thành tựu mới của khoa học xuất hiện. Sự phát triển của nền
sản xuất xã hội đã làm thay đổi mổt cách nhanh chóng nền kinh tế và chủ nghĩa tư
bản từng bước được khẳng định. Sự biến đổi về kinh tế còn là nền tảng, động lực
thúc đẩy sự phát triển và thay đổi trong lý luận của Triết học và Kinh tế chính trị
học.
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Trọng thương đã tỏ ra không còn thích hợp
với điều kiện kinh tế xã hội mới, một trào lưu mới trong kinh tế học xuất hiện:
Kinh tế học chính trị Tư sản cổ điển ra đời.
Kinh tế học chính trị Tư sản cổ điển ra đời và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII đến
nửa đầu thế kỷ XIX ở các nước Tây Âu. Nó là hệ tư tưởng kinh tế tư sản thời kỳ
đầu của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
2. Đặc điểm cơ bản:
Khi nhận xét về các học thuyết kinh tế Tư sản cổ điển, Karl Marx viết: “Danh

từ Kinh tế chính trị cổ điển theo tôi hiểu là, toàn bộ khoa kinh tế chính trị, kể từ
Wiliam Petty trở đi đã nghiên cứu những mối liện hệ nội tại của các quan hệ nội
tại của các quan hệ sản xuất trong xã hội tư sản”. Với quan điểm đó, đặc trưng của
kinh tế chính trị Tư sản cổ điển thể hiện trên những điểm sau đây:
- Là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản trong giai đoạn chống chế độ phong
kiên và thiết lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Là trường phái kinh tế
khoa học đầu tiên trong lịch sử học thuyết kinh tế.
- Chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp và đi sâu nghiên cứu những mối liên hệ nội tại, những
vấn đề kinh tế do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt ra.
- Lần đầu tiên sử dụng phương pháp nghiên cứu: trừu tượng hóa khoa học và
một số các phương pháp cụ thể để phân tích kinh tế như: diễn dịch, qui nạp, phõn
tớch, tổng hợp, mô tả các sự kiện, sử dụng phương pháp thống kê, mô hình húa…
để minh họa.
- Xây dựng được một hệ thống các phạm trù, quy luật kinh tế, phản ánh bản
chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa như: giá trị, giá cả, tiền tệ, quy luật lưu
thông tiền tệ, tiền lương, lợi nhuận, địa tô, tái sản xuất…
- Quan điểm của họ cho rằng các qui luật kinh tế là tự nhiên và vĩnh cửu, quy
định một trật tự xã hội lý tưởng. Họ ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, tự do sản xuất,
tự do kinh doanh, tự do thị trường, tự do cạnh tranh, nhà nước không nên can thiệp
sâu vào các hoạt động kinh tế.
II. Giới thiệu về tác giả Adam Smith và tác phẩm:
1 ) Cuộc đời của Adam Smith :
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con
người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì vậy
người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của nhà Kinh
Tế Học này.
Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông
được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá
nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành phố

Edinbug, xứ Tụ Cỏch Lan. Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần
lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông
Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam
sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng
năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Gypsies sống lang thang
và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.
Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào thời
gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment).
Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết
học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh,
không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và Triết Học của ông
Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư
viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới "Tiến Sĩ Hutcheson không bao giờ có thể
quên được". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo
học trường Balliol thuộc Đại Học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại
học này, các sinh viên học tập cách tự học (self-education) để quán triệt các nền
triết học cổ điển và đương thời, họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp
và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia
đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames,
Adam Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ
trách các buổi thuyết trình công (public lectures), đây là một hình thức giáo dục
với tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng.
Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học (rhetoric) tới
ngành chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết về Adam
Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Quý Ông" (Gentleman 's Magazine) đã bình
luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ
đang dùng tại xứ Tụ Cỏch Lan".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm Giáo Sư
Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi

năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy), một môn
học bao gồm các ngành thần học tự nhiên (natural theology), đạo đức học (ethics),
luật học (jurisprudence) và chớnh trị kinh tế học.
Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung
sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau.
Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp
học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa
được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại
học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm khoa trưởng. Các bạn và
người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều
người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học
gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học, James Watt là nhà
phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện Hàn Lâm Kiểu
Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết
học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn,
nguyên viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập ra Câu Lạc Bộ Chớnh Trị
Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó Adam Smith thu thập được
nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm "Tài Sản của
các Quốc Gia".
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các Tình Cảm
Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra
với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất
phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả
qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" (human nature) và đặt vấn
đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các
hành vi của chính mình trong việc tư lợi (self-interest) và tự bảo tồn (self-
preservation). Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con
người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên
vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người
khác. Qua tác phẩm "Các Tình Cảm Luân Lý", Adam Smith đó cú nhận xét quan

trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia":
“con người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi "một bàn
tay vô hình" (an invisible hand) … mà không ai biết, không do chủ đích, để làm
thăng tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên
các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường (market-
oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.
Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (*)đã sớm mang lại danh tiếng
cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh
viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan
trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là
một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về
sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu
trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là Cuộc Cách
Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho
đứa con riêng của bà vợ, tức là Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác
phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị
với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng
với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của
chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh
viên.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu
Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và
trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài Sản của các
Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và Adam Smith đã
được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành
phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại Sứ Anh tại nước Pháp. Adam
Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai
Sáng (the French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhúm cỏc nhà lý
thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les ộconomistes), đứng đầu
nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền

nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông
Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao
trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã
không đồng ý với ông Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực
tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng
của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học
người Anh này đã có ý định đề tặng tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" cho ông
Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn sách được xuất bản.
Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em
trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu em trai
qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith phải trở về
London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào năm này,
ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm
quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và
có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy
và trong vòng 6 năm tại đây, ụng đó sửa chữa tác phẩm "Tài Sản" rồi sau ba năm
sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản
vào năm 1776.
Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của các Quốc Gia" đã được mọi
người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm làm
Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tụ Cỏch Lan, một chức vụ rất nhàn, lương năm là
600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ông rất giàu có. Adam Smith sống độc thân,
trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới thành phố London hay tới Glasgow,
nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học. Adam Smith đã viết thêm
một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị ông ra lệnh đốt bỏ. Ông qua đời vào
năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng, được chôn cất trong sân nhà thờ tại
Canongate và trên mộ chí của ông chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của tác
giả cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia".
2/ Thời kỳ Khai Sáng và tác phẩm "Tài Sản" :
Thời kỳ Khai Sáng hay còn được gọi là thời đại của Lý Trí (the Age of

Reason) là giai đoạn lịch sử bắt đầu sau Cuộc Cách Mạng Rực Rỡ (The Glorious
Revolution) tại nước Anh vào năm 1688 và chấm dứt trước Cuộc Cách Mạng
Pháp 1789, một thế kỷ về sau. Thời kỳ Khai Sáng đáng nhớ không phải bằng năm
tháng, mà bằng tên của các nhà triết học danh tiếng như Montesquieu, Voltaire,
Condorcet, Descartes, Diderot, Rousseau… tại nước Pháp, Emmanuel Kant tại
nước Đức, tại nước Ý có nhà sử học kiêm triết học Giambattista Vico và nhà luật
học kiêm xã hội học Beccaria, tại nước Anh có John Locke, Edward Gibbson và
Edmund Burke, tại Bắc Mỹ là Benjamin Franklin, còn đại diện cho miền Tụ Cỏch
Lan là David Hume và Adam Smith.
Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng bị ảnh hưởng sâu đậm vỡ các khám
phá do ngành Vật Lý, chẳng hạn như định luật về sự rơi tự do của Galileo Galilei
tại nước Ý, định luật về chuyển động và trọng lực của trái đất khám phá do Isaac
Newton tại nước Anh… Nhờ Toán Học, các nhà khoa học đã tìm ra các định luật
của thiờn nhiên. Do căn cứ vào các phương pháp khoa học, vào cách quan sát và
thí nghiệm, các tiến bộ quan trọng đã được thực hiện tại các bộ môn Toán Học,
Vật Lý, Hóa Học, Thiên Văn, Cơ Học… và các nhà triết học chấp nhận ý tưởng
của triết gia người Anh là Francis Bacon theo đó "kiến thức là sức mạnh". Kiến
thức vì thế được biên soạn thành các bộ Từ Điển Bách Khoa. Các nhà triết học
cũng thành lập các viện nghiên cứu khoa học và họ tin tưởng rằng phương pháp
khoa học có thể áp dụng vào công trình tìm hiểu bản chất của con người. Nhiều bộ
môn Khoa Học Xã Hội như Triết Học, Giáo Dục, Luật Pháp và Chính Trị Học đã
được các nhà triết học khai phá, họ so sánh lý trí với sự ngu dốt, với các điều mê
tín dị đoan và cách chấp nhận thẩm quyền của người dân, họ vạch ra các bất công
xã hội và tấn công chế độ chuyên chế và phê phán giới cầm quyền, nhất là Nhà
Thờ Cơ Đốc La Mã (the Roman Catholic Church) đã duy trì sự ngu dốt vì quyền
lợi riêng tư của nhà thờ.
Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng không phải là những kẻ vô thần
(atheists). Họ tin tưởng Thượng Đế toàn năng nhưng mục đích của họ là trình bày
rằng có thể điều tra được, tìm hiểu được số mệnh (destiny) của con người trên trái
đất và họ không chịu chấp nhận niềm tin một cách thụ động do tôn giáo đặt ra.

Các nhà lãnh đạo trí thức của thời kỳ này đó dựng cỏc khẩu hiệu như giáo dục,
làm sáng tỏ (clarification), phá vỡ điều huyền bí (demystification) trước các áp chế
tinh thần.
Tới cuối thế kỷ 18, cách nhìn và cứu xét sự vật của các nhà triết học đã thay
đổi. Lý trí không còn được chú trọng mà thay vào là "cảm xúc" (feeling). Trật tự,
kỷ luật và cách kiểm soát (discipline, order & control) đã bị thay thế bằng sự đam
mê, tính cá nhân và tính cấp thời (passion, individuality & spontaneity) và khi thời
kỳ Khai Sáng chấm dứt, phong trào Lãng Mạn bắt đầu.
1776 là năm bắt đầu của một giai đoạn lịch sử mới. Vào thời điểm này, cuộc
Cách Mạng Hoa Kỳ đã diễn ra, cuộc Cách Mạng Pháp đang âm ỉ và tốc độ của
cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tăng dần do phát minh về năng lực hơi nước và một số
khỏm phỏ khỏc. Vào lúc này tại nước Anh, đời sống kinh tế của người dân nằm
dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền: giá cả ổn định, tiền lương của
giới lao động thấp, sản phẩm được điều hòa, nền ngoại thương gồm cả nhập cảng
và xuất cảng hoàn toàn do chính quyền điều khiển, các giai cấp thống trị phản đối
các đề nghị phân phối tài sản, giáo dục chỉ được giành cho một thiểu số được ưu
đãi, hình luật thì rất khắt khe và các quyền lợi chính trị của đa số dân chúng chỉ có
về mặt lý thuyết.
Qua nhiều thập niên, giới quý tộc chủ đất đã nắm giữ chính quyền và hai giai
cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia, đang đòi hỏi và nhận được
các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất cảng, hạn chế nhập cảng bằng thuế cao,
không cho đồng tiền ra khỏi xứ, tiền lương công nhân phải duy trì thấp và giờ lao
động phải dài… và tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị
Viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ
thống kinh tế này, được gọi là thuyết "Trọng Thương" (mercantilism) với các niềm
tin chính như sau: thứ nhất, các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và
quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy "vàng và bạc", và
muốn có hai quý kim này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa, họ không coi
trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác, thứ hai, họ tin
tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì bị giới hạn, nên một quốc gia giàu lờn thỡ

cỏc quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia
phải xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ nghệ, nhập cảng nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa
và đây là các thị trường tiêu thụ.
Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của thuyết "Trọng Thương" thì
sai lầm và có hại. Ông đã bỏ ra nhiều năm quan sát trực tiếp các hoạt động kinh tế,
nói chuyện với nhiều loại người liên hệ, đọc sách và suy ngẫm rồi bắt đầu phác
thảo cuốn sách "Tài Sản" từ năm 1759, và sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau
lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo cho nhà in rồi
vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách thứ hai này được xuất bản.
Tác phẩm thứ hai của Adam Smith có tên là "Của cải của các quốc gia" (An
Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations), gọi tắt là "Tài Sản
của các Quốc Gia", hay "Tài Sản". Thực ra, tầm vóc bách khoa của bộ sách hai tập
này không chỉ bàn về bộ môn Kinh Tế Học. Có nhà phê bình đã gọi tác phẩm là
"Bộ sách lịch sử và phê bình nền Văn Minh của cả Châu Âu".
Bắt đầu tác phẩm bằng phần thảo luận về cách phân công lao động, tác giả
đã cứu xét nguồn gốc và công dụng của tiền tệ, giá cả của các loại mặt hàng, lương
bổng của công nhân, lợi nhuận, tiền thuê đất đai, trị giá của bạc, sự phân biệt giữa
lao động sản xuất và lao động phi sản xuất. Sau đó là phần trình bày sự phát triển
kinh tế của châu Âu kể từ khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, các phân tích và phê bình
chính sách thương mại và thuộc địa của các quốc gia châu Âu, lợi tức quốc gia,
các phương pháp quốc phòng và điều hành luật pháp của các xã hội sơ khai, nguồn
gốc và sự phát triển của các đạo quân tại châu Âu, lịch sử giáo dục vào thời trung
cổ, sự phát triển các món nợ công (public debts) và cuối cùng là việc cứu xét các
nguyên tắc thuế vụ và hệ thống lợi tức công (public revenue). Tại phần V của bộ
sách, tác giả Adam Smith đã phác họa bốn giai đoạn (stages) chính của cách tổ
chức xã hội: giai đoạn ban đầu gồm những người thợ săn thô sơ (rude state of
hunters), giai đoạn thứ hai là nền nông nghiệp du mục (nomadic agriculture), giai
đoạn thứ ba là nền canh tác phong kiến (feudal farming) và giai đoạn cuối cùng là
sự liên hệ thương mại (commercial interdependence), và đi kèm với mỗi giai đoạn
là các định chế (institutions) thích hợp với các nhu cầu của từng giai đoạn.

Luận đề chính của tác phẩm "Tài Sản" được căn cứ vào niềm tin rằng "mỗi
con người đều chính thức bị thúc động bởi tư lợi " (self-interest) mà điển hình là
lòng ham muốn tài sản (desire for wealth). Các động lực ích kỷ là căn cốt của các
hành động của con người và tác giả đã tin tưởng rằng tính ích kỷ cá nhân đã dẫn
tới sự an lạc xã hội (society's welfare), rằng nếu mỗi người cố gắng làm lợi cho
chính mình một cách đều đặn, không ngừng, thì sẽ dẫn tới sự thịnh vượng của
quốc gia. Người hàng thịt, người nấu rượu, người làm bánh mì chỉ vì tư lợi của họ
mà khiến cho chúng ta có bữa cơm ăn. Adam Smith còn cho rằng sự phân công lao
động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới. "Một bàn tay vô hình" dẫn dắt
con người trong khi làm việc có lợi cho mỡnh thỡ đồng thời đã đóng góp lợi ích
cho tập thể và về điểm này, Adam Smith đồng ý với Thomas Paine là "một chính
quyền tốt nhất là loại chính quyền cai trị ít nhất".
Trong cách phân phối lao động, Adam Smith cho rằng nên phân chia tiến
trình sản xuất thành cỏc khõu đoạn nhờ đó gia tăng mức độ sản xuất. Trước vấn đề
của chủ nhân và công nhân, Adam Smith đã viết: "giới công nhân muốn đòi nhiều,
giới chủ nhân muốn trả ít" và tác giả đã có cảm tình với giới công nhân bởi vì
lương bổng cao sẽ khiến cho người công nhân ham hoạt động hơn, chăm chỉ hơn
và hưũ hiệu hơn, đồng thời tác giả còn cho rằng các luật lệ về thời gian học nghề
là sự can thiệp bất công vào quyền lợi khi người công nhân ký khế ước làm việc,
chọn nghề hay đổi nghề từ chỗ trả lương thấp tới nơi trả lương cao.
Phần chính của tác phẩm "Tài Sản" là quyển IV có tên là "Về các hệ thống
kinh tế" (Of Systems of Political Economy). Ở đây, tác giả cứu xét hai hệ thống:
hệ thống thương mại và hệ thống nông nghiệp và phần nông nghiệp chỉ dày bằng
1/8 của phần thương mại. Adam Smith đã làm phát triển các nguyên tắc "tự do
kinh doanh" (the principles of laissez-faire) và tất cả các hoạt động kinh tế dẫn tới
tự do mậu dịch (free trade) bên trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền thương
mại không bị giới hạn trong nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể phát triển
toàn diện.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người
đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách "Lịch Sử của Nền Văn Minh",

Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng "Tài Sản của các Quốc Gia" có lẽ là tác
phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng
hay về các ảnh hưởng thực tế.
Từ các học thuyết kinh tế của Adam Smith về kinh tế thị trường có thể kết
luận rằng: Adam Smith đã thực hiện một nhiệm vụ to lớn trong khoa học kinh tế.
Adam Smith không phải là người đầu tiờn cú các lập luận đậm màu sắc phân tích
kinh tế, trước ông người ta đã thấy có James Steuart(1713-1780), Francois
Quesnay(1694-1774), nhưng ông là người đầu tiên hệ thống húa cỏc tư tưởng kinh
tế thành một thể hoàn chỉnh và độc lập. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra được
các lý thuyết hoàn chỉnh làm cơ sở cho việc ủng hộ một thị trường cạnh tranh tự
do. Vì vậy, học thuyết kinh tế của ông là một trong các đỉnh cao của tư tưởng xã
hội thế kỷ thứ XVIII. Phương pháp luận nghiên cứu của Adam Smith đã có ảnh
hưởng sâu sắc đến các học thuyết kinh tế Tư sản sau này. Như David Ricardo,
J.S.Mill, đó phỏt triển các quan điểm của Adam lên thành một dòng lý luận, thành
một trường phái kinh tế, đú là phái kinh tế học cổ điển. ễng được coi là “cha đẻ
của lý luận kinh tế thị trường”.
B. CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM SMITH:
1. Lý thuyết về phân công lao động và lợi thế tuyệt đối:
a) Lý thuyết về phân công lao động:
Lý luận về phân công lao động của Adam Smith chiếm vị trí hàng đầu trong
các lý luận kinh tế. Ông bắt đầu nghiên cứu kinh tế hàng hóa từ việc phân tích vai
trò của phân công lao động.
Ông cho rằng phân công lao động có thể nâng cao năng suất lao động. Ông
nêu ví dụ: Nếu một người sản xuất kim băng , tất cả các quy trình thao tác đều do
người đó hoàn thành một mỡnh thỡ mỗi ngày chưa chắc làm nổi 20 chiếc. Nhưng
trong một xưởng nhỏ chỉ có 10 công nhân, mỗi ngày có thể sản xuất được 48.000
chiếc, bình quân mỗi người sản xuất được 4.800 chớếc.
Sở dĩ đạt được kết quả như vậy, vỡ cỏc lý do sau:
- Do cú phõn cụng lao động dẫn đến chuyên môn hóa, trình độ, kỹ xảo, khéo
léo, tài năng, tháo vát của công nhân được phát huy và ngày càng tiến bộ.

- Do chuyên môn hóa nên tiết kiệm được thời gian, không phải di chuyển từ
công việc này sang công việc khác, nếu mỗi người phải tự hoàn thành một sản
phẩm.
- Tạo điều kiện để áp dụng máy móc, lao động trở nên giản đơn hơn, giảm
bớt được sức lao động.
- Tăng hiệu suất của lao động, tăng năng suất lao động làm tăng của cải cho
xã hội, làm cho mọi người, kể cả những tầng lớp thấp nhất, đều được hưởng sự
giàu có trong một xã hội được tổ chức và cai trị tốt. “… mức độ giàu có của xã hội
tỷ lệ thuận với trình độ phân công lao đụng”.
Trước hết, tài năng và sự khéo léo được nâng cao của công nhân tất yếu tạo
điều kiện cho họ làm được một khối lượng công việc nhiều hơn trước, và sự phân
công lao động hợp lý làm cho mỗi người chỉ cần chuyên tâm vào một thao tác đơn
giản và làm thao tác đó suốt đời mỡnh, thỡ nhất định họ ngày càng trở nên khéo
léo hơn nhiều.
Thứ hai, thời gian chuyển từ công việc này sang công việc khác được tiết
kiệm khá nhiều và đó là một lợi thế rất lớn mà thoạt đầu không phải ai cũng nhìn
thấy. Thật khó có thể nhanh chóng chuyển từ một công việc này sang công việc
khác ở một nơi khác và với dụng cụ khác. “Một người thợ dệt ở nông thôn vừa
làm ruộng vừa dệt vải tất nhiên mất khá nhiều thời gian khi chuyển từ khung dệt ra
ngoài đồng và ngược lại”. [trang 58, Của cải của các dân tộc, NXB Giáo Dục,
1997]
Thứ ba, mọi người đều phải nhận thức rõ là máy móc khi được áp dụng tốt
làm cho công việc sản xuất đựơc dễ dàng và rút ngắn đi rất nhiều. Do có sự phân
công lao động, công nhân được trao cho một thao tác riêng biệt, tất nhiên anh ta để
hết mọi tâm trí vào thao tác đó. Một người nào đó được sử dụng vào một khâu lao
động riêng biệt sẽ tìm được phương pháp thích hợp để thực hiện dễ dàng và có
hiệu quả hơn công việc đó mà chính tính chất của việc này đòi hỏi phải có sự cải
tiến.
Ông cho rằng, một số xã hội có thể do sự phân công hợp tác giữa các ngành
nghề khác nhau, làm cho năng suất lao động nâng cao đến hết mức, từ đó mỗi cỏc

nhõn đều có thể dùng một số lượng lớn sản phẩm của công nhân ngành khác, tức
là đạt được sự giàu có phổ biến của các giai cấp trong xã hội. Mức độ giàu có của
xã hội tỉ lệ thuận với trình độ phân công lao động xã hội. Ông cho rằng, sự xuất
hiện của phân công lao động không phải là kết quả của trí tuệ loài người mà “là
một kết quả tất nhiên của sự hình thành và từng bứơc của khuynh hướng nhõn
tớnh”. Khuynh hướng này tức là “cú và không bù đắp cho nhau, vật và vật trao đổi
với nhau với nhau và giao dịch qua lại với nhau”, tức là phân công có nguồn gốc
từ trao đổi. Vì vậy, trình độ phân công cũng chịu sự hạn chế rộng hay hẹp của thị
trường.
Ý nghĩa:
+ Lý luận về phân công lao động của ông tập hợp được thành quả nghiên cứu
của các thế hệ trước, là một lý luận về vấn đề phân công lao động có thể nói từ
trước tới nay không ai sánh kịp.
+ Nhưng do có sự hạn chế về quan điểm và nguyên nhân của sự phân công,
điều này khiến cho lý luận của ông còn tồn tại các vấn đề sau:
- Không phân biệt giữa phân công công trường thủ công và phân công
trong xã hội. Theo ông hai cái đó là một và chỉ có sự khác biệt do chủ quan của
người quan sát. Như vậy là sai lầm.
- ễng coi nhẹ tính chất lịch sử và tính chất xã hội của sự phân công, chỉ
đơn thuần dựa vào hiệu quả chung mà phân công để khảo sát phân công, đó là
nguyên nhân làm ông lẫn lộn giữa hai loại phân công, đồng thời khiến ụng đó vĩnh
hằng hóa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo ông thì việc sản xuất ra của cải
và việc tiến hành phân công của bất kỳ xã hội nào đều phải diễn ra theo quan hệ
này.
Sau khi nghiên cứu sự phân công, ông nghiên cứu tiếp về sự trao đổi.
Lý luận về trao đổi:
Ông cho rằng sự phân công này, dự nú mang lại cho con người rất nhiều lợi
thế, không phải xuất phát từ sự tinh khôn của con người mà nhìn thấy trước và cố
ý đem lại sự giàu có cho mọi người. Đây chỉ là một hậu quả tất yếu, mặc dù diễn
ra rất chậm và dần dần, của thiên hướng thuộc bản chất con người mà chưa nhìn

thấy hết lợi ích to lớn như vậy; đó là thiên hướng muốn đổi chác hoặc trao đổi vật
này lấy vật khỏc.“Trước đõy phân công sản xuất chính là khuynh hướng loài
người có nhu cầu trao đổi với nhau”. “Bất kỳ ai mang lại cho người khác một món
hời, một cơ hội tốt thì cũng mong được trả lại như vậy. Anh cho tôi thứ mà tôi
thích, anh sẽ có thứ mà anh yêu cầu, đú chớnh là ý nghĩa của trao đổi”. [trang 65,
Của cải của các dân tộc, NXB Giáo Dục, 1997]. Ví dụ, trong bộ tộc săn bắn hoặc
du mục, có người giỏi việc chế tạo cung tên, anh ta thường dùng cung tên mà mình
làm ra để trao đổi lấy gia súc hoặc thịt thú vật, kết quả là anh ta phỏt hịờn ra rằng
trao đổi với thợ săn còn hơn là tự mình đi săn bắn, bởi vì qua trao đổi thì thu nhập
được khá hơn nhiều. Do lợi ích của bản thân, anh ta vui lòng lấy việc sản xuất
cung tên làm nghề nghiệp, thế rồi anh ta trở thành người chế tạo vũ khí. Cứ như
thế, mọi người đều có thể đem sản phẩm lao động của mình đổi lấy bộ phận sản
phẩm lao động dư thừa của người khác mà mình cần thiết. Việc đú đó khuyến
khích mọi người chuyên tâm làm một việc nhất định, để họ có thể mài dũa và phát
huy tư chất và tài năng bẩm sinh của mình. Ông đã giải thích như thế về nguyên
nhân quá trình trao đổi, đề ra phân công và trao đổi trở thành hiện tượng thường
ngày của cuộc sống.
Ông cho rằng, phần lớn những thứ cần thiết của con người đều được cung
cấp thông qua việc trao đổi, mua bán, ký kết giao kèo. Khi có tiền trong tay, con
người có thể mua lương thực, mua quần áo hoặc trao đổi bộ quần áo này lấy bộ
quần áo khác vừa ý hơn; khi có tiền, người ta có thể mua các vật dụng cần thiết
cho cuộc sống, kể cả nhà cửa, đất đai.
Do thông qua ký kết giao kèo, trao đổi, mua bán mà chúng ta nhận được
người nọ từ người kia phần lớn những sự giúp đỡ đôi bên cùng có lợi mà chúng ta
cần đến, và cũng do sự trao đổi buôn bán, trao đổi như vậy mà con người mở đầu
cho sự phân công lao động. “Ở trong một bộ lạc săn muông thú hay chăn cừu, một
người nào đó biết làm cung tên khéo léo hơn mọi người khác. Người đó trao đổi
cung, tên làm ra lấy vật chất chăn nuôi hay thịt hươu nai của các người khác trong
cùng bộ lạc. Suy cho cùng, người đó thấy rằng làm như vậy anh ta có thể kiếm
được nhiều thức ăn hơn là tự anh ta đi săn bắn.” [ trang 66, Của cải của các dân

tộc, Adam Smith, NXB Giáo Dục, 1997]
Niềm tin vào khả năng trao đổi sản phẩm lao động dư thừa của mình lấy cái
phần sản phẩm lao động của người khác mà mình cần đến, đã thúc đẩy mỗi con
ngừơi hiến dâng cả đời mình cho một công việc chuyên môn nhất định và phát
triển đến mức hoàn hảo những khả năng và năng khiếu bẩm sinh của mình trong
lĩnh vực chuyên môn đó. Từ đó sẽ đem lại lợi ích cho cá nhân và cho xã hội.
“Cũng do sự cần thiết phải trao đổi những sản phẩm thặng dư do mình làm ra, sau
khi đã tiêu dùng đủ cho bản thõn và gia đình, để lấy các thứ khác do sức lao động
của người khác làm ra, mà mỗi người trong bộ lạc thấy cần phải làm một nghề
nhất định, phải cố gắng học hỏi lẫn nhau để nâng cao tài năng hay biệt tài của
mình để ngày càng làm tốt hơn công việc của mỡnh.” [trang 66, Của cải của các
dân tộc, Adam Smith, NXB Giáo Dục, 1997]
Để tăng thêm của cải của một quốc gia, theo ụng cú hai cách:
- Một là, tăng sức sản xuất của lao động hay tăng năng suất của lao động.
- Hai là, tăng số lượng lao động.
Tuy nhiên, năng suất lao động lại tùy thuộc vào phân công lao động. Ông
viết: “Sự tiến bộ vĩ đại nhất trong quá trình phát triển sức sản xuất của lao động và
tỷ lệ đáng kể của nghệ thuật, kỹ năng và trí thông minh, rõ ràng đã được xuất hiện
nhờ kết quả của phân công lao động”.
Ông cho rằng vì trao đổi hàng hóa đã hình thành nên sự phân công lao động,
cho nên mức độ phân công lao động này luôn luôn bị hạn chế bởi mức độ trao đổi,
hay nói cách khác, bởi qui mô thị trường. Khi thị trường rất nhỏ, không có một
người nào muốn hoàn toàn chuyên tâm vào một công việc vì không có khả năng
trao đổi sản phẩm dư thừa do sức lao động của chính mình làm ra vượt quá mức
tiêu thụ cá nhân, để lấy những sản phẩm của những người khác làm ra, khi người
đó cần. Vì thế, ông chỉ ra rằng việc nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng
của cải quốc dân đã dựa vào sự phân công, mà trình độ của phân công lại được
quyết định bởi phạm vi của thị trường lớn hay nhỏ, cho nên tất cả các chính sách
hoặc biện pháp hạn chế thị trường và sự trao đổi hàng hóa đều có thể làm trở ngại
cho phúc lợi xã hội, làm trở ngại sự tăng trưởng của cải quốc gia.

Ông đã đảo lộn quan hệ giữa phân công và trao đổi, không những thế mà còn
vứt bỏ tính chất lịch sử và tính chất xã hội của trao đổi, lẫn lộn trao đổi của người
sản xuất nhỏ với trao đổi tư bản chủ nghĩa, đồng thời đánh đồng giữa trao đổi “vật
lấy vật” với trao đổi hàng hóa. Nhưng lý luận của ông về trình độ phân công chịu
sự hạn chế của thị trường, mọi chính sách và biện pháp hạn chế của thị trường và
sự trao đổi hàng hóa đều sẽ gây trở ngại cho tư tưởng tăng trưởng phúc lợi xã hội
và của cải quốc dân lại là đúng đắn, không những thế mà còn rất hữu ích.
b) Lợi thế tuyệt đối:
b1) Cơ sở của lợi thế tuyệt đối:
Adam Smith nhận thức rõ về cơ sở phân công lao động trong kinh tế thị
trường, khi phân công lao động phát triển giữa các nước, sẽ cho phép mỗi nước
phát huy được lợi thế tuyệt đối của mình.
Quy luật về những lợi thế tuyệt đối là một trong những quy luật đầu tiên biện
minh cho sự trao đổi quốc tế về mặt lý luận. Lập luận đó xuất phát từ ví dụ cá
nhân: mỗi người đều muốn lợi dụng sự chuyên môn hóa tuyệt vời của một người
chuyên nghiệp được đặt đúng chỗ để sản xuất ra cái mà người ta không thể tự
mình làm được một cách khôn khéo như thế. Lý do ngầm ẩn là người chuyên môn
có hiệu quả lớn hơn. Do tham gia phân công lao động, người ta có thể tiết kiệm
được lao động của mình trong công việc mà mình vụng về và đem lại cho nó một
hiệu quả lớn hơn bằng cách tự hiến mình cho lĩnh vực mà mình tài giỏi. Kết quả là
mỗi người có thể tạo ra một sản lượng của cải lơn hơn.
Theo ụng: “Chõm ngụn của mọi người chủ gia đình cẩn thận là không bao
giờ thử làm một vật gì ở nhà mình mà giá lại rẻ hơn mình làm lấy. Người thợ may
không tìm cách đóng giày và mua ở người thợ giày; thợ đóng giày không cố may
quần áo mà nhờ thợ may; người chủ nông trại không cố thử việc này lẫn việc kia,
mà đến với hai người thợ thủ công ấy để đặt làm. Không một ai trong số đó lại
không thấy rằng mình sẽ có lợi hơn khi sử dụng toàn bộ nghề nghiệp của mình vào
loại lao động mà mình có lợi thế hơn những người láng giềng và mua mọi vật cần
thiết khác với một phần sản phẩm nghề nghiệp của mình, hoặc nếu cũng là những
đồ vật ấy, thì với giá cả một phần sản phẩm ấy”. Và: “Cỏi được coi là thận trọng

trong hành vi của mỗi gia đình nói riêng cũng không hề bị coi là điên rồ trong
hành vi của một đế chế lớn. Nếu một nước ngoài có thể cung cấp cho chúng ta một
thứ hàng hóa rẻ hơn chúng ta làm lấy thì tốt nhất là chúng ta hãy mua của nước đó,
với một phần sản phẩm công nghiệp của chúng ta, còn sản xuất công nghiệp của
chúng ta thỡ hóy đem dùng để sản xuất một loại sản phẩm nào mà chúng ta có lợi
thế”.
b2) Những lý thuyết cơ bản và lợi thế tuyệt đối trong thương mại:
Đặc điểm tình hình ảnh hưởng đến quan điểm của Adam Smith:
Bắt đầu từ giữa thế kỷ thứ XVIII, nền kinh tế ở các nước Tây Âu đó cú
những thay đổi đáng kể:
- Từ một xã hội nông nghiệp giản đơn phát triển thành một xã hội kinh tế
phức tạp, bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau.
- Công nghiệp phát triển, đặc biệt là ở Anh. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã biến
nước này từ một nền kinh tế kỹ nghệ tại gia sang một nền kinh tế với những cơ
xưởng dựa vào sức máy và hơi nước. Vị trí của tư sản công nghiệp trở nên rất quan
trọng, thay thế cho vị trí của thương nhân trước đây.
- Mậu dịch từ nội bộ địa phương đã được mở rộng ra toàn quốc và toàn cầu,
các mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn. (Thay cho len và lúa mì là những sản phẩm
mới như vải dệt, vật dụng bằng sắt, sản phẩm da thuộc, than…)
- Hệ thống ngân hàng phát triển, hệ thống thương phiếu ra đời và bắt đầu
phát hành tiền tệ.
- Quốc gia dã man không cần dùng biện pháp tăng cường quyền lực như giai
đoạn trước mà chuyển vai trò đó vào tay cá nhân. Vai trò của các doanh nghiệp
được đề cao. Họ có quyền tự quyết các vấn đề như sản xuất cái gì, bằng phương
pháp gì và định giá ra sao, không còn phải chịu sự kiểm soát của các chính quyền
địa phương, giáp hội hay quân đội như trước đây nữa.
Những lý thuyết cơ bản và lợi thế tuyệt đối trong thương mại:
- Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất,
khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau.
- Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự

nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề.
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hóa sản
xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối (có mức chi phí sản xuất thấp
hơn hẳn so với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của
quốc tế), sau đó bán những hàng hóa này sang quốc gia khác để đổi lấy các
sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. Bằng việc chuyên môn hóa sản xuất
những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ
thương mại với nhau.
Mô hình đơn giản nhất theo giả định sau:
♦ Thế giới có hai quốc gia và mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng.
♦ Đồng nhất chi phí sản xuất với tiền lương cá nhân.
♦ Giá cả hoàn toàn do chi phí sản xuất quyết định.
Ví dụ: Giả sử một giờ lao động ở Mỹ sản xuất được 6 giạ lúa mì (1 giạ = 36
lít), ở Anh được 1 giạ. Trong khi đó 1 giờ lao động ở Anh sản xuất được 5 mét vải,
còn ở Mỹ sản xuất được 4 mét vải. Các số liệu được biểu thị qua bảng sau:
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì Mỹ sản xuất lúa mì có
hiệu quả hơn hay có lợi thế tuyệt đối so với Anh, còn Anh thì có lợi thế tuyệt đối
so với Mỹ trong sản xuất vải. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì
còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải vóc và sau đó đem trao đổi cho
nhau: Mỹ xuất lúa mì, nhập vải; Anh thì xuất vải, nhập lúa mì.
Nếu Mỹ đổi 6 giạ lúa mì (6W) với Anh để lấy 6 vải (6C) thì Mỹ sẽ có lợi 2C
hay tiết kiệm được ẵ giờ tức 30 phút thời gian lao động (vì trong nội địa Mỹ chỉ có
thể đổi 6W lấy 4C mà thôi). Tương tự, như vậy nếu Anh nhận được từ Mỹ 6W, tức
là Anh đã không phải tiêu phí một lượng thời gian là 6 giờ để sản xuất trong nước.
với thời gian đó, Anh chỉ tập trung cho sản xuất vải thì sẽ được 30C (6 giờ x 5
mét/ người – giờ). Trong đó 6C dùng để trao đổi với Mỹ, còn 24C là lợi ích thuộc
về Anh. Hay nói một cách khác là Anh đã tiết kiệm đựơc gần 5 giờ lao động (vì
một giờ sản xuất được 5m vải trong nội địa nước Anh).
Từ đây rút ra kết luận:
 Quá trình trao đổi trên cơ sở lợi thế tuyệt đối làm khối lượng tổng sản

phẩm toàn xã hội tăng lên, làm cho các nguồn lực trong nước được sử dụng một
cách có hiệu quả hơn.
Sản phẩm Mỹ Anh
Lúa mì (giạ/ người -
giờ)
6 1
Vải (mét/ người – giờ) 4 5
 Thương mại quốc tế sẽ tạo điều kiện để phát triển những ngành có lợi thế
và thu hẹp những ngành bất lợi thế, làm cơ sở lý luận sau này cho việc chuyển đổi
cơ cấu kinh tế giữa các quốc gia.
Ưu điểm :
- Khắc phục hạn chế của lý thuyết trọng thương đó là khẳng định cơ sở tạo ra
giá trị là sản xuất chứ không phải là lưu thông.
- Chứng minh thương mại đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Tuy nhiên, lý thuyết này có một số điểm bất ổn, chẳng hạn:
 Không giải thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao động
quốc tế và thương mại quốc tế sẽ xảy ra như thế nào đối với những nước không có
lợi thế tuyệt đối nào.
 Coi lao động là yếu tố sản xuất duy nhất tạo ra giá trị, là đồng nhất và
được sử dụng với tỉ lệ như nhau trong tất cả các loại hàng hoá.
2. Lý luận về giá trị của Adam Smith:
Đó là sự trình bày và phân tích một cách có hệ thống sớm nhất về giá trị của
kinh tế học tư sản cổ điển.
Lý luận về giá trị của Adam Smith chủ yếu giải quyết ba vấn đề cơ bản:
- Thứ nhất: Thước đo thật sự của giá trị trao đổi là gì, hay nói cách khác là
cái gì đã tạo ra giá trị thực sự của mọi thứ hàng hóa.
- Thứ hai: Các bộ phận tạo nên giá trị thực sự rốt cuộc là cái gì.
- Thứ ba: Trường hợp nào đã khiến cho một bộ phận hay toàn bộ giá cả nói
trên cú lỳc cao hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng, cú lỳc lại
thấp hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng.


Giải đáp lý luận về ba vấn đề này là nội dung của lý luận về giá trị của ông.
a) Vấn đề 1:
Trước khi nêu vấn đề và bắt đầu nghiên cứu lý luận giỏ trị, trước hết ông
phân biệt hai cách dùng của từ “giỏ trị”: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
Ông nói: từ “giỏ trị” có hai nghĩa khác nhau, cú lỳc nú biểu thị hiệu quả sử
dụng như là một vật phẩm đặc biệt, cú lỳc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một
vật nào đó mà nó có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, cái sau
gọi là giá trị trao đổi.
Tiếp đú ụng cũn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi. Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn, thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm
chí không có. Ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi rất lớn, thường có giá trị sử
dụng cực nhỏ, hoặc không có giá trị trao đổi.
Việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này
đồng thời giải thích rõ là giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không có liên quan gì đến giá
trị sử dụng, đó là công lao của Adam Smith. Nhưng ông cho rằng những thứ
không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi thì lại là sai lầm.
Khi xây dựng lý luận giá trị, trước hết ông giải quyết vấn đề “Thế nào là
thước đo thực sự của giá trị trao đổi”.
Ông cho rằng trao đổi hàng hóa chẳng qua là trao đổi lượng giá trị lao động
thể hiện trong hàng hóa đó. Vì thế, giá trị trao đổi của hàng hóa là do lao động
quyết định. Điều đó là hoàn toàn tự nhiên. Lao động là thước đo thực sự để xác
định giá trị trao đổi của mọi loại hàng hóa: “Một người có hàng hóa do sức lao
động của mình làm ra nhưng không muốn tiêu dùng mà muốn trao đổi để lấy hàng
hóa khác, thì giá trị của số hàng hóa đó bằng lượng lao động mà anh ta có thể
chiếm dụng hoặc mua được nhờ có số hàng hóa đó. Vì thế, lao động là thước đo
thực tế đối với giá trị trao đổi của mọi thứ hàng húa”. [trang 85, Của cải của các
dân tộc, Adam Smith, NXB Giáo Dục, 1997]. Việc xác nhận lao động quyết định
giá trị của hàng hóa là công lao và thành tích khoa học của ông. Nhưng ông không
hiểu được tính chất xã hội của loại lao động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm

xem là lao động gì quyết định giá trị của hàng hóa, lao động xác định giá trị của
hàng húa như thế nào thỡ ụng rơi vào sự hỗn loạn.
 Một mặt ông cho rằng lao động quyết định giá trị của hàng hóa là lao động
tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng
thời gian lao động hao phí trong sản xuất. “Giỏ thật của mỗi vật, tức là giá mà
người ta có nhu cầu mua nó phải trả, là tương đương với sự vất vả những khó khăn
mà anh ta phải bỏ ra mới mua được vật đó. Trong trạng thái thô thiển của những
xã hội vừa mới ra đời, trước khi có sự tích luỹ tư bản và sự chiếm hữu đất đai, mối
quan hệ giữa số lượng lao động cần thiết để mua được mỗi đồ vật có vẻ như là dữ
kiện duy nhất có thể đặt ra một quy tắc cho sự trao đổi giữa người này với người
khác. Chẳng hạn, nếu ở một dân tộc săn bắn thường phải bỏ ra gấp hai lần lao
động để giết một con hải ly so với việc giết một con hươu, thì tất nhiên người ta
phải trả cho một con hải ly gấp đôi một con hươu, hay nói cách khác, một con hải
ly giá gấp đôi một con hươu. Thật đơn giản khi sản phẩm của hai ngày hay của hai
giờ lao động thường đắt gấp đôi sản phẩm chỉ đòi hỏi một ngày hay một giờ lao
động”
 Đồng thời ụng cũn nghiên cứu sự phân biệt giữa lao động đơn giản và lao
động phức tạp, ông cho rằng trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp
có thể tạo ra giá trị nhiều hơn là lao động đơn giản. “Sức lao động bỏ ra trong một
giờ lao động khó nhọc có thể nhiều hơn sức lao động trong hai giờ làm việc nhẹ
nhàng, hoặc làm một giờ trong một nghề mà phải mất mười năm học tập thì phải
tốn sức hơn làm một thàng trong một nghề bình thường. Nhưng không dễ tìm ra
một thước đo chính xác để đánh giá được sức khó nhọc và tài khộo lộo”. [trang 87,
Của cải của các dân tộc, Adam Smith, NXB Giáo Dục, 1997]
Mặc khỏc ụng lại giải thích lao động là sự hi sinh, “yờn vui, tự do và hạnh
phỳc”.
Đồng thời ông cho rằng, lao động quyết định giá trị hàng hóa là lao động mua
được hoặc có thể chi phối được hàng hàng hóa trong trao đổi.
Như vậy, đã rơi vào suy luận lẩn quẩn dùng giá trị quyết định giá trị. Điều
này hiển nhiên là sai lầm. Ông đã lẫn lộn vấn đề giá trị đã được quyết định như thế

nào trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như thế nào trong trao đổi.
Về hình thức biểu giá trị, theo ông trong nền kinh tế hàng hóa nhỏ, giá trị được
biểu hiện ở giá trị trao đổi, trong trao đổi với các hàng hóa khỏc, cũn trong nền sản
xuất hàng hóa phát triển, nó được biểu hiện ở tiền tệ.

b) Vấn đề 2:
Khi giải đáp vấn đề “giỏ cả thật”, tức là giá trị do cái gì tạo nên, ông ý thức
được rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa
có khối lượng ngang nhau. Nhưng do chỗ ông chưa phân biệt được lao động và
sức lao động, vì vậy ông không thể giải thích lao động (mà tư bản mua được trong
điều kiện trao đổi ngang giá trên cơ sở lý luận giá trị lao động) làm thế nào có thể
đẻ ra lợi nhuận. Thế là đã xa rời lý luận giá trị lao động, ông khẳng định rằng, quy
luật giá trị chỉ thích hợp với “xó hội mông mụi thời kỳ đầu”, mà giá trị không
thích hợp với xã hội tư bản chủ nghĩa.
Ông cho rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị hàng hóa không còn quyết
định bởi lượng lao động hao phí trong sản xuất vừa do lượng lao động mua được
quyết định. Lượng lao động mua được có thể phân tích thành ba loại thu nhập là
tiền lương, lợi nhụận và địa tô. Ngược lại cũng có thể nói lượng lao động mua
được là do ba loại thu nhập - tiền lương, lợi nhuận và địa tô tạo thành. Như vậy
trên thực tế đã chuyển giá trị là do lao động quyết định sang giá trị quýờt định bởi
ba loại thu nhập. Vì vậy, ụng núi “tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc
cơ bản của mọi thu nhập và mọi giá trị có thể trao đổi”. Với quan điểm này Adam
Smith đã không thấy được lao động quá khứ kết tinh trong hàng hóa. K. Marx đã
gọi đây là “Tớn điều của Adam Smith”. Quan điểm này của ông được các nhà
kinh tế học tư sản sau đó phát triển thành lý luận về chi phí sản xuất.
Ông cho rằng giá trị hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập là sai lầm. Ở
đây ông lẫn lộn giá trị hàng hóa với giá trị mới sáng tạo của lao động.
c) Vấn đề thứ ba trong lý luận giá trị của ông là nghiên cứu quy luật giá trị và
tác dụng của nó. Ông đã phân biệt giá cả thị trường và giá cả tự nhiên.
- Giá cả tự nhiên là chỉ giá cả cấu tạo nên theo mức tự nhiên, tức là tiền lương,

lợi nhuận và địa tô chi trả theo mức bình quân.
- Giá cả thực tế là chỉ giá cả sản xuất thống nhất với giá trị.
Giá cả thị trường do sự thay đổi quan hệ cung cầu của hàng hóa, nờn cú lỳc
cao hơn cú lỳc thấp hơn giá cả tự nhiên, nhưng do tự do cạnh tranh, giá cả thị
trường thường có xu thế tự nhiên nhất trí với giá cả tự nhiên: “Khi số lượng hàng
hóa mang bán ra thị trường chỉ vừa đủ thỏa mãn nhu cầu thực tế của người tiờu
dựng, giá thị trường tất nhiên sẽ chỉ vừa đúng hoặc chênh lệch chút ít so với giá tự
nhiên. Toàn bộ hàng hóa chỉ có thể bán theo giá này, không thể nào tăng giá lên
được. Những người bán bắt buộc phải chấp nhận bán với giá này, nhưng cũng
không bắt buộc phải bán rẻ hơn, mặc dù có sự cạnh tranh trong buôn bán”. [trang
121, Của cải của các dân tộc, Adam Smith, NXB Giáo Dục, 1997]. Có thể thấy
rằng, không những ông coi giá cả dao động xoay quanh giá trị là một hiện tượng
có tính quy luật, mà còn chứng minh rõ tác dụng điều tiết của quy luật giá trị đối
với sản xuất hàng hoá. Nhưng do chỗ không hiểu được mối liên hệ nội tại giữa giá
trị và giá cả, ông không giải thích được sự xa rời giá cả khỏi giá trị chính là hình
thức tác dụng của quy luật giá trị.
Tóm lại, do hạn chế về lập trường, quan điểm và phương pháp, nên lý luận
giá trị của ông vừa có yếu tố khoa học vừa có yếu tố tầm thường, đồng thời trên
thực tế ụng đó rơi vào tình trạng hỗn loạn. Nhưng lý luận giá trị của ông không kể
là chiều sâu hay chiều rộng đều vượt các bậc tiền bối của ông, nhất là ông lại là
người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động, đồng thời
về cơ bản ụng đó kiên trì dùng lý luận giá trị lao động để nghiên cứu vấn đề lợi
nhuận và địa tô. Đó là đóng góp chủ yếu của ông về mặt khoa học.
3. Lý luận về ba giai cấp và ba loại thu nhập:
Tác phẩm “Của cải của các dân tộc” chủ yếu nghiên cứu nguyên nhân thúc
đẩy và cản trở sự tăng trưởng của cải, chứng minh rằng chế độ tư bản chủ nghĩa có
thể thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất và sự tăng trưởng của cải quốc dân, một
cách mạnh mẽ hơn, đó là chế độ lí tưởng phù hợp với nhân tính và phù hợp với tự
nhiên. Ông chia xã hội tư bản thành ba giai cấp cơ bản là: giai cấp cụng nhân giai
cấp tư sản và giai cấp chiếm hữu ruộng đất; đồng thời ông chia làm ba loại thu

nhập tương ứng với ba giai cấp đó là tiền lương, lợi nhuận và địa tô.
Sự phân chia của ông về ba loại giai cấp và ba loại thu nhập bắt đầu từ tiền
lương. Ông cho rằng trong xã hội tư bản chỉ có tiền lương là thu nhập của lao
động, “sản phẩm lao động tạo thành thù lao tự nhiên cựa lao động hoặc tiền lương
tự nhiờn”. Quan điểm này mặc dù thống nhất với lý luận giá trị - lao động; song
ụng đó coi nhẹ tính chất xã hội và tính chất lịch sự của tiền lương. Do vậy, khi
phân tích tiền lương ông chỉ coi trọng mặt số lượng dẫn đến những quan niệm sai
lầm khi phân tích về mặt chất của nó.
Lý luận vế phân chia ba loại giai cấp và ba loại thu nhập, có vị trí quan trọng
trong lý luận kinh tế của ông và lịch sử các học thuyết kinh tế. nó làm sáng tỏ cơ
cấu giai cấp trong xã hội tư bản, mô tả quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đóng
góp vào sự phát triển khoa học kinh tế. Tuy nhiên, trong lý thuyết bên cạnh những
nội dung khoa học, vẫn còn có những yếu tố hạn chế và thậm chí là sai lầm.
Ông là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng kinh tế loài người đã xây dựng nên
một hệ thống kinh tế chính trị học hoàn chỉnh.
Phương pháp nghiên cứu kinh tế của ông có tính chất hai mặt. Một mặt muốn
tìm tòi nghiên cứu sự liên hệ bên trong của các hiện tượng kinh tế; mặt khác, miêu
tả rõ quan hệ kinh tế từ các hiện tượng kinh tế. Điều đó khiến cho lý luận kinh tế
của ông vừa có nội dung khoa học, vừa có những yếu tố mâu thuẫn, sai lầm và tầm
thường. Ông phê phán quan điểm sai lầm của của chủ nghĩa trọng thương, coi việc
buôn bán với nước ngoài mới là nguồn gốc của của cải, cho rằng mọi của cải đều
là do sản xuất mà có, đồng thời ông đã chuyển trọng tâm nghiên cứu kinh tế từ
lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Ông đã khắc phục được quan điểm
phiến diện của chủ nghĩa trọng nông, cho rằng chỉ có nông nghiệp mới sáng tạo ra
của cải. Lần đầu tiên ụng đó trình bày một cách có hệ thống nguyờn lớ cơ bản của
lý luận giá trị lao động, đã phân chia thành lao động giản đơn và lao động phức
tạp, nghiên cứu giá cả tự nhiên - tức quan hệ giữa giá trị và giá cả thị trường, đã
phân tích tác dụng của quy luật giá trị. Ông phân chia xã hội tư bản chủ nghĩa
thành ba giai cấp rõ rệt: Giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, và giai cõp địa chủ,
đồng thời nghiên cứu ba loại thu nhập của ba giai cấp: tiền lương, lợi nhuận và địa

tô. Ông cho rằng lợi nhuận và địa tô là một loại khấu trừ giá trị do lao động tạo
nên. Đỡều đú đó vạch ra ở một mức độ nhất định nguồn gốc sự đối lập lợi ích kinh
tế xã hội tư bản chủ nghĩa.ễng đó thuyết minh rõ ý nghĩa của sự hợp tác phân công
đối với việc tăng năng suất lao động, và trình bày rõ tác dụng của tư bản và tích
lũy tư bản đối với sự tăng trưởng kinh tế. Tất cả những điều đó là đóng góp của
ông vào khoa học kinh tế.
Do quan điểm giai cấp tư sản và tính hai mặt của phương pháp nghiên cứu,
nên đã dẫn đến những yếu tố sai lầm và tầm thường trong lý luận kinh tế của ông.
Chủ yếu biểu hiện ở chỗ: về lý luận giá trị, một mặt ông cho rằng giá trị hàng hóa
quýết định bởi lao động đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa, mặt khác cho rằng giá
trị là do lao động mua được qua trao đổi quyết định; và ụng cũn cho rằng giá trị là
do tiền lương, lợi nhuận và địa tô hợp thành. Về lý luận phân phối ông trình bày
tiền là “giỏ cả của lao động”, lợi nhuận là “thự lao của tự nhiờn”. Ông có đóng
góp rất lớn cho khoa học kinh tế, có vị trí quan trọng trong lich sử, có ảnh hưởng
lâu dài và sâu sắc đối với sự phát triển của khoa học kinh tế sau này.
 Lý luận lợi nhuận của Adam Smith:
Adam Smith cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của
lao động, không chỉ lao động trong nông nghiệp mà cả trong cụng nghiợ̀p cũng tạo
ra lợi nhuận. Lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của
XH. Ông thừa nhận sự đối lập của tiến công là lợi nhuận. Ông nhìn thấy sự cạnh
tranh giữa các ngành và thường xuyên thì tỷ xuất lợi nhuận giảm sút. Theo ông, tư
bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp. Ngoài ra, ông cũng cho rằng
tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như tư bản trong lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra
lợi nhuận như nhau. Theo cách giải thích của Adam Smith thì lợi nhuận địa tô lợi
tức chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư. Nhận xét:
- Không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Ông cho
rằng toàn bộ lợi nhuọ̃n là do tư bản đẻ ra.
- Do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nờn ụng cho rằng
tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều đem lại lợi nhuận như
nhau.

- ễng coi lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho
việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản. Lợi nhuận là một trong những
nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. Một tiến
bộ của Adam Smith là nêu được nguồn gốc thật sự của giá trị thặng dư sinh ra từ
lao động.
Khi ruộng đất trở thành sở hữu tư nhân thì địa tô chỉ là khoản khấu trừ thứ
nhất vào sản . Độc quyền tư hữu sản phẩm lao động. Ông coi địa tô như là tiền trả
về việc sử dụng đất đai ruộng đất là điều kiện chiếm hữu địa tô. Quy mô địa tô
nhiều hay ít là kết quả của giá cả sản phẩm, ông coi địa tô là giá cả của độc quyền.
 Ông phân biệt được địa tô và lợi tức do tư bản đầu tư vào đất đai.
Theo cách giải thích của ông thì địa tô là hình thái của giá trị thặng dư. Ông
phân biệt được địa tô chênh lệch do độ màu mỡ đất đai nhưng lại không đi sâu vào
nghiên cứu vấn đề này. Ông chỉ ra mức độ địa tụ trờn mảnh đất, ruộng là do thu
nhập của mảnh đất ruộng đó đem lại và ông chỉ ra rằng địa tô trên những mảnh
ruộng canh tác chủ yếu quyết định địa tô trên ruộng đất trồng cây khác.
 Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận , địa tô của Adam Smith:
Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận, địa tô của ông được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết giá trị - lao động.
Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động. Về mặt
lượng, nó là số dôi ra ngoài tiền lương công nhân và lợi nhuận của tư bản. Về mặt
chất, nó phản ánh quan hệ bóc lột. Tuy nhiên, ụng cũn cho rằng, sở dĩ nông nghiệp
có địa tô, vì lao động nông nghiệp có năng suất cao hơn lao động công nghiệp và
ông phủ nhận địa tô tuyệt đối. Vì theo ông nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối thì vi
phạm quy luật giỏ-trị.
Nếu như địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất, thì lợi nhuận (P) là khoản khấu trừ
thứ hai vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao
động không được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của
lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động đi vay phải trả cho chủ nó để được sở hữu tư
bản. Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ
suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.

Theo ông, khi sở hữu tư bản chủ nghĩa xuất hiện, người công nhân trở thành
lao động làm thuê, thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao
động của họi sản xuất ra nữa, mà chỉ là một bộ phận giá trị đó. Cơ sở tiền lương là
giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và con cái anh ra
để được tiếp tục đưa ra thay thế trên thị trường lao động.
 Quan điểm trả lương của A.Smith:
A.Smith cho rằng, tiền lương là thu nhập của bất kỳ người lao động nào. Nó
là sự bồi hoàn nhờ công lao động. Trong xã hội tư bản tiền lương là thu nhập của
giai cấp công nhân làm thuê. Như vậy, tiền lương là thu nhập có lao động, nó gắn
liền với lao động. Theo ông, trong sản xuất hàng hóa giản đơn cũng có tiền lương,
nó bằng toàn bộ sản phẩm của lao động. Còn trong chủ nghĩa tư bản, tiền lương
cần phải đủ để đảm bảo người công nhân mua phương tiện sống, tồn tại và phải
cao hơn mức đó. Ông cho rằng tiền lương không thể thấp hơn chi phí tối thiểu cho

×