Chống khuẩn, chống mục, vệ sinh
hoàn tất
Nhóm thực hiện :
• Đào Thị Quỳnh Mai 60501612
• Đinh Công Luận 60501589
• Nguyễn Thảo 60502643
I) Giới thiệu :
Hầu hết lịch sử của những phát minh và khám phá khoa học có thể được ghi lại
một cách chính xác, nhưng cũng có những phát minh mất đi theo thời gian . Ví dụ như là
bánh xe, thứ khác là biocide .
Chất chống vi khuẩn đầu tiên là biocide đã được sử dụng để chống nấm, vi khuẩn,
tảo có hại đã được nhận biết đầu tiên cách đây hàng ngàn năm . Các loại nấm lớn thì có
thể ăn được, vi nấm có các loại trông thấy được là mốc và nấm mốc, men thì cần thiết
cho việc lên men và sản xuất rượu vang . Tác dụng độc hại của vi sinh vật lên thức ăn và
quần áo đã được quan sát trong một thời gian dài, ở một thời điểm nào đó con người nhận
ra rằng có thể làm điều gì đó để kiềm hãm và tiêu diệt chúng và dẫn đến phát minh ra
biocide . Did Moses đã khám phá ra một vài thứ có ngăn cản chất mana phát sinh từ quá
trình thối rửa ? Ai đã nhận biết rằng thịt muối có thể ngăn cản quá trình thối rửa ? Ghi
chép quan sát của một thủy thủ rằng dây thừng thu gom nhựa từ mối nối xảm thì có thời
gian sống lâu hơn dây thừng sạch có đúng vậy không ?
Ngày nay biocide là quan trọng trong kỹ thuật hoàn tất vải sợi trong lĩnh vực hoàn
tất chống khuẩn . Chúng bao gồm các chất bảo vệ (chất chống mục và chất bảo quãn) ,
thẩm mỹ (chất chống biến màu) và vệ sinh hoàn tất (điều khiển sự phát triển của mùi và
vi khuẩn) . Nhiều kỹ thuật hoàn tất phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khác nhau, có thể
thực hành, thương mại và thỏa mãn các tiêu chuẩn về môi trường hiện đại .
Như đã biết vi khuẩn được nhận ra đầu tiên và mô tả vào cuối thế kỷ 19 (Anton
van Leeuwenhoek, 1632–1723) và ở giữa thế kỷ 20 . Hiệu ứng vi khuẩn chống lại các
chất hóa học được nhận ra cùng với việc sử dụng chất khử trùng đầu tiên . Khái niệm
này mang đến khả năng bảo vệ vật liệu, 8-hydroxyquinoline đã được bán như là 1 chất
chống vi khuẩn vào năm 1985 và sau đó sử dụng như là biocide trên vật liệu cellelose .
Về phần thực hành , được biết sớm nhất là người đánh cá ở vùng Norway ngâm
lưới trong dung dịch huyền phù của vỏ cây sau đó đem hun khói để sử dụng được lâu hơn
. Đây là dạng chất giống như công nghệ thuộc da và hành động của người đánh cá có liên
quan đến việc chiết tách chất acid thuộc da ( như gallotannic acid, C14H10O9 ), chất này
thì có tác dụng bảo quãn . Trong thời gian gần đây muối đồng naphthen đã được sử dụng
vào cuối thế kỷ 19 và hướng tới thương mại vào năm 1912 . Tuy nhiên nó không được sử
dụng rộng rãi cho đến khi công nghệ sản xuất hàng loạt và xử lý bao cát cho mục đích
quốc phòng xuất hiện ở London và ở những nơi khác . Kể từ sau đó, nhiều dự án phát
triển xuất hiện dẫn đến biocide ngày nay và mở rộng khả năng ứng dụng của chúng .
Hình ảnh nấm mốc phát triển trên sợi
II) Lĩnh vực ứng dụng :
Bất kỳ quá trình hoàn tất nào mà sự kiềm chế và giết chết vi sinh vật thì có thể
được xem như là ‘anti-microbial’ . Tuy nhiên, để thuận lợi người ta chia các loại hoàn tất
thông thường vào 3 nhóm chính :
• Chất chống mục là chất chống khuẩn được áp dụng cuối cùng trong kỹ thuật hoàn
tất cho khả năng bảo vệ vải, ngắn hạn hoặc dài hạn, chống lại sự biến tính vật
lý .Đối với nhựa, thuật ngữ ‘preservation’ cũng được sử dụng, nó thường được
sử dụng khi nói đến khả năng bảo vệ ngắn hạn của vải sợi, hoặc là thiên nhiên
hoặc là tổng hợp, khi có sự xuất hiện của nấm mốc .
• Vệ sinh hoàn tất thì có liên quan đến việc điều khiển của sự nhiễm trùng và các
thuộc tính không mong muốn của vi khuẩn ; một sự phát triển đặc biệt là chống
lại các mạt bụi .
• Hoàn tất thẩm mỹ được dùng để điều khiển phát triển của mùi và ngăn ngừa sự
biến màu .
Một số thuật ngữ kết hợp trong biocide :
• Anti-microbial : là hiệu quả, hóa học hoặc những thứ khác, chống lại sự phát triển
hoặc tiêu hủy vi sinh vật .
• Rotproofing : việc xử lý của vật liệu để ngăn ngừa sự phân hủy gây ra bởi vi
khuẩn hoặc nấm .
• Hygienic : cải thiện sức khỏe hoặc sự sạch sẽ .
• Fungicide, bactericide, biocide : lần lượt là chất có khả năng giết nấm, vi khuẩn,
đời sống sinh vật .
• Fungistat, bacteriostat, biostat : lần lượt là chất có khả năng ngăn cản sự phát triển
của nấm, vi khuẩn, đời sống của vi sinh vật .
• Bacteria (số nhiều) : vi sinh vật đơn bào .
• Fungi : một lĩnh vực chiết tách từ vi khuẩn, thực vật và động vật . Fungi thiếu
chất diệp lục, lá, đúng ra là thân hoặc rễ, nhưng thành tế bào của chúng có chứa
chittin, nó chỉ được tìm thấy trong giới động vật . Fungi sinh sản bằng bào tử .
• Micro fungi : Fungi như là mould (mốc) , mildew (nấm mốc) , men hoặc giống
như vậy, không có dạng vĩ mô giống như là mushroom (nấm) .
• Enzyme : một dạng protein điều chế được bằng thành tế bào sống để tạo ra như là
một xúc tác trong một phản ứng hóa sinh đặc biệt .
• Virus : một thực thể vô cùng nhỏ có khả năng sao chép chỉ với 1 tê bào sống .
• Pathogen : một chất có thể sinh ra bệnh tật .
• Sterilisation : một quá trình có thể giết chết sự sống của vi sinh vật .
• Disinfection : một quá trình phá hủy, hạn chế hoặc loại bỏ vi sinh vật bằng
phương pháp hóa học .
• Antiseptic : hoàn toàn tự do của sự ô nhiễm bằng vi sinh vật, hoặc chất hóa học có
thể đạt tới trạng thái này .
Một vài kỹ thuật hoàn tất có thể đạt được 2 hoặc thậm chí 3 các mục đích nói trên – ví
dụ cotton socks (ngăn ngừa sự thoái hóa, điều khiển nấm mốc ngoài da, hạn chế sự phát
triển của mùi) . Một vài ví dụ về kỹ thuật hoàn tất chống khuẩn được đưa ra ở bảng sau :
Loại hoàn tất Vấn đề phát sinh Lĩnh vực áp dụng
• Bảo vệ vật liệu vải
(chống mục) dài hạn
• Bảo vệ vật liệu vải
ngắn hạn
• Giảm sức kéo căng trong sử
dụng .
• Giảm sức kéo căng trong
quá trình tồn trữ .
• Giảm sức kéo căng
• Lều, vải làm bằng đai, tấm vải bạt .
• Tồn trữ tất cả hàng hóa của
cenllulose .
• Vải, fibres và yarns làm bằng cotton,
visscose, lanh, đay, len, làm ướt giữa
những quá trình này .
• Thẩm mỹ • Mùi
• Sự biến màu
• Sự biến màu, mùi
• Sự biến màu
• Sự biến màu
• Sock, đồ lót
• Màn mưa, màn kiểu con lăn, dụng cụ
làm vườn, màn lót .
• Dự trữ ibres, yarns và fabrics với độ
ẩm cao .
• Dự trữ các sợi không làm bằng
cellulose dưới sự thay đổi của nhiệt độ .
• Tất cả các sợi được thấm ướt giữa
các qua trình .
• Vệ sinh • Thật khó để giặt
• Bụi nhiều
• Nhiễm bẩn
• Bedding, mattresses, tấm thảm .
• Bedding, upholstery, tấm thảm,
mattresses
• Quần áo bảo vệ
Sự xuất hiện của vi khuẩn và nấm mốc quanh chúng ta là bản chất của quy luật tự
nhiên cho sự phân hủy của vật liệu cellulose như cây và gỗ . Cũng giống như vậy, bất kỳ
việc làm vải sợi nào từ cellulose – ví dụ như cotton, viscose, jute, flax, hemp hoặc hỗn
hợp của sợi có thành phần này – có thể bị biến chất dưới những điều kiện thích hợp .
Nhiều nghiên cứu có liên quan đến vi khuẩn phân hủy cenllulose đã được xem xét kỹ .
Tuy nhiên đây vẫn là vấn đề phức tạp, cơ chế của việc phân hủy bẽ gãy mạch vẫn chưa
được hiểu đầy đủ và vẫn tiếp tục nghiên cứu . Các loại sợi thiên nhiên khác và len cũng bị
phân hủy dưới tác động của vi sinh vật mặc dù chậm hơn cotton . Hiện nay có nhiều giả
thiết về sự tấn công của vi sinh vật đối với sợi tổng hợp nhưng nhìn chung các sợi thông
thường – như polypropylene, polyethylene, polyamide, acrylics and polyesters – không là
chủ thể để vi khuẩn tấn công, mặc dù các monomer còn dư có thể là nguồn cung cấp
nguồn carbon cho vi sinh vật . Ngoại trừ trường hợp của sợi polyurethane .
Thông thường là trên chỉ và vải thường có các chất khác có thể cung cấp nguồn
thức ăn cho vi sinh vật ngay cả khi chính bản thân nó không làm được . Nó bao gồm các
chất dầu mở dùng trong quá trình kéo sợi, dầu bôi trơn, finishing aids, rũ hồ và chất độn,
hoàn thành hoặc che phủ dựa trên acrylics, polyvinyl alcohols, plasticised
polyvinylchloride (PVC) và polyurethanes . Cả hai PVC and polyurethanes thường được
mở rộng sử dụng như là một chất phủ trong công nghiệp dệt may . Bản thân PVC thì
không bị tấn công bởi vi sinh vật nhưng các chất nhựa, chất độn, pigment, chất ổn định,
chất bôi trơn là những tác nhân nhạy cảm . Một vài hệ thống trước đây có một số sự bảo
vệ chống lại quá trình phân hủy sinh học bởi vì nó có sử dụng một số kim loại làm chất
ổn định như chì, cadmium nhưng những chất này có ảnh hưởng lớn đến môi trường .
Nhiều loại chất dẻo thì có tính nhạy cảm và dễ biến tính . Quá trình phân hủy sinh học
này trở nên mạnh hơn, làm giảm sức kéo căng thậm chí bẽ gãy mạch của PVC, giống như
là quá trình phai màu và biến đổi cấu trúc của lớp film khi bề mặt thay đổi . Bảng sau sắp
xếp theo trật tự giảm dần sự nhạy cảm của các chất dẻo đối với sự tấn công của vi sinh
vật :
Sự nhạy cảm của các chất dẻo đối với sự tấn công của vi sinh vật .
Sự nhạy cảm cao Sebacates
Epoxidised oils
Polyethers
Glycolates
Adipates
Azelates
Pentaerythritol esters
Phthalates
Phosphates
Chlorinated hydrocarbons
Sự nhạy cảm thấp Citrates
Hầu hết các chất dẻo là ester và một số loại nấm có khả năng phân hủy chúng .
(1) Aspergillus flavus;
(2) Aureobasidium sp;
(3) Fusarium sp;
(4) Mucor sp;
(5) Paecilomyces varioti;
(6) Penicillium sp;
(7) Gliocladium sp. (Trichoderma sp.)
Tuy nhiên một vài loại vi khuẩn có khả năng bị cô lập từ quá trình phân hủy nhựa
dẻo và có một lối suy nghĩ rằng các loại nấm là vật bám đầu tiên, chúng chuyển chất dẻo
sang dạng các chất hữu cơ đơn giản , các chất này thì mới có tác dụng đối với cả vi khuẩn
và nấm . Một số loại vi khuẩn bao gồm :
(1) Achromobacter sp;
(2) Bacillus sp;
(3) Brevibacterium sp;
(4) Nocardia sp;
(5) Pseudomonas sp.
Nhuốm màu hồng thường thấy trên các loại nhựa PVC, PU che phủ lên vải là bởi
vi khuẩn Streptoverticillium waskmanii . Các chất thông thường đòi hỏi phải bảo vệ là áo
mưa, lều, giấy, tấm vải bạc, máng lót ao bể, lót sàn, mái che, chất phủ tường, chất chống
thấm nước và chất bảo vệ quần áo và lớp che nông nghiệp . Với polyurethane, chính bản
thân polymer này có độ nhạy cảm đối với vi sinh vật cao hơn poly ester nên nó dễ bị phân
hủy đối với nhiều loại nấm khác nhau . Nấm có thể sản xuất các enzym từ cellulose, các
enzym này có thể phân hủy các phân tử polyurethan . Chúng bao gồm proteza (có khả
năng tấn công nhóm amin) , esteraza (có khả năng tấn công liên kết urethan và ester) và
ureza (có khả năng tấn công liên kết ure) . Điều này dẫn đến sự cắt các phân tử và kết quả
là trong quá trình cắt lớp film polyurethan không làm gia tăng độ cứng và khối lượng
phân tử giảm rõ rệt . Vấn đề này có thể xuất hiện trong một phạm vi rộng áp dụng bao
gồm bảo vệ quần áo, bọt và vật liệu giấy . Vấn đề nhuốm màu và bốc mùi cũng có thể bắt
nguồn một cách đặc biệt với sự mở rộng cấu trúc của các bọt . Các loại nấm thông thường
liên hệ với các vấn đề này được liệt kê bên dưới và vi khuẩn giông như là Streptomycetes
thì phức tạp :
(1) Aspergillus flavus;
(2) Aspergillus terreus;
(3) Chaetomium globosum;
(4) Cladosporium cladosporioides;
(5) Penicillium pinophilum;
(6) Rhizopus stolonifer;
(7) Gliocladium virens.
Bảo vệ dài hạn là đòi hỏi cho mục đích sử dụng cuối cùng như là lều . Có những
áp dụng khác ở đó thời gian bảo vệ ngắn hạn là cần thiết bất chấp mục đích sử dụng lâu
dài của vật liệu bởi vì vấn đề là ở chỗ mốc luôn tấn công trong suốt quá trình sản xuất .
Dưới điều kiện nóng ẩm nấm và mốc có thể phát triển trong 1 hoặc 2 ngày và nó có thể
làm hư vật liệu hiện tại (giảm sức kéo) , hoặc nhuốm màu ( rất khó hoặc không thể loại
bỏ) và có mùi mốc lên sản phẩm . Theo ước lượng năm 1983 tổng sản lượng thất thoát
(thất thoát trực tiếp, thay thế hoặc giảm giá trị tái sinh) do bị phân hủy sinh học trong nền
công nghiệp len của Mỹ nằm trong khoảng 8 – 10 triệu đôla trên năm . Trong quá trình sử
lý tức thời với biocide cho khả năng bảo vệ ngắn hạn thì được thêm vào đặc biệt nếu như
hàng hóa có giá trị cao – ví dụ như vải mohair .
Một lĩnh vực áp dụng quan trọng khác để chống lại sự tấn công của vi sinh vật là
trong quá trình tồn trữ . Mốc sẽ phát triển khi vải ấm thậm chí phát triển ở nhiệt độ thấp .
Trong những điều kiện khô ráo mốc có thể phát triển ở những nơi định hướng bởi vì độ
ẩm thông thường được giữ lại trên vải và có thể chuyển đổi và tập chung lại dưới sự thay
đổi của nhiệt độ . Các gói hàng chống thấm có thể làm tăng vấn đề này .
Trong suốt quá trình sản xuất vải có thể để lại độ ẩm trong một tuần . Trong điều
kiện ấm mốc có thể phát triển dễ dàng trong suốt giai đoạn này . Lancashire đã trở thành
phân xưởng của người Anh trong ngành công nghiệp bông bởi vì khí hậu ở địa điểm này
phía tây của Pennines có các điều kiện che chắn tốt, duy trì độ ẩm cao hơn trong bông và
giảm việc đứt sợi . Ngày nay một số quy trình sản xuất chỉ đòi hỏi thành phần độ ẩm cao
hơn bình thường có thể lên đến 30% , nhiều loại chỉ - thậm chí là chỉ tổng hợp – thì nấm
mốc có thể phát triển dưới điều kiện này .
Nhuốm màu là vấn đề quan trọng về thẩm mỹ ngay cả khi tính chất vật lý của nó
không thay đổi . Vấn đề này có thể xảy ra bất chấp loại sợi sử dụng, được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực như là áo mưa, dụng cụ làm vườn hoặc lớp che phủ . Lĩnh vực áp dụng sau
cùng là màn chắn cửa sổ và hấp thụ hơi nước . Lớp phủ bụi, dầu gội đầ, xà phòng hoặc
những chất hóa học hoàn thành khác có thể cung cấp dưỡng chất cho nấm và vi khuẩn .
Quần áo gần da có thể tiếp nhận mồ hôi, nó bị suy giảm bởi vi sinh vật sản xuất ra
mùi khó chịu .
Vệ sinh hoàn tất là quan trọng trong nhiều lĩnh vực áp dụng đa dạng ở đó nó là cầ
thiết hoặc điều khiển hoặc ngăn cản sự phát triển của vi sinh vật mặt khác nó có thể tạo ra
hiệu quả không mong muốn như là nhiễm khuẩn chéo . Một lượng hàng hóa vải sợi trong
nhà có thể khó để làm sạch hoặc chỉ làm sạch ngẫu nhiên và trở thành bể chứa cho vi sinh
vật trừ khi quá trình vệ sinh hoàn tất được áp dụng . Có một số loại vi khuẩn không gây
nguy hại (mặc dù chúng có thể liên quan đến mùi không mong muốn) nhưng cũng có
những vi khuẩn gây bệnh, việc điều khiển chúng có thể làm giảm sự nhiễm trùng hoặc
nhiếm khuẩn chéo trong những nơi thông thường và bệnh viện .
Điểm rơi của những vấn đề này dị ứng này về căn bản có tăng trong những năm
gần đây . Vấn đề này dự định sẽ thay đổi trong nền sản xuất hiện đại . Cải thiện sự cách
ly và lắp kính 2 lớp giảm sự chuyển động của không khí . Sự nóng và độ ẩm trong nhà
tạo điều kiện cho sự phát triển của vi sinh vật và bụi bặm . Sự sinh sôi nhanh hơn trong
lớp lót, nóc giả, nhồi bông và tấm thảm . Chất cặn của chúng có chứa thành phần dị ứng
DER P1, nó tương thích cho triệu trứng của 50% người mắc bệnh hen suyển . Thêm vào
đó là 5% dân số ở phía tây mắc một số loại bệnh nấm mốc . Bụi bặm tấp đầu tiên là vào
da . Mọi người cần phải chuyển đi trong những ngày này . Nấm mốc có thể phất triển trên
da và đóng vai trò như chất cung cấp dinh dưỡng cho vi khuẩn .
Sự duy trì những điều kiện vệ sinh hoàn tất tốt và sử dụng biocide có thể giảm căn
bản hoặc hạn chế những vấn đề này . Xử lý chống khuẩn tốt sẽ làm giảm một lượng lớn
bụi bặm và cho sự bảo vệ sản phẩm thực sự thì đòi hỏi phải có một hiệu quả đặc biệt
chống lại bụi . Ở Mỹ và châu Âu một lượng phân xưởng bị cắt giảm bởi Sanitized AG,
Thụy Sỹ và kết hợp lại dưới tên thương mại là Actigard, đáp ứng tính chất này .
III) Phương thức tấn công của vi sinh vật :
Để sống và phát triển, vi sinh vật cần phải có độ ẩm, ấm và nguồn thức ăn . Theo
đó, nếu vi sinh vật thiếu một trong các yếu tố đó hoặc phá hủy hoặc ngăn chặn quá trình
phát triển thì hiệu ứng chống vi sinh vật mới trở nên hữu hiệu . Cho mục đích thực hành,
luôn giữ vật liệu khô hoặc rất lạnh thì có thể làm giảm sự phân hủy của vi sinh vật như bỏ
ở xa mạc hoặc ở cực của trái đất .
Thông thường vi sinh vật tồn tại xung quanh chúng ta, và bay trong không khí,
chúng liên tục rơi vào vải sợi . Nhận được nguồn thức ăn phù hợp chúng sẽ bắt đầu nhân
đôi, và gây ra những tác hại. Các nguồn thức ăn có thể chính là các loại sợi ( ví dụ
cellulose hoặc polyurethanes ) hoặc có một loại hóa chất khác nằm trên vải sợi ( ví dụ
chất dầu hoặc chất bẩn ). Thứ hai là các loại bao gồm các bụi bám từ không khí, mồ hôi,
những chất vết bẩn trên da và chất bã xà phòng. Mức độ chất bẩn khác nhau tùy thuộc
vào môi trường, như sự khác biệt giữa chất bẩn đóng cặn từ dầu mỡ gần khu vực nhà bếp
với bụi tích lũy trong phòng ngủ. Những nguồn thức ăn này có thể ở dạng trực tiếp vi
sinh vật có thể sử dụng được, chẳng hạn nó sẽ tấn cômg đường trong quá trình lên men.
Thông thường vi sinh vât sẽ bẻ gãy những liên kết của các phân tử phức tạp trở thành
dạng mà chúng có thể sử dụng như là thức ăn . Để làm được điều này các vi khuẩn sản
xuất một enzyme đó là biocatalyst. Đó là một chuỗi kết nối điển hình phá vỡ cotton
Thức ăn cho vi khuẩn
Do đó , để ngăn chặn sự phân hủy vải sợi có 4 phương pháp :
1. Giết chết vi khuẩn
2. Ngăn chặn sự tác động của enzyme
3. Thiết lập cái màng chắn ( chẳng hạn như lớp phủ )
4. Thay đổi vật liệu vải ( bề mặt trên hoặc thay đổi toàn bộ )
Chỉ có phương pháp đầu tiên được áp dụng cho trong vệ sinh và thẩm mỹ, trong khi
cả bốn phương pháp nếu áp dụng theo lý thuyết sẽ ngăn chặn được sự hư hỏng của vải sợi
Quá trình tiêu diệt vi khuẩn có thể đạt được với biocide theo một trong hai cách sau :
• Đó có thể là các phản ứng hóa học với màng tế bào, nó làm ngăn chặn quá trình
trao đổi chất . Ví dụ các biocide làm từ bạc và thủy ngân thay thế ion H+ của vi
khuẩn bằng ion kim loại . Một cách lựa chọn biocide có thể xâm nhập qua thành
tế bào tường và giết chết tế bào từ bên trong .
• Một phương pháp tiếp cận thứ hai là ngăn chặn các enzymes phát ra bởi các vi
khuẩn . Điều này thì có sự chú ý đặc biệt . Cơ chế mà nhờ đó các vi khuẩn nhận
sự hiện diện của nguồn thức ăn và sản xuất các enzyme có liên quan vẫn còn
chưa hiểu rõ . Tuy nhiên, nó có thể cho enzyme phá vỡ liên kết của vật liệu thậm
chí khi nó được xử lý bởi biocide . Đây là vấn đề được quan sát thấy ở các lều
vải. Nếu bị vùi trong đất những thứ này cuối cùng rồi cũng sẽ mục bất kể nó
được xử lý như thế nào đi nữa trước khi biocide ra khỏi vải . Những thứ đó liên
quan đặc biệt với việc phá vỡ cellulose nhưng việc kiềm chế những thứ này vẫn
chưa được tiến được tiến hành .
Để ngăn cản sự phát triển của vi sinh vật ta có các cách sau :
• Phương pháp hang rào thay thế đã được sử dụng, nó tiếp xúc trực tiếp với bề mặt
vải sợi chống lại sự phát triển của vi sinh vật . Một ví dụ là sử dụng organo-
Vi khuẩn và cặn bẩn đóng trên vải
Phát triển
Tiết ra enzymes
Phá hủy liên kết đường
Thức ăn cho vi sinh vật
silicon polymer có chứa nhóm amino bậc bốn và hàng rào sinh học trên vải . Quy
trình hóa học bao gồm một phản ứng ngưng tụ và cần có những nhóm hydroxyl
họa động để thành lập các liên kết cố định . Cái này chỉ hoạt động ở sợi
cenllulose và vì thế áp chỉ áp dụng hạn chế (do cellulose có nhóm OH) .
• Phương pháp thứ tư là hiệu chỉnh khả năng phân hủy sinh học của vải sợi . Trong
trường hợp của cenllulose phương pháp này bao gồm sự tương tác hóa học với
một nơi thích hợp trên phân tử để cho phản ứng sinh học được thực hiện bởi vi
sinh vật thông qua enzyme không xảy ra nữa . Ví dụ về việc thực hành này được
biết đến sớm nhất là vào năm 1920 khi Doree khám phá sự chống lại của sợi
acetate cenllulose đối với vi sinh vật . Sự acetyl hóa đầy đủ để tạo thành diacetate
và triacetate một cách hiệu quả để tạo ra những vải sợi mới về căn bản có tính
chất khác cenllulose . Phản ứng acetyl hóa riêng phần vẫn gây ra một vài thất
thoát tính chất vật lý bởi vì dây truyền có giá cao cho việc sản xuất vải chống
mục nên nó chưa được thương mại hóa rộng .
Nói chung để bảo vệ chống lại việc tạo ra nấm mốc, mầm bệnh do vi khuẩn hay sự phá
hủy vẻ thẩm mỹ, ta cần phải xử lý chống vi sinh vật . Đây chỉ là một vài dạng .
IV) Kiểm soát sau khi xử lý :
Các phương pháp phổ biến nhất, linh hoạt và kinh tế cho việc áp dụng kỹ thuật
hoàn tất chống khuẩn là ngâm nhuộm, tận trích hoặc phun lên vải trong quá trình hoàn
tất. Có rất nhiều loại sản phẩm được sử dụng phụ thuộc vào các yêu cầu của kỹ thuật
hoàn tất . Để đạt được độ bền tốt các sản phẩm chống khuẩn không được bay hơi và
không tan và nó tồn tại trong điều kiện thời tiết nắng mưa hoặc trong quá trình giặt . Tuy
nhiên, các chất chống vi khuẩn phát ra từ vải phải có một tỉ lệ đủ lớn để giết hoặc hạn chế
sự phát triển của vi sinh vật . Vì vậy, tác động kiểm soát cơ chế phát sinh là cần thiết
bằng các phản ứng hóa học hay vật lý đối với vải . Một loại đặc biệt nhưng không được
sử dụng rộng rãi, ví dụ việc kiểm soát cơ chế phát sinh bằng hóa học là thay đổi tính chất
của sợi poly(vinyl alcohol) với 5-nitrofurylacrolein trong sự có mặt của xúc tác acid để
tạo thành acetal. Các loại sợi này theo Letilan phản ứng một cách chậm chạp dưới điều
kiện ẩm ướt để phát sinh ra các hợp chất nito và cho khả năng chống khuẩn . Một ví dụ
khác là quá trình Permox, trong đó có kiểm soát phát sinh kẽm và peroxide sau các lần
giặt rửa . Kiểm soát việc phát sinh bằng vật lý có thể đạt được, mặc dù không có phương
pháp thương mại nào là còn hoạt động cả, bởi quá trình micro-encapsulation.
micro-encapsulation
Micro-encapsulation là quá trình bọc ngoài các hạt nhỏ hay các mẫu nhỏ của các chất
lỏng hoặc rắn bằng cách che phủ bên một lớp polymer .
Các biocide được bọc trong các lớp phim plastic thông qua đó nó điều khiển được số
lượng sinh ra của chất diệt khuẩn . Khi giặt rửa để loại bỏ biocide từ lớp film plastic nó
được thay thế từ chất bao quanh .
Nhiều loại biocide đã được áp dụng đối với nhiều dạng hoàn tất khác nhau ví dụ
fluorocarbon . Như kỹ thuật hoàn tất chống thấm cho khả năng điều khiển phát sinh chất
chống khuẩn bằng cách giảm độ ẩm ngoài của vải và đó điều khiển sự phát sinh biocide .
Nhiều loại biocide phổ biến đã được thảo luận một cách riêng lẻ . Việc thêm một
số xử lý bên ngoài đã được xác minh ở mức độ phòng thí nghiệm, nó đưa ra khả năng
hoàn tất chống khuẩn đến nhiều loại như vải và sợi, nhưng bởi vì chẳng có áp dụng hạn
chế nào đã được giới thiệu một cách thương mại cả .
V) Xử lý sợi
Sợi tổng hợp có thể được xử lý trong suốt quá trình sản xuất để làm cho nó có khả
năng chống vi sinh vật . Tính chất này thường được truyền cho bằng cách cho một chất
biocide vào dung dịch polymer trước khi đánh sợi . Đây là một lĩnh vực tiềm năng cho
khả năng tồn tại lâu bền của biocide bởi vì biocide được phân bố khắp trên sợi và nó tồn
tại rất lâu trong quá trình giặt rửa . Sự bão dưỡng phải được thực hiện trong sự lựa chọn
biocide để đảm bảo rằng, khi có sự tương thích, nó không có phản ứng với sợi, bằng cách
trung hòa chính nó, hoặc hiệu chỉnh tính chất của sợi đến mức không thể chấp nhận
được . Nó phải chống lại các quá trình có nhiệt độ cao, phải qua được spinning bath,
nhưng không làm bẩn spin bath, không tác động bất lợi cho việc nhuộm và hoàn thành
nhuộm tiếp theo và không tác động đến chính nó bởi có nhiều quá trình như thế .
VI) Các vật liệu cần được bảo vệ :
Như đã được đề cập đến ở phần trên, bông, len, đay, cây gai, hoặc các nguồn vật
liệu cellulose khác và hỗn hợp các loại nguyên vật liệu này với các sợi khác có thể bị thay
đổi đặc tính vật lý bởi sự tấn công của vi khuẩn, làm phá vỡ cấu trúc xơ sợi, làm giảm độ
bền kéo đứt, và cuối cùng làm hư hỏng sản phẩm. Sự suy giảm tính chất hay biến tính
phụ thuộc vào loại vải sử dụng, cấu trúc của nguyên vật liệu hay các loại gỗ, các hóa chất
bảo quản xử lý, và cuối cùng phụ thuộc vào cách sử dụng và điều kiện khí hậu. Đặc biệt
quan trọng là dưới những điều kiện rất lạnh hoặc rất khô sự suy giảm tính chất rất nhỏ,
nhưng khi có độ ẩm và nhiệt độ thì thì sự suy giảm hay biến tính xảy ra rất nhanh. Các
thử nghiệm trên những túi đất chưa xử lý cho thấy họ có thể kéo dài đến 6 tuần ở Dutch
East Indies ( nơi mà mực nước mưa khoảng 10 inches mỗi năm ) nhưng chỉ tồn tại 11
ngày ở New Orleans vào tháng 9, một khoảng thời gian với một vùng khí hậu nhiệt đới.
Chúng ta có thể tin rằng có cách tốt nhất để khắc phục sự phân húy của vải sợi
bằng việc sử dụng các nguồn nguyên liệu khác mà không bị vi sinh vật phân hủy. Điều
này xảy ra trong một số khu vực, chẳng hạn nhiều loại dây thừng được làm từ
polypropylene hoặc nylon thay vì những dây gai truyền thống. Tuy nhiên trong nhiều tính
huống các tính chất đòi hỏi trong quá trình hoàn tất vải chỉ có thể đạt được bằng cách sử
dụng sợi cellulose . Vải cotton sử dụng làm lều, khi khô, chúng ta mong nó có khả năng
chống thấm nước cao. Tuy nhiên khi cotton trở nên ẩm ướt nó phồng lên, thì sự thấm
nước trở lên khó khăn. Đây là một trong những lý do tại sao, cotton được sử dụng làm
lều, khi kéo căng loại vải sợi này có khả năng chống thấm nước . Những bao đựng cát
làm từ sợi đay thì có thể xếp chồng một cách dễ dàng nhưng những loại bao làm từ sợi
nhân tạo khi xếp chồng rất dễ bị trơn trượt. Trong một số lĩnh vực quân sự, loại này
chống gây ra tiếng ồn, nguy cơ tiếng ồn có thể tạo ra tia lửa điện. Đây là nguyên nhân mà
sợi cotton hay cenllulose được yêu thích hơn sợi nhân tạo.
Trong lĩnh vực quần áo, sự thoải mái là nhân tố quan trọng. Cotton và viscose vì
chúng có khả năng thoát ẩm cao và sự thấm hút nước cao nên chúng được ưa chuộng ở
những vùng có khí hậu ấm áp
Cuối cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn xơ sợi và
vải sợi. Thay đổi trong giá dầu, những thất bại hay thành công của cây bông vải và yêu
cầu kinh tế của địa phương có thể thay đổi việc cung cấp và nhu cầu về các loại sợi khác
nhau. Nhưng với những loại sợi thiên nhiên và sợi cellulose dựa trên 100% nguồn thu
hồi , cũng ảnh hưởng đến thị trường dệt trên thế giới. Chính những ứng dụng của xơ sợi,
biocide vẫn được tiếp tục sử dụng để chống lại phân hủy của vải sợi, và đảm bảo chất
lượng xơ sợi .
VII) Những ứng dụng thực tiễn của biocides
Những tính chất của biocide lý tưởng:
1. Có tác dụng rộng
2. Có tác dụng làm bền sản phẩm
3. Không độc với người ở nồng độ khi sử dụng
4. Không màu, không mùi
5. Giá cả phù hợp, đặt hiệu quả khi sử dụng ở nồng độ thấp
6. Bền với ánh sáng, thời tiết, không bị ảnh hưởng bởi quá trìn khử
7. Không ảnh hưởng đến dụng cụ thiết bị và tính chất vật lý của vải sợi
8. Phù hợp ngay cả với những chất kỵ nước, chất nhuộm, và những cả hóa chất dệt
khác
9. Không thúc đẩy hay là chất xúc tác cho quá trình phụ
10. Thích hợp khi sử dụng những máy dệt tiêu chuẩn
11. Chịu được những điều kiện gia công chế biến và nhiệt độ
12. Không gây ô nhiễm môi trường
Tuy nhiên, không có loại biocides nào thõa mãn hết những tính chất trên. Một vài
biocides chống lại vi khuẩn rất hiệu quả nhưng lại ít hiệu quả với nấm mốc có khi còn có
tác dụng ngược lại, thúc đẩy sự phát triển của nấm mốc. Mội vài loại khác chỉ đưa ra hiệu
quả chống lại vi khuẩn Gram position so với vi khuẩn Gram negative. Một vài ví dụ để so
sánh nồng độ biocides khi sử dụng để chống lại vi khuẩn, nấm mốc và men được ghi ở
bảng 10.4. Từ đó, chúng ta nhận thấy rằng khi sử dụng hơn một loại hợp chất hoạt động
trong công thức thành lập biocides có thể chống lại hiệu quả nhiều loại vi khuẩn cùng lúc
mà không cần phải sử dụng với lượng thừa biocides.
Nồng độ cho phép của một vài biocide
Do yêu cầu biocides phải bền, nên chúng không được bay hơi. Một vài quá trình
hoàn tất, có bao gồm những công thức formaldehyde và với khối lượng nhỏ tồn tại trên
vải sợi cũng có khả năng chống lại vi khuẩn hiệu quả. Tuy nhiên, điều này không phải lúc
nào cũng đúng vì chúng có khả năng bay hơi. Khi áp dụng, độ bền của biocides có thể
được cải tiến khi liên kết biocides với chất kết dính hoặc chất keo.
Vệ sinh hoàn tất được áp dụng đối với vải và hàng hóa liên kết trực tiếp với da .
Đó là yếu tố cần thiết cho nên hoàn tất sinh học và xử lý hàng hóa phải là an toàn để vận
chuyển và sử dụng và hoàn toàn không độc và kích ứng da . Nếu là các sản phẩm được sử
dụng một cách thường xuyên bởi cá nhân, quá trình hoàn tất phải không nhạy cảm cũng
như là không kích ứng da . Pháp luật hiện hành quy định an toàn sử dụng và cho khả
năng giới hạn phơi sáng lớn nhất và tiêu chuẩn chiếu sáng cho một dãy rộng các chất hóa
học trong đó có một vài biocide . Thời kỳ dùng dung môi gây hại được ứng dụng trong
lĩnh vực vải sợi đã qua .
Nhiều loại biocide cũ hơn cho màu khi xử lý vật liệu . Thí dụ, các hợp chất đồng
hữu cơ cho màu xanh hoặc màu vàng xanh . Loại này thì có thể chấp nhận trong một số
lĩnh vực ví dụ như lều . Một vài loại biocide gây mùi trên vải đây là điều không thể được
chấp nhận mặc dù nó vô hại .
Việc thêm một lượng nhỏ chất hoàn tất hóa học thì không có ảnh hưởng lớn đến
tính chất khác hay quá trình khác nên việc biocide ở mức độ thấp là điều cần tiến tới . Chi
phí tham gia của việc hoàn tất phải hợp lý trong chi phí để xử lý một kg vải và chi phí
vận hành .
Nhiều quá trình xử lý vải sợi với biocide sẽ được sử dụng trong những trường hợp
mà vật liệu tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, khử hóa và phong hóa ví dụ như lều và vải bạt.
Vệ sinh hoàn tất có thể áp dụng cho các sản phẩm tẩy rửa hoặc làm sạch khô . Nhiều loại
biocide sử dụng phải chịu được dưới những điều kiện này và giữ lại hiệu quả của nó
trong một khoảng thời gian .
Mặc dù không quan trọng với kỹ thuật dệt may, việc sử dụng nhiều loại vải khác
nhau là rất quan trọng và theo đó việc thêm biocide trở nên không ảnh hưởng đến chúng
hoặc những tính chất vật lý khác .
Biocide thường được sử dụng trong sự liên kết với các quá trình hoàn tất khác và
nó phải phù hợp với chúng . Công việc áp dụng đầu tiên cho việc bảo vệ là che phủ
urethane bằng pentachlorophenyllaurate (PCPL) . Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cái
này tác động trở lại hệ thống PU khử không hoàn toàn biocide . Nhiều loại biocide thì ít
tan trong nước vì thế nó được sử dụng như dung môi hoặc chất nhũ hóa . Một vài chất
nhũ hóa có tính ẩm ướt nên nó không phù hợp cho việc sử dụng với fluorocarbon hoặc
quá trình hoàn tất kỵ nước . Một vài loại nhựa có thể được sử dụng để cho độ bền tốt hơn
để có thể liên kết với biocide, không kích hoạt nó . Một vài loại biocide hoạt động ở pH
khá nhạy cảm, methylene bis thiocyanate (MBT) bị thủy phân dần dần trong dung dịch .
Một nửa thời gian tồn tại của nó ở pH bằng 5 là 30 ngày và ở pH bằng 9 là ít hơn 3 giờ .
Biocide phải có khả năng áp dụng được đối với các thiết bị tiêu chuẩn trong dệt
may . Thông thường hoàn tất biocide được thêm vào trong quá trình tận trích (áp dụng
cho các sản phẩm hoàn tất như là hàng dệt kim) hoặc sử dụng một cái bơm để bơm vào
(xử lý giày dép) . Mặc dù có một vài quy trình hoàn tất sử dụng các thiết bị đặc biêt – ví
dụ như xử lý Proban – nó chỉ có thể thương mại thấy được nếu như số lượng vải xử lý lớn
và thích hợp . Có một số lượng lớn các chất biocide cho kết quả tốt trong phòng thí
nghiệm nhưng nó vẫn chưa phát triển lên quuy mô công nghiệp .
Ngoài ra, biocides phải có khả năng chịu dựng được quá trình gia công . Nếu
biocides ở dạng nhũ tương thì phải bền với quá trình nhiệt và phải có khả năng chịu được
nhiệt độ sấy đến 180 hoặc 190
0
C phụ thuộc vào loại vải sợi đang được xử lý .
Xem xét những phương pháp đòi hỏi bên trên đó là xu hướng của những năm gần
đây và vẫn còn tiếp tục hướng đến các biocide phức tạp . Quá trình chống mục cũ bao
gồm sử dụng hợp chất đồng không hòa tan trong nước (độc nhưng có hiệu quả chống
được nhiều loại vi sinh vật), hòa tan những chất này trong dung môi có hại (không còn
được chấp nhận), nhồi lên vải, làm khô (thoát ra một lượng lớn chất hữu cơ nếu ở thời
điểm bây giờ đã trái luật), tháo các chất còn lại trong bể xuống cống (bây giờ bị cấm) .
Ngày nay biocide thì tốt hơn nhiều nó là hỗn hợp của nhiều chất hoạt động ổn
định ở dạng nhũ tương trong pha nước, nó có thể nạp thông thường lên vải và làm khô
mà không sinh ra các hợp chất bốc hơi gây hại, nước thải phải được xử lý đáng kể trước
khi thải ra môi trường bên ngoài .
Thay đổi trong biocides được minh họa rất tốt bằng cách so sánh phiên bản khác
nhau của BS 2087: phương pháp xử lý bảo quãn vải sợi . Phiên bản 1981 liệt kê 11 sản
phẩm (trừ hóa chất mothproofing) theo loại A và ba theo loại B. Tiêu chuẩn 1992 chỉ có
xóa 3 sản phẩm loại A (chrome tinting, salicylanilide and tar oils), nhưng có sự hạn chế
với phần còn lại . Chỉ có ba loại có thể sử dụng được trên vải trắng (naphthenate kẽm,
PCPL và dichlorophen). Trong số này, PCPL là bị cấm trên vải sợi trong một vài quốc
gia, chẳng hạn như Đức, và là một sản phẩm thuộc danh sách đỏ, có nghĩa là không có
ảnh hưởng của nước chứa nó có thể được thải ra . Dichlorophen không được khuyến cáo
cho may và đồ trang trí . Còn ở lớp B, tributyl tin oxide (TBTO) và pentachlorophenol
(PCP), đã bị xóa và 2 - (thiocyanomethylthio) benzothiazole (TCMTB), kẽm-2-
pyridinthiol-N-oxide (kẽm pyrion), và dichlorophen pha trộn với ester đã được thêm vào.
Chỉ với một vài biocides là đáp ứng được BS 2087, có một đề nghị để đánh giá biocides
dựa trên cơ sở các nhu cầu và các mục đích để tạo ra BS 2087 Phần 3, mà sẽ tập trung
vào việc đánh giá phương pháp xử lý bảo quãn vải sợi có quan hệ với giói hạn các thuộc
tính . Điều này sẽ cho phép xác định nhiều loại biocide hoặc sự kết hợp của các biocides
để sử dụng một cách đầy đủ chúng đáp ứng được những nhu cầu cần thiết .
VIII) Các biocide hiện đại :
Ngày nay, những loại biocides mới và những hãn chế trong hóa chất được sử
dụng rộng rãi hơn . Xu hướng chung là sử dụng các hợp chất hữu cơ . Tuy nhiên việc sử
dụng bạc – hay nói chính xác hơn là ion bạc . Điện tích dương của ion bạc được sử dụng
trên chất mang gốm thủy tinh . Mặc dù đắc nhưng biocide loại này vẫn thích hợp ở mức
độ độc thấp và khả năng thích ứng nhiệt cao . Các loại biocide được trình bày trong bảng
sau :
Các chất biocide hiện đại điển hình
Tên Mô tả
2,4,4’-tricloro-2’-hydroxy-diphenyl ether
Triclosan Được xem là khá an toàn khi tiếp
xúc với da,nên được dùng cho vải
sợi
2,2’-dihydroxy-5,5’-dicloro-diphenyl methane Có hiệu quả chống khuẩn tốt,có
khản ăng phân hủy sinh học tốt
Diclorophen
Có nhiếu ứng dụng ,nhưng lại
không được khuyên dùng cho sự
tiếp xúc với da
Isothiozolone ,vi dụ:
1,2 –bezisothiazolin-3-one(BIT)
2-n-octyl-4-isothiazolin-3-one(octhilinone)
Có ứng dụng rộng , dùng được
cho vải sợi
5-chloro-2-methyl-4-isothiazolin-3-one
Orto phenyl phenol
Poly hexa methylne biguanide(PHMB)
N trung bình là 12
Cấu trúc phân tử này giúp tạo liên
kết với cellulose và tạo độ bền tốt.
IX) Phương pháp kiểm tra :
Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của vải sợi thì khó và phức tạp hơn các phương pháp
kiểm tra khác.
Có 4 phương pháp kiểm tra lớp phủ chống khuẩn của vải sợi :
Phương pháp kiểm tra đĩa agar
Quy trình Mẫu được đưa vào đĩa đã chứa sẵn vi sinh
vật,(hoặc vi sinh vật được cấy vào )ủ trong
18-24h ( vi sinh vật ) , hoặc lên tới 4 tuần
(nấm mốc)
Có thể dùng agar giàu dinh dưỡng hoặc
agar khoáng
Tiến hành Quan sát
Thuận lợi Tương đố nhanh,dùng được cho vi khuẩn ,
nấm mốc hoặc kết hợp cả 2
Bất lợi Vùng ức chế rộng có thể là do hiệu quả
kháng khuẩn cao hoặc là do tốc độ khuếch
tán
Độ tin cậy Tốt ( trung bình 4 mẫu )
Phương pháp vùi trong đất
Quy trình Phương pháp kiểm tra khắc nghiệt
nhất,mẫu được vùi trong 28 ngày ( lâu hơn
nếu vật liệu có lớp phủ)
Tiến hành Kiểm tra sự giảm độ bền kéo hoặc sự giảm
trọng lượng
Bất lợi Lâu , tốn thới gian , đắt tiền
Độ tin cậy
( Trung bình 9/10 mẫu ) ± 10%
Phương pháp kiểm tra không khí bão hòa
Quy trình Có hiệu quả cho nấm mốc và men.mẫu
được phun xịt huyền phù bào tử nấm , tưới
nước 14 ngày . Độ ẩm nhỏ nhất là 90% ,
sinh vật muốn phát triển phải lấy nguồn
carbon từ vật liệu thí nghiệm
Tiến hành Kiểm định bằng mắt ( bao gồm dùng kính
hiển vi )
Bất lợi Thới gian ủ nhiệt lâu
Độ tin cậy
±10%
Phương pháp đếm
Quy trình Mẫu được tiêm vi sinh vật,cho tiếp xúc ở 0,
6 ,12 , 18 , 24 h ở 37
0
C . Sinh vật sau đó
được chiết ra và đếm
Tiến hành Số đơn vị tập đoàn hình thành (cfu) sau 24h
được đếm và so sánh với con số tại thời
điểm 0
Thuận lợi Khá nhanh
Bất lợi Chỉ phù hợp cho vi khuẩn , khá tiêu tốn
thời gian và tiền bạc
Độ tin cậy
( Trung bình 6 mẫu ) ±30-40%
a) Phương pháp đĩa agar:
Ở phương pháp này: gel giàu dinh dưỡng chứa các vi sinh vật được rót vào đĩa . Khi
tiến hành thí nghiệm , nhúng một mảnh sợi cần kiểm tra khả năng kháng khuẩn lên bề
mặt gel và đưa cả đĩa vào ủ nhiệt ở môi trường thích hợp cho sự phát triển của vi sinh vật
( có thể thay thế bằng cách phun xịt chất cấy ( chứa vi sinh vật ) lên mẫu vật thí nghiệm
đã được đặt trên đĩa agar.)
Điều kiện môi trường là:
-18 - 24 h ở 37
0
C cho vi khuẩn
- nấm mốc là 3 -14 ngày ở 24
0
C
-hoặc lên tới 4 tuần cho sợi phủ lớp vật liệu PVC.
Ở cuối giai đoạn ủ nhiệt, mẫu được đi kiểm định bằng phương pháp trực quan hay
performance loss( phân tích sự tổn thất về hiệu suất)
Ở phương pháp trực quan , thường là so sánh sự phát triển tự nhiên của vi sinh vật trên
đĩa và trên mẫu vật thí nghiệm. Ở vật mẫu , có sụ giảm mức độ phát triển hay là không có
sự phát triển của vi sinh vật. Cũng có thể tồn tại môi trường ức chế xung quanh mẫu vật
khi mà chất chống lại sự phát triển của vi sinh vật đã khuếch tán vào trong gel và ngăn
cản sự phát triển của vi sinh vật. Vùng ức chế rộng là điều không mong muốn vì điều đó
thể hiện rằng vật mẫu đã quá tải chất chống khuẩn ,hoặc chất chống khuẩn khuếch tán
nhanh và dễ dàng vào trong gel nên độ bền của mẫu vật là không tốt.
Việc kiểm tra phải được lập lại ít nhất 4 lần và phải cẩn thận sự nhiễm bẩn, đầu độc do
vi khuẩn và mốc ở bên ngoài.
Phương pháp đĩa agar là phương pháp khá kinh tế và nhanh để kiểm định mẫu, phương
pháp khá linh hoạt và điều kiện có thể thay đổi :
-có thể dùng vi khuẩn , nấm mốc hoặc kết hợp cả 2 loại
-sự thay đổi rộng về loại vải sợi , có hay không có lớp phủ, loại cellulose hay non-
cellulose
-agar muối khoáng có thể thay thế để nguồn carbon là vật liệu duy nhất được thí
nghiệm, khi đó sự phát triển của vi sinh vật sẽ thể hiện bằng sự suy giảm nguồn carbon.
-1 lượng lớn mẫu có thể được tiến hành để dễ so sánh
b) Phương pháp vùi trong đất:
Phương pháp kiểm tra khắc nghiệt nhất. Áp dụng cho các sản phẩm tiếp xúc trực tiếp
với đất như : vải lều. vải dù ,vải làm sandbag. Vật liệu được chôn trong lớp đất đã được
chuẩn bị , chọn trong 7, 14, 21, 28 ngày ( hoặc lâu hơn cho vật liệu có lớp phủ ) . Sau khi
chôn , đi kiểm tra sự giảm độ bền kéo.
Tiêu chuẩn kiểm tra đòi hỏi lên đến 20 mẫu , nên phương pháp này khá tốn thời gian
,công sức và tiền bạc.
Có những sự thay đổ không thể trành được khi tiến hành thí nghiệm là: dạng đất , độ
ẩm , pH, dạng vi sinh vật
c) Phương pháp kiểm tra không khí bão hòa:
Phương pháp thích hợp cho kiểm tra các vật liệu tiếp xúc trực tiếp với vi sinh vật trong
không khí , không tiếp xúc với đất. Mẫu vật được chứa trong chai, sau đó phun xịt huyền
phù của 1 loại hay hỗn hợp bào tử nấm mốc, sau đó đem ủ tối thiểu 14 ngày ở 28
0
C
Phương pháp này dễ dàng và kinh tế nhưng kém chính xác hơn phương pháp đĩa agar
d) Phương pháp kiểm tra bằng cách đếm
Các phương pháp kiểm tra nói trên là định tính hoặc bán định lượng. Ngược lại, count
test là phương pháp định lượng dù ứng dụng còn hạn chế.
Phương pháp đếm bao gồm việc tiêm vào mẫu phần kiểm tra để nuôi cấy vi khuẩn
chứa khoảng 10
4
-10
6
Cfu/ml. quá trinh chiết được thực hiện từ thời điểm bắt đầu đến lúc
hình thành số lượng Cfu hiện tại, sau đó sẽ đếm từng giai đoạn 6h , 12h ,18h, 24h của quá
trình nuôi cấy , tốc độ phát triển được xác định. Kiểm soát mẫu sẽ chỉ ra được sự gia tăng
số lượng lớn của Cfu sau khi cấy ( cho đến khi qua trình cảm ứng và sự tăng trưởng đạt
ổn định ), biocide không hoạt động cũng cho thấy sử tăng trưởng. Nếu giá trị Cfu tăng
giảm không đáng kể sau khi cấy thì tác nhân chống khuẩn là tác nhân kìm hãm vi khuẩn,
ngược lại nếu giá trị Cfu giảm đáng kể thì tác nhân là tác nhân diệt vi khuẩn . Điều này
được minh họa ở Figure 10.2
Phương pháp đếm chỉ thích hợp cho việc kiểm tra vệ sinh phần cuối và không thể sử
dụng đối với nấm, phương pháp này đòi hỏi khắt khe ít nhất trong 4 phương pháp đã nêu,
cần nhiều thời gian để đếm cụ thể, và tốn kém.
Có một số hạn chế trong phương pháp này . Để cho kết quả có giá trị thì biocide phải
có khả năng ngâm chiết dễ dàng trong môi trường nước , không thich hợp cho vải có lớp
phủ hay là những vải có các ứng dụng khác trên nó , ví dụ như flourocarbon ( dây vô
hình ) . Biocide cũng phụ thuộc vào cấu trúc ( vật lý và sợi ) của vải , cũng như phụ thuộc
các yếu tố khác như vết bẩn , vi khuẩn có thể ẩn trong vải , vây nên biocide xuất hiện để
vô hiệu vi khuẩn trong 1 thời gian
Mẫu được ước lượng vi sinh trước và sau nhiều giai đoạn khác nhau như giặt hay
ngâm chiết để kiểm tra đọ bền màu, nung nóng đẻ đảm bảo sự bền nhiệt, phơi dưới hồ
quang carbon hay ánh sáng xenon để đánh giá sự suy biến quang học , và kiểm tra khả
năng chịu đựng với thời tiết. Những bộ phận của thiết bị cho phếp mẩu phơi dưới ánh
sáng ( UVA hay UVB ) , sự hút nước , hay phun nước, và nhiều sự bố trí , tổ hợp , chu
trình khác nhau.
X) Xu hướng tương lai :
Tuy nhiên trong tương lai , một điều chắc chắn là sẽ lại có những thay đổi tiến
bộ , và biocide cũng sẽ như vậy . Biocidal Products Directive - BPD đang có một tác
động lớn lao đến ngành công nghiệp . BPD thành lập ngày 20/05/1999 và gần như hoàn
thiện tổ chức vào 20/05/2001 , nhưng điều này chưa xảy ra ở một số nước như Pháp và
Đức . BPD yêu cầu mỗi sản phẩm biocidal trong thực tế phải trải qua quá trình kiểm
duyệt đầy đủ về rủi ro ( lượng mất mát có thể và khả năng xảy ra mất mát đó ) .
Dữ liệu cần thêm cho mỗi sản phẩm tùy chọn vào người sử dụng . Ví dụ như bất kỳ
biocide nào sử dụng cho bảo quản gỗ sẽ cần giữ liệu đầy đủ về môi trường . Một chất diệt
vi bào ( vi khuẩn,nấm,kí sinh ) dùng cho vải , hàng dệt sẽ cần thêm những dữ liệu an toàn
riêng về vấn đề này . Đối với những nhà sản xuất biocide với số lượng nhỏ thì giá thành
phát sinh từ dữ liệu cần thêm sẽ khiến giá những sản phẩm của công ty mất tính cạnh
tranh . Những dữ liệu về hiệu ứng cấp ( hiệu ứng phụ gây ra bởi sản phẩm,cấp tính ,
thường xảy ra trong vòng 24h và khoảng 14 ngày sau khi dùng chất đó ) thì tương đối rẻ
nhưng những tác dụng thứ cấp phụ và những nghiên cứu trong thời gian dài thì rất đắt
tiền . Đó là bởi vì số lượng biocide được sản xuất trong tương lai sẽ bị cắt giảm và sản
phẩm mới được tung ra thị trường sẽ có giá thành cao hơn . Avecia đã thu hồi lại sản
phẩm Densil ( 2,3,5,6 - tetrachloro - 4 - ( methylsulphony l ) pyridine ) bởi những lí do kể
trên . Sự phát triển trong tương lai có thể sẽ là biocide được bọc ở kích cỡ micromét .
Tiềm năng của sản phẩm này là rất đáng kể nếu chiến lược và kinh tế đề ra đúng đắn và
thực hiện được . Lợi ích đạt được bao gồm sự bền vững và an toàn hơn . Quá trình tìm
kiếm những phương pháp thử ít tốn kém hơn vẫn sẽ tiếp tục . British Textile Technology
Group ( Hiệp hội công nghệ dệt Anh ) đã đề xuất công ngệ dò tìm những vi bào trên sợi
dệt bằng sự phát quang của ATP những năm cuối thập kỷ 80 . Bây giờ ta hoàn toàn có thể
ước lượng được sự phản triển của vi bào thông qua Firefly Bioluminescent Detection hay
là phương pháp phân tích adenosine triphosphate ( ATP ) . Phương pháp này nhanh hơn
rất nhiều so với phương pháp lấy mẫu truyền thống để lên tấm thạch và chờ vi bào phát
triển . Những phương pháp dùng để kiểm tra tiêu chuẩn cũng sẽ được phát triển . Ở châu
Âu , có hội nghị CEN/TC189/WG5 “Xác định khả năng chống lại vi bào của sợi dệt”
Tài liệu tham khảo :
Textile finishing Edited by Derek Heywood Textile and chemical, Sacola Associate UK
Talking rot and mildew by Paul F Hamlyn Published in the December 1998 issue of
NWFG Newsletter (ISSN 1465-8054)