Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của mộc nhĩ đen (auricularia – judae) trên một số phế thải nông nghiệp tại mai sơn – sơn la năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.53 KB, 38 trang )


1
MỞ ĐẦU 4
 4
 5
 6
 6
  6
 6
 6
 6
NỘI DUNG 9
 9
 9
 9
 9
1.2.  9
1.2.1.  10
1.2.2.  10
1.2.2.1 Xử lý nguyên liệu 10
1.2.2.2 Chuẩn bị túi nilon 10

2
 11
 12
1.2.2.5 Thu hoạch, sơ chế và bảo quản 13
1.2.2.6 Một số loại bệnh và cách phòng trừ 13
 14
 14
 15
2.3. Tình hình  20


2.5. Nội dung nghiên cứu 21
 21
 21
 21
 21
 21
 22
 24

  24
3.1.1 Ảnh hưởng của giá thể đến thời gian sinh trưởng của mộc nhĩ 24

3
3.1.2 Ảnh hưởng của tỷ lệ phối trộn nguyên liệu đến tốc độ phát triển sợi mộc nhĩ
26
4.1.3 Ảnh hưởng của tỷ lệ phối trộn nguyên liệu đến động thái tăng trưởng chiều
dài cụm Mộc nhĩ đen. 27
3.1.4 Ảnh hưởng của tỷ lệ phối trộn nguyên liệu đến động thái tăng trưởng
đường kính mũ mộc nhĩ đen. 29
3.1.5 Ảnh hưởng của giá thể đến các loại sâu hại chính trên mộc nhĩ 30
 31
3.2.1 Ảnh hưởng của tỷ lệ phối trộn nguyên liệu đến khối lượng của cụm mộc
nhĩ 31
3.2.2 Ảnh hưởng của giá thể đến năng suất thực thu của mộc nhĩ 32
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 33
5. 33
 34
MỘT SỐ HÌNH ẢNH KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37



4


Nấm ăn bao gồm nhiều loại như: nấm Rơm, nấm Sò, nấm Mỡ, nấm Linh Chi, nấm
Hương, Mộc Nhĩ (Auricularia auricula-judae),…Nấm ăn là món ăn quý không chỉ vì
thơm ngon mà còn có nhiều giá trị dinh dưỡng, giá trị về mặt y học, giá trị về mặt kinh
tế
Việc trồng nấm trong đó có mộc nhĩ (mộc nhĩ) có thể thực hiện thuận lợi trong
điều kiện Việt Nam nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng, đặc biệt là tỉnh
Sơn La. Tỉnh Sơn La có diện tích trồng ngô rất lớn, sau khi thu hoạch xong ngô là bà
con chặt thân cây ngô rồi đốt ngay tại nương hoặc làm chất đốt để đun nấu, sưởi ấm, còn
lõi cây ngô sau khi tẽ hạt xong bà con cho vào bếp đốt. Mà lõi ngô là nguyên liệu thích
hợp để trồng mộc nhĩ sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Không chỉ có lõi ngô mà còn rất
nhiều các phụ phẩm nông nghiệp khác như rơm rạ, bông thải có thể làm nguyên liệu để
trồng mộc nhĩ cũng không được sử dụng nhiều mà còn để hoang phí trở thành rác làm
ô nhiễm môi trường.
Hiện nay việc trồng mộc nhĩ được nhiều địa phương quan tâm và phát triển. Tuy
nhiên ở Sơn La trồng mộc nhĩ vẫn còn ở mức độ nhỏ lẻ, manh mún chưa có sự đầu tư.
Việc nuôi trồng mộc nhĩ chủ yếu phát triển trên nền cơ chất tự nhiên mà không bổ sung
thêm các chất dinh dưỡng hữu cơ khác. Do vậy sản phẩm thu được thường không đạt
nhu cầu như mong muốn chẳng hạn: cụm nhỏ, đường kính mũ nấm nhỏ, tốc độ sinh
trưởng chậm làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm không cao…
Để nghiên cứu việc nuôi trồng Mộc nhĩ trên một số phế thải nông nghiệp khác
nhau, bổ sung một số chất dinh dưỡng khác nhau ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng
Mộc nhĩ là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu
“Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của mộc nhĩ đen
(Auricularia auricula-judae) trên một số phế thải nông nghiệp tại Mai Sơn - Sơn La năm
2014”


5

Không chỉ Việt Nam mà ở các nước trên thế giới việc nghiên cứu nấm ăn cũng
phát triển mạnh mẽ, nhiều công trình nghiên cứu và phát triển với quy mô lớn đã được
hình thành. Đặc biệt là Trung Quốc một nước có nghề trồng nấm phát triển rất mạnh:
vào những năm 50 của thế kỷ XX, các trường ĐH sư phạm và trường ĐH Nông Nghiệp
đi đầu điều tra nghiên cứu nguyên chủng nấm và kỹ thuật trồng nấm mộc nhĩ; những
năm 60 sau khi thành lập, viện nghiên cứu nấm Tam Ninh đi sâu nghiên cứu phân lập
thuần chủng và kỹ thuật nuôi cấy nấm Hương, Mộc Nhĩ trắng, Phục Ninh, nấm Rơm:
vào những năm 90 phát triển toàn diện và tập trung quy mô nghiên cứu về sinh vật, di
truyền học phòng trừ sâu bệnh hại và chế biến dược phẩm từ nấm.
Ở Việt Nam những năm trước nghề trồng nấm còn rất mới mẻ, phong trào sản
xuất Mộc nhĩ trong những năm 1988 – 1992 mới được mở rộng đến các tỉnh phía
Bắc.Với khí hậu Việt Nam, đặc biệt các tỉnh phía nam có thể trồng mộc nhĩ quanh năm.
Tuy nhiên, hiện nay, ở một số tháng, như từ tháng 2 đến tháng 6, năng suất nấm giảm và
dễ phát sinh bệnh, nên người trồng thường tránh các tháng này để khỏi bị thiệt hại. Như
vậy, thật sự mộc nhĩ bắt đầu vào vụ (nuôi trồng nhiều), chỉ từ khoảng tháng 8 đến tháng
2 năm sau.
Vùng phát triển mộc nhĩ mạnh và tương đối ổn định là Long Khánh tỉnh Đồng
Nai, với sản lượng trung bình 1000 - 200 tấn nấm khô/năm. Ở TP. Hồ chí Minh, có
nhiều huyện trồng nấm mộc nhĩ tương đối lâu và phong trào khá mạnh, như: Hóoc Môn,
Thủ Đức, Củ Chi sản lượng khoảng 100 - 150 tấn nấm khô/năm. Ngoài ra, các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long cũng đang phát triển mạnh việc nuôi trồng mộc nhĩ, như Cần
Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang, Trà Vinh , sản lượng đạt khoảng 100 tấn
nấm khô/ năm. Như vậy, nếu tính cả số nấm nuôi trồng rãi rác ở các tỉnh khác của phía
Nam, bao gồm một vài tỉnh miền Trung, thì tổng sản lượng mộc nhĩ nuôi trồng hiện nay
khoảng 1500 tấn nấm khô/năm (so với tổng sản lượng nấm trên thế giới chiếm khoảng
11%).

6


- Xác định được giá thể phù hợp để trồng mộc nhĩ đen đạt chất lượng cao.
- Xây dựng được quy trình sản xuất mộc nhĩ đen đạt năng suất cao cung cấp cho
người tiêu dùng.
- Kết quả nghiên cứu đề tài nhằm bổ sung thêm những tài liệu khoa học về kỹ
thuật trồng mộc nhĩ sạch trong công tác giảng dạy, nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất của
địa phương và góp phần tăng năng suất và hiệu quả kinh tế cho người sản xuất mộc nhĩ
đen.

- Nghiên cứu ảnh hưởng của các giá thể khác nhau đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất của mộc nhĩ đen tại Mai Sơn – Sơn La năm 2014.

Bố trí thí nghiệm theo kiểu ngẫu nhiên với 1 giống Mộc nhĩ đen trên 3 công thức khác
nhau. Bố trí thí nghiệm mỗi công thức 3 lần nhắc lại.
- Công thức 1( với tỷ lệ phối trộn nguyên liệu): Mạt cưa 100kg, vôi bột 2kg.
- Công thức 2( với tỷ lệ phối trộn nguyên liệu): Mạt cưa 80kg, bột lõi ngô 20kg,
vôi bột 2kg.
- Công thức 3( với tỷ lệ phối trộn nguyên liệu):Mạt cưa 60kg, bột lõi ngô 40 kg,
vôi bột 2kg.
* Phương pháp xử lý số liệu.
Xử lý bằng phần mềm Microsoft Exel, IRRISTAT.

- Mộc nhĩ đen.
- Mùn cưa và bột lõi ngô.
7
Tại Chiềng Ban – Mai Sơn – Sơn La từ ngày 10/3/2014 – 15/3/2015
8

7



1.1. Đặc điểm thực vật học
1.1.1. Đặc tính hình thể
1.1. Đặc điểm thực vật học
1.1.1. Đặc tính hình thể
1.1.2. Đặc tính vi cơ cấu dưới kính hiển vi
1.2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc mộc nhĩ
1.2.1. Thời vụ trồng mộc nhĩ
1.2.2.1 Xử lý nguyên liệu
1.2.2.Kỹ thuật trồng mộc nhĩ trên mùn cưa
1.2.2.2 Chuẩn bị túi nilông
1.2.2.4 Chăm sóc và thu hái
1.2.2.5 Thu hoạch, sơ chế và bảo quản
1.2.2.6 Một số loại bệnh và cách phòng trừ

2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất trên thế giới.
2.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất trong nước.
2.4. Tình hình sản xuất Mộc nhĩ ở Sơn La.
2.6. Nội dung nghiên cứu
2.7. Phương pháp nghiên cứu
2.7.1 Vật liệu, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.7.2 Nội dung nghiên cứu.
2.7.3 Phương pháp nghiên cứu
2.7.3.1. Bố trí thí nghiệm.
2.7.3.2 Các chỉ tiêu theo dõi
2.7.3.3 Phương pháp xử lý số liệu

8

9 


STT









(1)

(3)
(4)
(5)
1.
- Chuẩn bị đề cương
và bảo vệ đề cương
Tìm hiểu, tổng
hợp các vấn đề
cần nghiên cứu
Tháng 2 / 2014
Vũ Thị Ngọc Ánh
2.
- Thiết kế thí nghiệm
, chăm sóc, thu thập
số liệu thí nghiệm
- Chuẩn bị
nguyên liệu cấy

giống.
- Giống cấy.
- Thiết kế ô thí
nghiệm theo mục
đích nghiên cứu.
Tháng 3 – 10 /
2014
Vũ Thị Ngọc Ánh,
Nguyễn Thị Thanh
3.
- Hoàn thiện số liệu
và viết báo cáo

Tháng 10 –
Tháng 12
/2014
Vũ Thị Ngọc Ánh,
Nguyễn Thị Thanh
4.
- Nộp báo cáo và
bảo vệ đề tài

Tháng 2 - 5/
2015
Vũ Thị Ngọc Ánh,
Nguyễn Thị Thanh







9


1.1. 
1.1.1. 
Thân của mộc nhĩ (Auricularia auricula-judae) có hình dạng đặc trưng, như một
cái vành tai mềm, dai, mặc dù cơ quan có dạng một cái chén. Bình thường bám dính bởi
một bộ phận như cuống ngắn, nhưng cũng có thể là một gốc thân thô sơ. Mộc nhĩ, cứng,
nhờn, có kết cấu đàn hồi khi còn tươi, nhưng khi khô trở nên giòn, cứng dễ vỡ. [1]
Mặt trên của mộc nhĩ bóng sáng, màu nâu đỏ với những điểm ửng màu tím nhạt,
thường có những lông nhỏ mịn, màu xám. Có thể mịn ở những mẩu mộc nhĩ còn non,
hoặc dợn sóng hay có những nếp nhăn. Màu sắc thay đổi theo tuổi. Mặt dưới màu xám
nâu nhạt hơn. Đôi khi còn có những nếp gấp và nếp nhăn, và những đường gân nổi lên,
làm cho mộc nhĩ xuất hiện nhiều tai kết hợp thành chùm.[1]
1.1.2. 
Những bào tử (spores) của mộc nhĩ (Auricularia auricula-judae) dài và có dạng
như hình bán nguyệt kích thước thay đổi khoảng 16 đến 18 µm dài, dày khoảng 6 đến 8
µm. Bào tử máu trắng ngà hay màu trắng nhạt và trong suốt, những bào tử có thể đôi khi
nhỉn thấy một khối màu trắng nhạt ở mặt dưới tai mộc nhĩ. Cơ quan sinh sản kéo dài
hình trụ với 3 vùng ngăn vách ngang ( màng ngăn bên trong chia khuẩn ty thành đốt )
như những sợi lông trên thân trái ( tai mộc nhĩ ) khoảng 85 đến 100 mm chiều dài và 5
đến 6 um đường kính. Những khuẩn ty trong suốt, không sợi ở trung tâm và những điểm
tròn. Những khuẩn ty không phát triển thành búi dày đặc. [3]
Những bào tử được phát tán ở mặt dưới của thân mộc nhĩ với một số lượng lớn tính trăm
triệu trong nhiều giờ, và tỉ lệ cao vẫn tiếp tục đáng kể khi cơ quan nấm sấy khô.
Ngay khi mộc nhĩ mất đi 90% trọng lượng vì mất nước, mộc nhĩ vẫn tiếp tục phóng
thích một số lượng nhỏ bào tử. [1]
1.2. 


10
Mộc nhĩ có thể trồng trên nhiều loại giá thể khác nhau, tuy nhiên phổ biến nhất là
trên mùn cưa và trên thân cây gỗ.
1.2.1. 
Mộc nhĩ ưa khí hậu nóng ẩm, vì vậy việc trồng mộc nhĩ đúng thời vụ là rất quan
trọng. Đối với các tỉnh phía Nam không có mùa đông nên có thể trồng mộc nhĩ quanh
năm. Riêng vùng cao nguyên Nam Trung Bộ thì nên thực hiện như miền Bắc. [4]
Ở miền Bắc việc trồng mộc nhĩ thường bắt đầu vào cuối tháng 4 dương lịch, tháng
5 ủ sợi. Từ tháng 6 trở đi mộc nhĩ bắt đầu được thu hái kéo dài tới tận tháng 10 dương
lịch, nếu mộc nhĩ còn ít có thể thu hái nốt vào đầu tháng 11. Từ giữa tháng 11 trở đi,
thời tiết bắt đầu se lạnh, không thích hợp cho mộc nhĩ phát triển. [4]
1.2.2. 
1.2.2.1 Xử lý nguyên liệu
Sử dụng các loại mùn cưa từ cây bồ đề, cao su, gòn, gáo, sung…không sử dụng
mùn cưa bị mốc hoặc mùn cưa của những cây có tinh dầu. Mùn cưa thu gom xong đem
phơi ngay cho khô ráo và thoáng tránh bị mốc. [5]
Khi bắt đầu trồng phải làm ướt mùn cưa bằng nước nước vôi 1- 2% có pha thêm
chế phẩm “Vườn Sinh Thái” và đường saccarose còn gọi là đường mía (cứ 10 lít nước
hòa với 100 - 200g vôi bột cộng thêm 5ml chế phẩm Vườn Sinh Thái và 100g đường
mía ngoài ra có thể bổ sung thêm 50 – 100g đạm Ure). Lưu ý chỉ nâng độ ẩm giá thể lên
65 -70% là tối đa. Thông thường cứ 10 kg giá thể mùn cưa khô trộn với 6 lít dung dịch
đã pha theo tỷ lệ trên là vừa. [2]
Sau khi đã trộn ẩm, vun mùn cưa lại và ủ thành đống, mỗi đống khoảng 1 tạ trở
lên. Duới đáy đống ủ nên lót một lớp vật liệu dễ thoát nước (dát tre, nứa, cót). Thời gian
ủ từ 30 - 45 ngày. Sau khi ủ 15 - 20 ngày đảo đống ủ cho đều làm như vậy tạo điều kiện
thông thoáng để các vi sinh vật hảo khí hoạt động mạnh và phân hủy nhanh Cellulose,
sau đó tiếp tục vun lại và ủ cho hết thời gian mới đưa vào túi nilon. [2]
1.2.2.2 Chuẩn bị túi nilon


11
*Chuẩn bị túi nilon
Chọn túi nilon chịu nhiệt vì còn phải trải qua công đoạn hấp giá thể để khử trùng,
kích thước túi có thể là:
- Loại 20 x 37cm chứa được 1,3 – 1,5kg giá thể.
- Loại 25 x 40cm chứa được 1,5 – 1,8kg giá thể.
- Loại 25 x 50cm chứa được 2,5 – 3,0kg giá thể.
Mỗi túi nilon cần phải tạo cổ bịch, có thể dùng bìa cáctong cuộn tròn, ống trúc cắt
ngắn hoặc ống nhựa có đường kính 3 – 5cm và cao khoảng 2 – 3cm. Cho mùn cưa vào
dần, vào đến đâu dồn chặt đến đấy. Lưu ý phải để túi căng đều, không dồn mùn cưa vào
đầy tràn mà để chừa phía trên 1 đoạn 5 – 7cm về phía miệng túi để luồn cổ bịch, sau đó
túm đầu túi nilong và cho luồn qua cổ bịch, bẻ quặt xuống để cổ bịch nằm giữa 2 lớp
nilong. Sau đó dùng dây chun buộc chặt cổ bịch, lấy bông không thấm nước vê tròn
thành nút và nút chặt vào cổ bịch, lấy giấy báo chùm lên và nút buộc lại. [2]
*Khử trùng:
Các túi nilon sau khi cho giá thể được hấp cách thủy trong thời gian 4 – 5 giờ,
nâng nhiệt độ lên 120 – 125
o
C trong vòng 90 phút, nếu không có nồi hấp chuyên dùng
có thể hấp bằng thùng phuy dung tích 200 lít trở lên. Dưới đáy thùng lót 1 lớp gỗ để đun
cách thủy. Sàn gỗ xếp cách đáy khoảng 20cm, dưới đó đổ 1 lớp nước cao 15cm, xếp các
bịch mùn cưa vào tạo thành các lớp chồng lên nhau. Có thể được 80 – 90 bịch/thùng. [2]

Sau khi hấp xong, để nguội và dỡ bịch ra. Giữ bịch ở bên ngoài 3 – 4 ngày cho
nguội hẳn rồi mới cấy giống. Giống thường được nhân bằng cọng sắn (thân cây sắn
được cắt khúc và chẻ nhỏ, hấp vô trùng sau đó cấy giống mộc nhĩ vào), giống được
đựng trong các lọ thủy tinh hoặc túi nilon buộc kín. [7]
Tháo nút ở các bịch mùn cưa và lấy một thanh cây sắn đã nhiễm giống mộc nhĩ và
ấn sâu vào giữa bịch mùn cưa. Sau đó nút lại bằng nút bông và buộc giấy báo chùm ra
ngoài. Công việc cấy giống phải tiến hành thật nhanh và trong điều kiện vô trùng tránh


12
sự xâm hại của các loại nấm gây hại. Sau đó xếp các bịch đã cấy giống vào giá thể hoặc
xỏ thành xâu treo lên. [7]
Chỗ để bịch phải sạch sẽ thông thoáng, nhiệt độ thích hợp 25 – 32
o
C. Thời gian ủ
sợi kéo dài 20 – 25 ngày. Sau thời gian này các sợi nấm sẽ mọc loang dần ra cả bịch
mùn cưa. Sợi nấm mọc đến đâu thì trắng đến đấy. Khi nào thấy cả bịch mùn cưa trắng
như bông thì lúc đó kết thúc giai đoạn ủ sợi. [2]

Bào tử quả (cánh mộc nhĩ) ưa điều kiện hiếu khí để phát triển. Vì vậy dùng dao
sắc rạch xung quanh quanh bịch 4 - 5 vết, mỗi vết dài 4 – 5cm. Lưu ý khi rạch chỉ rạch
túi chứ không rạch sâu vào cơ chất (giá thể) của bịch nilong, nên rạch theo đường thẳng
đứng hoặc theo đường xoắn ốc quanh bịch. [2]
Sau khi rạch khoảng 1 tuần mộc nhĩ sẽ mọc ra chi chít tại các điểm rạch. Lúc này
cần tiến hành phun ẩm liên tục trong nhiều ngày. [2]
Dùng 5ml chế phẩm Vườn Sinh Thái pha với 10 - 15 lít nước sạch, dùng bình
bơm chuyên dùng phun duới dạng sương mù. Chú ý việc phun nước có pha chế phẩm
Vườn Sinh Thái chỉ phun 1 lần/ngày và 3 - 5 ngày phun đều 1 lượt vào lúc thời tiết mát
mẻ. Số lần còn lại phun nước sạch, số lần phun tùy vào điều kiện thời tiết và khả năng
sinh trưởng của mộc nhĩ. Về nguyên tắc nếu trời nắng nóng thì mộc nhĩ mọc ra nhiều,
lúc đó cần tưới thường xuyên hơn, và độ ẩm không khí ở khu vực này luôn giữ ở mức 80
– 95%, độ ẩm giá thể 60 – 65% là tốt nhất.
Nhìn chung khi thấy cánh mộc nhĩ khô nước là lại tiếp tục phun ngay, không được
mở miệng túi nilon để tưới nước vào bên trong, làm như vậy sẽ gây lên hiện tượng sũng
nước và thối sợi mộc nhĩ. [2]
Ánh sáng khu vực để bịch mộc nhĩ phải là ánh sáng tán xạ tuy nhiên cũng không
nên để tối quá, lượng ánh sáng vừa đủ nhìn thấy mộc nhĩ để hái, cường độ ánh sáng cao
sẽ làm nấm kém phát triển. Độ thoáng của không khí vừa phải, tránh để gió lùa mạnh sẽ

làm sợi mộc nhĩ mau héo. [7]

13
Nấm mọc khá nhanh, nếu làm bịch tốt quá trình thu hoạch có thể kéo dài 2 – 3
tháng. Chú ý sau mỗi đợt thu hái ngừng tưới vài ngày. Làm như vậy thì khi tưới ẩm trở
lại mộc nhĩ sẽ mọc ra to hơn. [6]
1.2.2.5 Thu hoạch, sơ chế và bảo quản
Mộc nhĩ sau khi thu hoạch nên rửa sạch bằng nhiều nước rồi đem phơi khô, sau
đó nên ngâm mộc nhĩ qua đêm với một ít vỏ quýt, vỏ cam rồi vớt phơi khô, làm như vậy
sẽ thu được mộc nhĩ có màu nâu hồng hấp dẫn và không bị đen. [6]
Khi thấy bịch nấm nhẹ tênh, tức là nấm đã ra hết, dỡ bịch ra, trộn bã còn lại với
phân làm phân bón cho cây trồng sẽ rất tốt. Sau mỗi chu kỳ trồng mọc nhĩ nên làm vệ
sinh cả khu vực. [6]
1.2.2.6 Một số loại bệnh và cách phòng trừ
Trong quá trình trồng mộc nhĩ trên mùn cưa thường xuất hiện một số loại bệnh
như nấm mốc xanh, mốc vàng hoa cau, mốc đen. Các loại mốc này phát triển đồng thời
với sợi nấm. Chúng có thể lấn át và làm chết hoàn toàn sợi nấm. Nấm mực cũng có thể
xuất hiện. Chúng có nón nấm nhỏ 1 – 2cm và màu đen, cọng nấm dài, màu trắng mọc
ngay trong túi nilong và cạnh tranh chất dinh dưỡng với mộc nhĩ. [11]
Nguyên nhân dẫn đến các bệnh nói trên là do khâu xử lý nguyên liệu (không đủ
thời gian hấp). Mùn cưa khi thu về bị nhiễm các loại nấm, mốc chúng sẽ cùng sinh sống
và cạnh tranh với mộc nhĩ được cấy vào. Ngoài ra nếu độ ẩm trong túi quá cao cũng sẽ
kích thích bệnh phát triển. [11]
Vì vậy để phòng trống các loại bệnh trên cần hết sức coi trọng khâu xử lý nguyên
liệu. Khi hấp cần đảm bảo đủ thời gian và nhiệt độ đã quy định. Nhà xưởng phải được
vệ sinh thường xuyên và giữ cho thoáng mát sau mỗi đợt nuôi trồng. Nếu thấy bịch nào
xuất hiện bệnh biện pháp tốt nhất là loại ra hoặc cách ly. [11]





14

2.1
Tình hình nghiên cứu nấm ăn trên thế giới cũng phát triển mạnh mẽ, nhiều công
trình nghiên cứu và phát triển với quy mô lớn đã được hình thành. Đặc biệt là Trung
Quốc - một nước có nghề trồng nấm phát triển mạnh mẽ: vào những năm 50 của thế kỷ
XX, các trường ĐH sư phạm và trường ĐH Nông Nghiệp đi đầu điều tra nghiên cứu
nguyên chủng nấm và kỹ thuật trồng nấm Rơm; vào những năm 60 sau khi thành lập,
viện nghiên cứu nấm Tam Ninh đi sâu nghiên cứu phân lập thuần chủng và kỹ thuật nuôi
cấy nấm Hương, Mộc Nhĩ trắng, Phục Ninh, nấm Rơm: vào những năm 90 phát triển
toàn diện và tập trung quy mô nghiên cứu về sinh vật, di truyền học phòng trừ sâu bệnh
hại và chế biến dược phẩm từ nấm. [2]
Năm 1990 tổng sản lượng nấm ăn toàn thế giới là 3 763 000 tấn, Nhưng Mộc nhĩ
chiếm số lượng rất nhỏ khoảng 93 000 tấn. Năm 1994, tổng sản lượng nấm thế giới lên 4
909 000 tấn, trong đó: Mộc nhĩ đen 84 600 tấn, mộc Nhĩ trắng là 156 200 tấn. Các nước
sản xuất Mộc nhĩ chủ yếu năm 1994 là Trung Quốc có 85 000 tấn; Nhật Bản 10 tấn;
Pháp 18 500 tấn; Inđônêxia 1880 tấn….
Khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu trồng nấm theo phương pháp công nghiệp là chính.
Những nhà máy sản xuất nấm có công suất từ 200 – 1000 tấn/ năm được cơ giới hoá cao
từ khâu xử lý nguyên liệu đến thu hái chế biến do máy móc thực hiện, họ không còn
thực hiện sản xuất thủ công như ở nước ta. Năng suất Mộc nhĩ trung bình của các nước
này đạt từ 40 – 60% so với nguyên liệu ban đầu . [2]
Khu vực Châu Á (Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc…) triển khai sản
xuất nấm theo mô hình vừa và nhỏ. Nghề trồng nấm của khu vực này cũng phát triển
mạnh mẽ; Một số loại nấm ăn được nuôi trồng khá phổ biến đó là nấm Hương, nấm Sò,
Mộc Nhĩ, nấm Mỡ. Đặc biệt là Trung Quốc nghề trồng nấm đã thực sự đi vào từng hộ
nông dân; sản lượng Mộc nhĩ, nấm Mỡ, nấm Hương của Trung Quốc lớn nhât thế giới,
Trung Quốc được coi là nước sản xuất và xuất khẩu với sản lượng lớn nhất; năm 1995


15
sản lượng của Trung Quốc là 3 000 000 tấn, chiếm 60% tổng sản lượng thế giới, riêng
Phúc Kiến đã có 800 000 tấn (chiếm 26,67% cả nước; 6,4% cả thế giới). [8]
Thị trường tiêu thụ nấm ăn lớn nhất hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và các
nước Châu Âu… Tổng sản lượng nấm ăn trên thị trường thế giới vào khoảng 20 triệu tấn
sản phẩm/năm và đang có xu hướng tăng. Mức tiêu thụ nấm bình quân tính theo đầu
người của Châu Âu, Mỹ khoảng 2 – 3 kg/ năm; Nhật, Đức khoảng 4 – 5 kg/ năm. Dự
kiến mức tiêu thụ này trong tương lai sẽ tăng với tốc độ 3,5%/năm. Trên thị trường Châu
Âu mộc Nhĩ chiếm khoảng 10% thị phần. Thị trường Mỹ trong thập niên 80 của thế kỷ
XX, tiêu thụ khoảng 20% tổng sản lượng Mộc nhĩ của thị trường thế giới. [1]
Nước xuất khẩu nấm nhiều nhất trên thế giới hiện nay là Trung Quốc với khoảng
1,5 triệu tấn sản phẩm/năm; các loại sản phẩm nấm như Mộc Nhĩ, nấm Hương, nấm
Rơm…có giá bán dao động trong khoảng 1700-6500 USD/ tấn. Mỗi năm, Phúc Kiến
xuất sang Mỹ 3000 - 6000 tấn Mộc nhĩ khô và bán sang Nhật 1 000 – 3 000 tấn Mộc nhĩ
khô, trị giá 15 triệu USD. [1]
2.2. Tình hình 
Vấn đề nghiên cứu và sản xuất nấm ăn ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm 70
của thế kỉ XX với những mốc đáng ghi nhận như:
Năm 1984 thành lập trung tâm nghiên cứu nấm ăn tại trường đại học tổng hợp Hà
Nội.
Năm 1985 tổ chức FAO tài trợ UBND thành phố Hà Nội thành lập trung tâm sản
xuất nấm Thương Mại – Hà Nội (sau đó đổi tên thành công ty sản xuất giống, chế biến
và xuất khẩu nấm Hà Nội).
Năm 1986 được tổ chức FAO tài trợ UBND thành phố Hồ Chí Minh thành lập xí
nghiệp nấm thành phố Hồ Chí Minh. Cũng trong năm này một số đơn vị sản xuất nấm
khác cũng được thành lập như: Công ty nấm Thanh Bình (Thái Bình); xí nghiệp nấm
(Tổng công ty rau quả Việt NAM – VEGETEXCO), các công ty liên doanh sản xuất và
chế biến nấm ở Cần Thơ, Đà Lạt. [10]

16

Năm 1992 – 1993 công ty nấm Hà Nội nhập thiết bị chế biến nấm và “nhà trồng
nấm công nghiệp” của Italia. Trong đó thanh phố Hà Nội, Unimex Quảng Ninh, các tỉnh
như: Hà Nam Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Bắc, Thanh Hoá, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Tây…
Đã đầu tư nhiều tỉ đồng cho nghiên cứu và sản xuất nấm ăn. Phong trào sản xuất nấm
Mỡ trong những năm 1988 – 1992 đã mở rộng đến hầu hết các tỉnh phía Bắc. Vì vậy sản
lượng nấm đã tăng từ khoảng 30 tấn/năm (1988) lên 250 000 tấn/ năm vào năm 1993.
Tuy nhiên do sản xuất thua lỗ, nhiều cơ sở bị giải thể và nhiều lí do khác mà phong trào
trồng nấm tạm lắng xuống. Đến năm 1996 sản lượng nấm ăn lại quay trở về điểm xuất
phát của năm 1989 là 50 000 tấn/ năm. [10]
Đến nay nghề trồng nấm cũng đang dần được khôi phục và phát triển mạnh mẽ
thể hiện ở các mặt sau:
- Về giống nấm: Nước ta có khả năng phát triển rất nhiều các chủng loại nấm khác
nhau giống như ở Trung Quốc và các nước trong khu vực song hiện nay đang tập trung
triển khai 6 loại nấm chính đó là: nấm Rơm , nấm Sò. Mộc Nhĩ, nấm Mỡ, nấm Hương ,
nấm dược liệu Linh Chi. Mặc dù các loại nấm này có thể trồng được quanh năm, ở nhiều
nơi trong cả nước nhưng ở các tỉnh phiá Nam chủ yếu trồng nấm Rơm, mộc Nhĩ, nấm
Linh Chi; còn các tỉnh phía Bắc sản xuất nám Mỡ, nấm Sò, nấm Hương (chịu nhiệt độ
lạnh), nấm Rơm, Mộc Nhĩ (chịu nhiệt độ nóng) và nấm Linh Chi. [9]
Giống nấm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với người sản xuất nấm. Nếu sử
dụng các giống nấm được nghiên cứu và tuyển chọn kĩ, có chất lượng cao thì năng suất
nuôi trồng cao, hiệu quả kinh tế cao; ngược lại nếu sử dụng các giống kém chất lượng,
chưa được tuyển chọn kĩ thì năng suất nấm sẽ không cao. Mặc dù vậy hiện nay vẫn chưa
có nhiều cơ quan chuyên môn sản xuất các giống nấm và công nghệ làm giống nấm, nếu
có cũng chỉ hoạt động đơn lẻ và tự phát; một số cá nhân lợi dụng tình hình thiếu kiểm
soát này đã đưa vào thị trường các giống nấm kém chất lượng, giống chưa được tuyển
chọn gây thiệt hại cho người sản xuất. [9]

17
Có một số trung tâm sản xuất nấm có uy tín như viện di truyền Nông Nghiệp. Sở
khoa học và công nghệ Hoà Bình, công ty xuất nhập khẩu nấm (Sơn La), xí nghiệp nấm

Toàn Thắng (Bắc Giang), trung tâm công nghệ sinh học ứng dụng – Đại học quốc gia
Hà Nội, khoa sinh học - Đaị học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Các giống nấm đã và đang được nuôi trồng ở Việt Nam từ nhiều nguồn giống
khác nhau, một số giống nấm nhập từ Hà Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Italia, Nhật Bản.
Một số khác thì được sưu tầm trong nước. [7]
- Về sản lượng: Sau những nỗ lực, cố gắng của một số cơ quan trong nước cùng
với sự hợp tác giúp đỡ của các tổ chức trong và ngoài nước, cũng như sự mở rộng thị
trường, nghề sản xuất nấm dần được khôi phục, tổng sản lượng nấm các loại được sản
xuất ở nước ta hiện nay vào khoảng 100 000 tấn/năm. Trong đó xếp theo thứ tự giảm
dần giữa các loại nấm là: Nấm Rơm, Mộc Nhĩ, nấm Sò, nấm Mỡ, Linh Chi và nấm
Hương.
- Về năng suất: Năng suất tính theo nguyên liệu các loại nấm khác nhau thì tương
đối khác nhau. Nấm Sò có năng suất cao nhất đạt trung bình 700 kg nấm tươi/ 1000kg
nguyên liệu khô; sau đó là Mộc Nhĩ (600 kg); nấm Hương (500kg); nấm Mỡ (200 kg);
nấm Rơm (100 kg) và cuối cùng là Linh Chi (75 kg). Nhìn chung năng suất nấm của
nước ta chỉ bằng 50 – 70 % so với năng suất bình quân trên thế giới. [7]
- Về quy mô sản xuất: Nhìn chung hầu hết các tỉnh trong cả nước hiện nay đều đã
bắt đầu phát triển nghề sản xuất nấm, song chủ yếu vẫn là sản xuất ở quy mô hộ, mang
tính đơn lẻ, với năng lực dao động từ 1 – 6 tấn nguyên liệu mỗi hộ 1 vụ, các hộ này
thường sử dụng công nghệ sản xuất thủ công, tận dụng các thiết bị tự sản xuất như là:
Máy băm rơm, hệ thông quạt gió, hệ thống tưới nước, máy đảo ủ nguyên liệu ….không
đồng bộ, nên năng suất thấp, giá thành cao và khó khăn trong chế biến, tiêu thụ sản
phẩm: các thiết bị, công nghệ trông nấm nhập khẩu từ nước ngoài không phù hợp với
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Việt Nam: Giá thành 1kg nấm sản xuất theo công
nghệ của Đài Loan và Italia cao hơn nhiều so với giá thành 1kg nấm sản xuất trong dân.

18
Số cơ sở sản xuất nấm tập trung chỉ chiếm 3 – 5 % tổng số đơn vị tham gia sản xuất
nấm trong cả nước. Đáng chú ý nhất là ở tỉnh Vĩnh Phúc trong 3 năm qua (2000 - 2002)
đã và đang triển khai mô hình trang trại nấm và mô hình làng nấm với kết quả thu được

khá khả quan, nhiều hộ nông dân đã có thu nhập cao từ sản xuất. [10]
Ở miền Bắc nấm được trồng nhiều ở các tỉnh như Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Hà Nội. Gần đây phong trào trồng Mộc nhĩ phát triển mạnh mẽ và đang thu hút
nhiều địa phương tham gia. Ngoài ra còn nhiều loại nấm khác như nấm Sò, Nấm mỡ,
nấm Hương, nấm Rơm và nấm Linh Chi.
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và miền Nam đang phát triển nghề trồng nấm Rơm
rất nhanh, sản lượng tăng theo cấp số nhân; ngoài nấm Rơm thì ở đây còn trồng mộc nhĩ
(Mộc Nhĩ) được trồng rất phổ biến. Nấm Mỡ, nấm Sò thì được trồng ở Đà Lạt song rất
khó khăn về nguyên liệu, chiếm sản lượng thấp. [2]
Các sản phẩm nấm của ta chủ yếu để tiêu dùng nội địa ở dạng tươi, với giá bán
dao động 15 000 - 20 000 đồng/ kg chủ yếu ở các thành phố lớn; tuy nhiên cùng với sự
phát triển của xã hội một số thị trường cao cấp như siêu thị đã bắt đầu chú ý tiêu thụ các
loại sản phẩm sấy khô, sản phẩm muối hoặc đóng hộp với giá bán dao động trong
khoảng 50 000 - 150 000 đồng/ kg. Các loại nấm Hương, Mộc Nhĩ thường được tiêu thụ
ở dạng khô có giá bán từ 25000 – 90000 đồng/kg, nếu cải thiện được công tác chế biến
và hạ giá thành sản phẩm, dự kiến thị trường cả nước có thể tiêu thụ được vài chục tấn
mỗi năm, Mộc Nhĩ khô chủ yếu được thu hái từ tự nhiên và nuôi trồng. Ngoài ra nấm
còn được đem chế biến để xuất khẩu ra nước ngoài, các tỉnh phía Nam đã và đang xuất
khẩu nấm Rơm muối, đóng hộp với số lượng hàng ngàn tấn/ năm sang thị trường Đài
Loan, Hồng Kông, Thái Lan
- Về vấn đề chế biến : Hiện nay ngoài khoảng 50% sản lượng được tiêu thụ dưới dạng
tươi, nấm còn được chế biến thành các loại sản phẩm như sấy khô (chiếm khoảng 20%
sản lương nấm các loại) nhưng chủ yếu tập trung vào nấm Hương và Mộc Nhĩ; nấm
Muối ( chiếm 20% tổng sản lượng nấm ) . [2]

19
Trong những năm vừa qua, tổng ngân sách nhà nước và các địa phương đã đầu tư
hang chục tỉ đồng cho việc nghiên cứu và triển khai trồng nấm ở các tỉnh phía Bắc song
kết quả đạt được rất thấp.
Mặc dù đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu nhưng hiện nay sản xuất nấm của nước

ta vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún và phải bán qua tay của người khác. Một số doanh nghiệp
cảnh báo, mục tiêu đạt một triệu tấn vào năm 2010 sẽ khó đạt được nếu chúng ta không
biết điều tiết thị trường, hình thành vùng nguyên liệu và nhất là xây dựng thương hiệu để
nâng cao giá bán. [4]
Nấm ăn là loại thực vật sạch, giàu dinh dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Thị
trường nấm ăn trên thế giới rất lớn, trung bình tiêu thụ khoảng 15 triệu tấn nấm rơm/
năm. Giá các loại nấm ăn đạt ở mức cao: Mộc Nhĩ, nấm Hương, nấm Rơm 1700 – 6500
USD/ tấn. Trong khi đó, giá nấm sản xuất trong nước ở thời điểm đắt nhất cũng chỉ 28
000 – 30 000 đồng/ kg, nấm Rơm 10 000 – 15 000 đồng/ kg. Điều đáng nói là giá nấm
xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 60% so với sản phẩm cùng loại được sản xuất tại Thái
Lan, Trung Quốc. Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu không đảm bảo về chất lượng,
sản phẩm không đồng đều về kích thước, mẫu mã,…Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để
phát triển về trồng nấm, riêng rơm rạ 20 - 30 triệu tấn/năm đủ để cho “ra đời” 2 triệu tấn
nấm tươi, trị giá 1tỷ USD, thậm chí nếu chế biến thành đồ hộp giá trị còn cao hơn. Năm
2002, cả nước mới sản xuất được 100 000 tấn nấm thương phẩm thì đến nay đã đạt được
150 000 tấn/ năm. Điều đó chứng tỏ nghề trồng nấm đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ông Bạch Quốc Khang, chánh văn phòng BNN & PTNT nhận xét: “Nếu sản xuất được
1 triệu tấn nấm ăn như mục tiêu đề ra, chúng ta sẽ thu được khoảng 7 000 tỷ đồng.
Trong đó, xuất khẩu ước đạt 200 triệu USD, tương đương 3200 tỷ đồng. Tuy nhiên, chỉ
có một số ít địa phương đang dần hình thành quy mô sản xuất hàng hoá, còn đa phần bà
con vẫn xem nấm là cây trồng lúc nông nhàn, dẫn đến lượng cung luôn thấp hơn nhu
cầu. Bên cạnh đó do thiếu sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nên dẫn tới tình
trạng nấm làm ra không biết bán cho ai, khi kinh doanh thì khan hàng. GSTS Nguyễn

20
Hữu Đống (trung tâm CNSH thực vật - viện di truyền nông nghiệp) cho rằng: “Việt
Nam có nhiều khả năng xuất khẩu nấm nhưng do vùng sản xuất nguyên liệu chưa đủ lớn
nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc thu mua chế biến và xuất khẩu”.
Một hạn chế không thể không nhắc tới là nấm ăn chưa có thương hiệu và có nguy cơ
chung số phận như gạo, chè, cà phê, hạt điều khi mà các nhà xuất khẩu Việt Nam phải

chịu để các doanh nghiệp nước ngoài chế biến và đóng gói lại sản phẩm của mình với
nhãn mác mới, tiếp tục bán ra thị trường với giá cao hơn… Rõ ràng việc tạo dựng
thương hiệu lớn vẫn đang là bài toán vẫn chưa có lời giải. [3]
2.3
Sơn La là tỉnh miền núi phía Tây Bắc có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển
nghề trồng nấm.
Đa số người dân sống bằng nghề nông (số dân sống ở nông thôn là 853265 người,
chiếm 82% dân số trong tỉnh), thu nhập của bà con chưa cao.Vì vậy bà con mong có một
nghề làm thêm để tăng thu nhập.
Khí hậu của tỉnh rất thuận lợi cho sự phát triển nghành nghề trồng mộc nhĩ : có độ
ẩm cao (trung bình 80%), nhiệt độ ổn định (trung bình năm 21,6
0
C).
Nguyên liệu trồng mộc nhĩ ở Sơn La có rất sẵn. Tính đến năm 2003 diện tích đất
nông nghiệp của Sơn La có 191 828 ha. Trong đó diện tích trồng lúa 38 465 ha, ngô 64
664 ha. Vì vậy phế thải nông nghiệp như: rơm rạ, lõi ngô rất nhiều, thuận lợi cho việc
trồng nấm trên nguyên liệu sẵn có ở địa phương, tiết kiệm chi phí vận chuyển và gía
thành sản xuất.
Các vật liệu đơn giản để trồng nấm như: túi nilon, dây buộc, tre nứa….Đều rất sẵn
mua tại các chợ địa phương.
Việc đưa nấm ăn thành một nghề mới có thêm thu nhập cho người dân tại tỉnh
Sơn La có công rất lớn của các ban nghành như: khuyến nông tỉnh Sơn La, sở khoa học
công nghệ tỉnh Sơn la, xí nghiệp nấm Sơn La…Từ năm 2001 đến nay đã có hơn 1000
nông dân được tập huấn và hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng nấm ăn. Tất cả các huyện

21
trong toàn tỉnh đã có mở các lớp tập huấn và số nông dân theo học rất đông. Chủ yếu đa
phần là người dân tộc Thái, dân tộc Kinh. Cán bộ kỹ thuật hướng dẫn trồng nấm cho
nông dân đều là người của xí nghiêp nấm Sơn La. Đa phần các loại nấm ăn như nấm Sò,
Mộc Nhĩ, nấm Rơm đều được giới thiệu qua các buổi tập huấn lý thuyết. Nhưng khâu

thực hành chủ yếu là trồng nấm Sò trên nguyên liệu bông phế thải và rơm.
Tóm lại: Trồng mộc nhĩ là một nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa giải quyết
được vấn đề việc làm, vấn đề sinh hoạt của người dân, nâng cao đời sống, cải thiện bữa
ăn. Đồng thời góp phần xây dựng một nền nông nghiệp bền vững.
2.5. N
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các giá thể khác nhau đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất của mộc nhĩ tại Mai Sơn – Sơn La năm 2014.
2.6
2.6
* Đối tượng nghiên cứu
- Mộc nhĩ đen
- Nguyên liệu: Bột lõi ngô, mạt cưa, vôi bột
*Địa điểm thời gian nghiên cứu
Tại Chiềng Ban – Mai Sơn – Sơn La từ ngày 10/3/2014 – 15/3/2015
2.6
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các giá thể khác nhau đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất của mộc nhĩ đen năm 2014.
2.6
2.6
Bố trí thí nghiệm theo kiểu ngẫu nhiên với 1 giống mộc nhĩ đen trên 3 công thức khác
nhau, mỗi ô thí nghiệm bố trí 20 bịch. Bố trí thí nghiệm mỗi công thức 3 lần nhắc lại.



22
* Sơ đồ thí nghiệm:
CT 2
CT 3
CT 1
CT 3

CT 1
CT 2
CT 1
CT 2
CT 3

* Công thức thí nghiệm
- Công thức 1: Mạt cưa 100kg, vôi bột 2kg.
- Công thức 2: Mạt cưa 80kg, bột lõi ngô 20kg, vôi bột 2kg.
- Công thức 3:Mạt cưa 60kg, bột lõi ngô 40 kg, vôi bột 2kg.
2.6
*Thời gian sinh trưởng phát triển của quả thể mộc nhĩ (ngày).
- Theo dõi tỷ lệ mọc sợi 1 ngày sau cấy giống, đo tốc độ mọc sợi 5 ngày 1 lần cho
đến khi sợi mọc kín 100%.
- Thời gian từ đóng bịch cấy giống đến khi rạch bịch: Thời gian này được xác
định khi các sợi mộc nhĩ ăn trắng bịch, sợi mộc nhĩ tạo nên màu trắng đồng nhất, bịch
mộc nhĩ rắn chắc.
- Thời gian từ đóng bịch cấy giống đến khi mộc nhĩ bắt đầu mọc ra ở các vết rạch
được xác định khi các cụm mộc nhĩ bắt đầu xuất hiện và nhô ra ở các vết rạch.
Thời gian từ đóng bịch cấy giống đến khi thu hoạch đợt 1: Được xác định khi cụm
mộc nhĩ đã khá to, bắt đầu thấy các bào tử phát tán vào không khí những lớp khói trắng
bay ra. (Mỗi công thức lấy ngẫu nhiên 5 bịch theo dõi)
- Thời gian từ khi trồng mộc nhĩ tới khi thu hoạch cuối cùng: được xác định khi
các cụm mộc nhĩ bắt đầu mọc yếu dần đi, các sợi trắng trên nguyên liệu giảm dần và
nguyên liệu trở lên xốp. (Mỗi công thức lấy ngẫu nhiên 5 bịch theo dõi)
*Chỉ tiêu mức độ độ nhiễm sâu bệnh .
- Chỉ tiêu một số loại sâu bệnh hại như: chuột, bọ kiến, nấm mốc.

23
- Thời gian loại sâu bệnh phát sinh (ngày).

- Theo dõi thời gian xuất hiện bệnh (ngày).
- Theo dõi mức độ tỷ lệ hại.
- Tỉ lệ bệnh hại: Là tỉ lệ giữa số bịch cơ chất bị nhiễm tổng số bịch cơ chất được
cấy hoặc thay bằng = SBCCNB /SBCCĐC * 100%.
*Chú thích
- SBCCNB: là số bịch cơ chất bị nhiễm.
- SBCCĐC: là số bịch cơ chất được cấy.
*Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng (cụm).
- Chiều dài cụm mộc nhĩ: Được đo từ nơi gốc nấm đến chóp tán nấm cao
nhất(mm) (Mỗi ô thí nghiệm lấy ngẫu nhiên 5 cụm) 3 ngày đo 1 lần.
- Đường kính tai mộc nhĩ: dùng thước đo tán nấm ở nơi rộng nhất (Mỗi ô thí
nghiệm lấy ngẫu nhiên 5 tán nấm to nhất) 3 ngày đo 1 lần.
*Các chỉ tiêu liên quan đến năng suất.
- Khối lượng cụm mộc nhĩ trên 1 bịch. Mỗi ô thí nghiệm lấy ngẫu nhiên 5 cụm
mộc nhĩ, tính tổng khối lượng các cụm khi thu hoạch.
- Năng suất thực thu (NSTT):
NSTT = NSTT1B* TSB
Trong đó:
- NSTT1B (kg/bịch): Được tính trọng lượng trung bình của nấm khô trên 5 bịch
ngẫu nhiên khi thu hoạch.
- TSB: Tổng số bịch cho thu hoạch.
* Phương pháp xử lý số liệu.
Xử lý bằng phần mềm Microsoft Exel, IRRISTAT.




24

3

 .
3.1.1 Ảnh hưởng của giá thể đến thời gian sinh trưởng của mộc nhĩ
Mộc nhĩ thời gian sinh trưởng và phát triển trung bình khoảng 92 ngày. Trên các
giá thể khác nhau, thì giống mộc nhĩ có biểu hiện thời gian sinh trưởng khác nhau được
thể hiện ở bảng 3.1:

Đơn vị: ngày


Ra 
 1
 2

thu


39
10
23
25
00
97
CT2
28
7
20
21
19
95
CT3

35
7
17
16
17
92
 Thời kỳ nuôi sợi của mộc nhĩ
Mộc nhĩ cũng giống như các loại cây trồng khác trong thời kỳ sinh trưởng này của
nấm chịu ảnh hưởng rất nhiều vào điều kiện ngoại cảnh và sự chăm sóc của con người.
Điều kiện tối ưu cho sợi nấm phát triển giai đoạn này là có độ ẩm nguyên liệu từ 60 -
70%, nhiệt độ không khí là 22 - 27
o
C, và độ ẩm không khí từ 70 - 80%. Nếu đáp ứng
được yêu cầu này thì cụm nấm sẽ ra nhiều và cho năng suất cao. Sau khi các sợi nấm đã
ăn trắng hết bịch ta tiến hành rạch bịch, ta rạch 6 - 8 đường xung quanh bịch, chiều dài
vết rạch từ 2 - 3 cm, vết rạch phải so le nhau.
Thời kỳ cấy giống đến mọc sợi của các giá thể thí nghiệm dao động 28 - 39 ngày.
So với đối chứng chúng ta thấy rằng giữa các công thức có thời gian mọc sợi ngắn hơn
so với giống đối chứng từ 11 ngày - 14 ngày, đây là sự chênh lệch rất lớn, do sự thay đổi

25
do nguyên liệu khác nhau mang lại. Trong các công thức ở công thức 2 thời gian nấm
nuôi sợi là sớm nhất sau 28 ngày.
 Thời kỳ ra cụm của mộc nhĩ
Thời gian từ khi rạch bịch đến khi nấm mọc ra ở các vết rạch của các công thức
khác nhau cũng khác nhau. Ở công thức 2 và 3 có nấm mọc ra sớm nhất (7 ngày sau khi
rạch bịch), công thức 1 có thời gian nấm mọc ra muộn nhất (10 ngày sau khi rạch bịch).
Như vậy những cơ chất có thời gian sợi nấm ăn trắng hết bịch sớm hơn thì thời
gian nấm mọc ra ở những vết rạch cũng sớm hơn. Thời gian từ khi rạch bịch đến khi
nấm mọc ra ở vết rạch là rất ngắn khoảng từ 7 - 10 ngày. Giai đoạn này cần duy trì độ

ẩm không khí là 75 - 90%, nhiệt độ 25 - 30
o
C trong nhà trồng Mộc nhĩ để cho nấm mọc
ra dễ hơn và tỉ lệ mọc ra cũng nhiều hơn.
 Thời gian thu đợt 1 của mộc nhĩ
Thời gian từ nấm mọc ra từ vết rạch đến khi bắt đầu cho thu hoạch Mộc nhĩ lần 1
nằm trong khoảng từ 17 - 23 ngày sau khi mộc nhĩ mọc. Kết quả thí nghiệm cho thấy tỷ
lệ phối trộn nguyên liệu của công thức 3 có thời gian từ khi nấm mọc đến khi bắt đầu thu
hoạch lần 1 là ngắn nhất (17 ngày), tỷ lệ phối trộn nguyên liệu của công thức 1 có thời
gian cho thu hoạch lần 1 là muộn nhất (23 ngày).
 Thời gian thu đợt 2 của mộc nhĩ
Thời gian từ khi thu hoạch nấm lần 1 đến khi bắt đầu cho thu hoạch nấm lần 2
biến động từ 16 - 25 ngày sau khi thu hoạch nấm lần 1. Kết quả thí nghiệm cho thấy cơ
chất của công thức 3 có thời gian từ khi khi thu hoạch nấm lần 1 đến khi thu hoạch nấm
lần 2 là ngắn nhất (16 ngày), cơ chất của công thức 1 có thời gian cho thu hoạch lần 2 là
muộn nhất (25 ngày).
Như vậy ta thấy rất rõ tỷ lệ phối trộn nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến thời
gian tận thu do độ bền của nguyên liệu làm cơ chất.
 Thời gian tận thu của mộc nhĩ

×