1
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tại Trƣờng Cao Đẳng Sơn La em đã học đƣợc những
kiến thức và kinh nghiệm để áp dụng vào thực tập tại địa phƣơng bản Nà Mùn
xã Chiềng Khay huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô trong ban
giám hiệu Trƣờng Cao Đẳng Sơn La, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa
Nông Lâm đã tạo điều kiện thuận lợi và tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ em trong
thời gian thực tập. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên:
th.s Quàng Thị Vân Thảo ngƣời đã tận tình quan tâm, giúp đỡ và chỉ bảo hƣớng
dẫn em trong suốt trong suốt thời gian nghiên cứu và làm bài tiểu luận này. Trân
trọng cảm ơn Đảng Uỷ - Uỷ Ban Nhân Dân xã Chiềng Khay đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu thực tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu và làm bài nhƣng
do chƣa có nhiều kinh nghiệm thực hiện đề tài, phạm vi nghiên cứu hạn hẹp,
thời gian nghiên cứu và làm bài tiểu luận còn hạn chế nên bài tiểu luận của em
không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm kính mong nhận đƣợc sự nhận
xét, đánh giá và giúp đỡ của các thầy cô giáo để bài tiểu luận của em đƣợc hoàn
thiện hơn.
Sơn La, tháng 5 năm 2013
SINH VIÊN
Lƣờng Văn Tƣơng
2
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đậu xanh (vigna radiata L.),tên đồng nghĩa (phaseolas ayreus Roxb) là
loại cây thuộc họ đậu đỗ, họ phụ cánh bƣớm (Leguminoceae) là loại cây thực
phẩm có thời gian sinh trƣởng ngắn (63 - 80ngày), dễ trồng, đặc biệt ở ĐBSCL
có thể trồng đậu xanh luân canh trên đất lúa. Trồng đậu xanh còn giúp bồ dƣỡng
và cải tạo đất tốt nhờ xác bã, thân, lá để lại cho đất (tƣơng đƣơng 8 - 15 tân/ha
phân xanh) và các nốt sần ở rễ cung cấp đạm cho cây (tƣơng đƣơng 20 - 40 kg
N/ha, hay 42 - 85 kg Ure/ha). Sau mùa đậu đất càng trở nên màu mỡ hơn [1]
Về phƣơng diện dinh dƣỡng, hạt đậu xanh có chứa nhiều chất dinh dƣỡng nhƣ:
protein (21 - 24%), lipid (1 - 4%), đƣờng bột (57 - 58%), 4 - 5% các chất khác
và các chất sinh tố nhóm B. Giá đậu xanh (1kg đậu hạt có thể ủ đƣợc 7 - 8 kg
giá) còn chứa nhiều sinh tố B và các sinh tố khác nên có giá trị để thay thế một
số rau tƣơi và các mùa vụ thiếu rau, giá đỗ lại có thể tồn trữ và sản xuất dễ dàng.
Protein trông hạt đỗ cao nên hạt đỗ còn đƣợc dùng làm bột dinh dƣỡng cho
ngƣời hoặc làm thức ăn cho gia súc. Hạt đậu xanh là loại nông sản quen thuộc
đƣợc dùng rộng rãi trong nhân dân để làm thực phẩm( chè, xôi, cháo, bánh ếch,
bánh tét, bún tàu ( mến) kẹo, bánh, rau sống (giá đậu), bánh mì [2].
Hiện nay, hạt đậu xanh tiêu thụ rất mạnh ở một số nƣớc nhƣ Trung Quốc
(đài loan) philippin, Ấn Độ, Thái Lan Và nhất là nƣớc ta. Đối với khu vực
Duyên hải nam trung bộ, diện tích cây đậu hàng năm 10.000 ha. Mặc dù, diện
tích sản xuất cây đậu xanh ở các tỉnh duyên hải miềm Trung và Tây nguyên
không thể so sánh với cây lạc và đậu tƣơng đậu xanh cũng là cây thực phẩm
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năng suất đậu xanh bình quân toàn vùng khoảng
12 - 13 tạ/ha do nhiều công dụng và dễ sử dụng nên đậu xanh đƣợc trồng rộng
rãi trong nhân dân .[3]
Muốn trồng và sản xuất đậu xanh có hiệu quả kinh tế cao, cần phải có các
giống mới và năng suất chất lƣợng cao đồng thời áp dụng các biện pháp kĩ thuật
thâm canh do thiếu hiểu biết về giá trị dinh dƣỡng của đậu xanh, nên chƣa có sự
3
đầu tƣ thâm canh ở các nƣớc kém phát triển vì vậy năng suất sản lƣợng trồng
đậu xanh còn thấp.
Có rất nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản là do ngƣời dân chƣa
áp dụng đúng các biện pháp kỹ thuật nhƣ phân bón sao cho từng giống đậu xanh
vì thế chƣa phát huy hết tiềm năng của giống.
Trong thực tế có những kết quả về liều lƣợng phân bón cho cây đậu xanh
đƣa vào sản xuất tại địa phƣơng góp phần cải thiện năng suất của huyện Quỳnh
Nhai nói riêng và của toàn Tỉnh nói chung từ thực tế đó em tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón trên giống đậu xanh ĐX11 bản Nà
Mùn xã Chiềng Khay huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La.”
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục đích
Nghiên cứu ảnh hƣởng của liều lƣợng phân bón đến sinh trƣởng, phát
triển và năng suất của giống đậu xanh ĐX11 nhằm xác định đƣợc điều lƣợng
phân bón hợp lý cho đậu xanh ĐX11 trồng điều kiện vụ đông xuân tại bản Nà
Mùn xã Chiềng khay tỉnh Sơn La
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của liều lƣợng phân bón đến sinh trƣởng, phát
triển của giống đậu xanh ĐX11
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của liều lƣợng phân bón đến năng suất, các yếu
tố cấu thành năng suất và hiệu của kinh tế của giống đậu xanh ĐX11
4
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Chiềng Khay là một xã vùng 3 cách Trung tâm huyện Quỳnh Nhai 45km
về phía Bắc, có vị trí giáp ranh nhƣ sau:
+ Phía Bắc giáp huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu.
+ Phía Đông giáp huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu
+ Phía Nam giáp xã Mƣờng Giôn huyện Quỳnh Nhai - Sơn La.
+ Phía Tây giáp xã Cà Nàng và xã Mƣờng Chiên - Quỳnh Nhai - Sơn La.
Xã Chiềng Khay có địa hình dốc cao, chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao
xen kẽ thung lũng dốc tụ. Độ cao trung bình 1287m so với mặt nƣớc biển, điểm
cao nhất đỉnh Khâu Pùm 18245m, điểm thấp nhất 750m. Địa hình chủ yếu là núi đá
cao, núi thấp uốn nếp, xen kẽ là bồn địa nhỏ, hẹp. Nhìn chung địa hình phức tạp bị
chia cắt mạnh, đất có độ dốc trên 20% chiếm 19% tổng diện tích đất tự nhiên
Với tổng diện tích đất tự nhiên là: 133841 ha, chiếm 128% tổng diện tích đất tự
nhiên của huyện. Trong đó đất nông nghiệp là: 379003 ha, chiếm 2832% tổng
diện tích đất tự nhiên. Đất nuôi trồng thủy sản là: 1850 ha, chiếm 0,49% diện
tích nhóm đất nông nghiệp. Đất lâm nghiệp 223686 ha, chiếm 5902% diện tích
đất nông nghiệp. Đất phi nông nghiệp 14217 ha, chiếm 106% tổng diện tích đất
tự nhiên. Đất chƣa sủ dụng: 91119 ha.
Toàn xã đƣợc chia thành 14 bản có 1.036 hộ = 5.390 nhân khẩu, gồm 5
dân tộc anh em cùng sinh sống; Thái, dao, kháng, H'Mông, Kinh. Trong đó dân
tộc thái chiếm phần đa, ngành nghề chính của ngƣời dân là sản xuất nông lâm
nghiệp. Mỗi dân tộc đều có những nét đặc trƣng riêng trong đời sống văn hóa,
hòa nhập làm phong phú, đa dạng bản sắc văn hóa dân tộc. Đến nay các nét văn
hóa dân tộc vẫn đƣợc lƣu giữ và bảo tồn, đƣợc thể hiện trong các ngày lễ hội
hàng năm nhƣ: Múa xòe, ném còn, kéo co, bắn nỏ Nhân dân xã Chiềng Khay
luôn thể hiện tinh thần tƣơng thân tƣơng ái, vƣợt qua mọi khó khăn thử thách
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cần cù sáng tạo trong lao động sản
5
xuất. Kế thừa và phát huy truyền thống đó của xã nhà, nói chung về vật chất tinh
thần, trình độ dân trí đã đƣợc cải thiện nâng cao lên một bƣớc so với mặt bằng
chung của huyện. [4]
2.1.2. Kinh tế xã hội
Toàn xã sản xuất nông nghiệp là chính, trong những năm gần đây đƣợc sự
quan tâm của phòng nông nghiệp huyện và sự chỉ đạo sát sao của cấp Ủy chính
quyền địa phƣơng nên đã có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đúng đắn
kịp thời. Nền kinh tế của xã có những bƣớc tăng trƣởng, các hoạt động sản xuất
tiểu thủ công nghiệp, thƣơng mại, ngành nghề dịch vụ đang đƣợc phát triển mở
rộng, sản xuất nông - lâm nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hóa. Đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt, các công trình trọng điểm đã
đƣợc quan tâm đầu tƣ. Ngành nông nghiệp luôn đƣợc xác định là ngành mũi
nhọn trong phát triển kinh tế xã hội của xã cả trong hiện tại cũng nhƣ trong
tƣơng lai. Năm 2008 tốc độ tăng trƣởng kinh tế đạt 8 - 9%, thu nhập bình quân
đầu ngƣời đạt 2,5 triệu đồng/năm, song bên cạnh những đổi thay đó nhìn chung
nền kinh tế phát triển chƣa đều và vững mạnh, một số hộ gia đình do nhận thức
còn hạn còn độc canh những giống cây trồng truyền thống kém năng suất và một
số hộ gia đình do không chịu khó học hỏi, trao đổi kinh nghiệm từ những gia [4]
2.1.3. Điều kiện khí hậu thủy văn
Xã Chiềng Khay mang đặc trƣng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền núi
phía Bắc. Đƣợc chia thành hai mùa rõ rệt, mùa nóng ẩm, (mùa mƣa) từ tháng 5
đến tháng 11 mƣa tập trung vào các tháng 6, 7, 8, mùa khô lạnh (mùa khô) Từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Tuy nhiên xã Chiềng Khay nằm ở vùng có độ cao
lớn nên ở đây có yếu tố khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình của xã thấp hơn
So với vùng huyện Quỳnh Nhai từ 5 -7
o
c trong năm; Nhiệt độ năm 20,2
0
c, nhiệt
độ cao nhất từ 25 - 30
0
c tập trung từ tháng 6 đến tháng 8, nhiệt độ thấp nhất từ 6
đến 10
0
c vào tháng 1 và 2, độ ẩm trung bình 78%. Xã Chiềng Khay có lƣợng
mƣa khá dồi dào, số ngày mƣa trung bình 150 ngày/năm, lƣợng mƣa trung bình
năm từ 1.500mm/tháng trong năm, gây xói mòn, lở đất làm ảnh hƣởng đến đời
sống của nhân dân. Đặc biệt thƣờng xuyên xuất hiện xƣơng mù. Nhìn chung khí
6
hậu xã Chiềng Khay, quanh năm mát mẻ, thích hợp với các loại vật nuôi cây
trồng ôn đới. Đặc biệt phát triển trồng cây lƣơng thự phẩm nói chung và cây đậu
tƣơng cũng nhƣ đậu xanh nói riêng, thông qua bảng khí tƣợng thủ văn nhƣ sau.
Biểu 01: Chỉ tiêu yếu tố khí tượng năm 2012 của xã Chiềng Khay
Tháng
Nhiệt độ (◦c)
Số giờ nắng
( h )
Lƣợng mƣa
( mm )
Ẩm độ không
khí ( % )
1
5 - 15
120
170,1
80 %
2
10 - 17
160
212
75 %
3
15 - 21
121,9
180
72 %
4
17 - 23
140
98,7
77 %
5
19 - 27
105,4
150
75 %
6
20 - 28
53
320,4
81,2 %
7
21 - 28
111
240,9
89 %
8
18- 30
107
340
78 %
9
15 - 26
113
130
70 %
10
10 - 22
80
147
77 %
11
9 - 21
50,7
140
79 %
12
12 - 17
60
97,6
77 %
Trung bình
19,4
0
c
101,84
185,56
77,5 %
Nguồn: Phòng Địa Chính xây dựng, tài nguyên môi trường xã Chiềng Khay [4]
2.1.4. Tình hình sử dụng đất đai:
Xã Chiềng Khay có tổng diện tích đất tự nhiên là: 13.384,1ha phù hợp
với nhiều loại cây trồng khác nhau, song phần lớn diện tích đất đang bị suy thoái
nhiều, do thảm thực vật tự nhiên bị tàn phá bởi những tập quán canh tác lạc hậu,
quảng canh bóc lột đất. Do vậy trong thời gian tới cần áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào canh tác sản xuất trên đất dốc để bảo vệ đất sử dụng có hiệu
quả lâu dài. Chi tiết hiện trạng thể hiện qua biểu 02 nhƣ sau:
7
Biểu 02: Diện tích đất và cơ cấu sử dụng đất của xã Chiềng Khay
Loại đất
Diện tích trong địa giới hành chính
Diện tích ( Ha )
Cơ cấu ( % )
Tổng diện tích
13.384,01
100 %
I. Đất nông nghiệp
1.534,67
100,00
1. Đất trồng cây hàng năm
1.469,56
95,76
1.1. Đất trồng lúa
384,20
26,14
- Đất chuyên trồng lúa nước
44,00
11,75
- Đất trồng lua nương
249,10
64,84
- Đất trồng lúa còn lại
91,10
23,71
2. Đất vƣờn tạp
1.085,36
73,86
3. Đất trồng cây lâu năm
65,11
4,24
4. Đất có mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản
18,50
II. Đất lâm nghiệp có rừng
2.236,86
1. Rừng tự nhiên
2.230,3
2. Rừng trồng
6,56
III. Đất chuyên dùng
38,37
26,99
1. Đất xây dựng
1,75
4,56
2. Đất giao thông
107,0
3. Thủy lợi và mặt nƣớc
52
36,58
4. Đất An ninh quốc phòng
30
5. Đất di tích lịch sử văn hóa
6. Đất nghĩa trang
33,5
18,08
IV. Đất ở ( nông thôn )
26,1
100,00
V. Đất chƣa sử dụng
9.111,9
1. Đất bằng chƣa sử dụng
2. Đất đồi núi chƣa sử dụng
9.111,9
3. Sông suối
52
100
4. Núi đá chƣa có rừng
340
5. Đất chƣa sử dụng khác
Nguồn: Phòng Địa chính xây dưng xã Chiềng Khay [4]
8
Qua bảng trên cho ta thấy cơ cấu sử dụng đất của xã nhƣ sau:
Toàn xã có 379003 ha, chiếm 2832% tổng diện tích đất tự nhiên. Đất sản
xuất nông nghiệp toàn xã có 153467 ha, chiếm 4049% diện tích nhóm đất nông
nghiệp. Bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp/hộ nông nghiệp là 184
ha/hộ. Trong cơ cấu diện tích đất sản xuất nông nghiệp chủ yếu là đất trồng cây
hàng năm với 1469 ha, chiếm 9576%, còn lại là đất trồng cây lâu năm 6511 ha,
chiếm 424% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung xã Chiềng Khay
với cơ cấu sử dụng đất trên thì diện tích đất chƣa sử dụng còn khá nhiều cần
đƣợc quy hoạch đƣa vào cải tạo một cách hợp lý. Trong những năm gần đây nhờ
chính sách giao đất giao rừng và sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật của huyện, xã. Ngƣời
dân đã biết tận dụng nguồn tài nguyên đất, hạn chế xói mòn và rửa trôi phát huy
tối đa tiềm năng của đất cải tạo nó phát triển lâu dài, họ đã biết phối hợp giữa
các loại cây trồng, vật nuôi trên diện tích canh tác theo hƣớng nông lâm kết hợp
đã cải thiện phần nào nhu cầu phần nào cuộc sống và môi trƣờng trên toàn xã.
2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ XẢN SUẤT TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM
2.2.1.Tình hình nghiên cứu đậu xanh trên thế giới
- Cây đậu xanh (Mungbean, Green bean) có tên khoa học Vigna radiata (L)
là cây đậu đỗ quan trọng đứng hàng thứ ba sau đậu nành và đậu phụng (2 loại
cây công nghiệp ngắn ngày). Đậu xanh có nguồn gốc từ Ấn Độ và Trung Á,
phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, là cây trồng khá quen thuộc
ở Châu Á và rất phổ biến ở nƣớc ta.[5]
Cây đậu xanh có khả năng thích ứng rộng, chịu hạn khá và có thể thích
nghi với các vùng có điều kiện khắc nghiệt. Khu vực Đông và Nam Châu Á, cây
đậu xanh đƣợc trồng nhiều ở các quốc gia nhƣ: Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh,
Sri Lanka, Nepal Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Miến Điện, Inđônexia; hiện
nay đã đƣợc phát triển tại một số quốc gia ở vùng ôn đới, ở Châu Úc, lục địa
Châu Mỹ.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau quả Châu Á(AVRDC) đã có tập
đoàn giống đậu xanh lớn nhất thế giới với hơn 5000 mẫu giống, trong đó có
9
giống cho năng suất 18 - 25 tạ/ha và thâm canh có thể đạt gần 40 tạ/ha.
Mặt khác, giá trị sinh học của đậu xanh rất quan trọng, Bressani (1973) cho rằng
phân đạm mà cơ thể cây đậu xanh hấp thụ và giữ lại đƣợc là 40,66% nên có tác
dụng rất tốt trong cải tạo, bồi dƣỡng đất vì sau khi trồng đậu xanh đất đƣợc tơi
xốp và tăng đƣợc một lƣợng đạm khoảng 30 - 70 kg/ha).[6]
Tuy nhiên, năng suất của cây đậu xanh rất thấp, khoảng 6 - 8 tạ/ha vì
chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức nên gần đây nhiều nƣớc đã chọn đƣợc giống cho
năng suất bình quân 10 - 12 tạ/ha với các ƣu điểm là hạt to, màu đẹp, thời gian
sinh trƣởng ngắn, chín tập trung, chống chịu một số sâu bệnh hại chính.
Ngày nay, các nhà chọn giống đang nghiên cứu tạo ra giống đậu xanh có thể cải
thiện năng suất và tính kháng bệnh. Ấn Độ có 22 trung tâm khắp cả nƣớc nghiên
cứu về cây đậu xanh. Thái Lan cũng có nhiều trung tâm và các viện trƣờng tham
gia nghiên cứu về cây đậu xanh. [6]
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất đậu xanh trên thế giới trong
những năm gần đây (2007 – 2011)
Năm
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lƣợng ( tấn)
2007
72.099.239
21,866
157.796.394
2008
74.381.252
21,697
161.385.002
2009
76.077.867
23,201
176.508.259
2010
79.167.520
22,734
179.979.440
2011
83.613.559
22,667
187.523.638
( Nguồn: Thống kê của FAOSTAT Database năm 2004 )[7]
Qua bảng số liệu 2.1 cho thấy: Diện tích, sản lƣợng đậu xanh trên thế
giới trong năm năm từ 2007 đến 2011 có chiều hƣớng tăng lên. Năm 2007 diện
tích trồng đậu xanh trên thế giới là 72.099.239 ha tăng dần qua các năm, cao
nhất vào năm 2011 đạt 83.613.559 ha. Năng suất bình quân biến động trong 5
năm từ 21,886 tạ/ha đến 22,667 tạ/ha. Sản lƣợng cũng không ngừng tăng cao từ
157.796.394 tấn (2007) đến 187.523.638 tấn (2011).
10
Tình hình nghiên cứu đậu xanh ở Việt Nam
Đậu xanh (Vigna radiata L.) là cây trồng có vị trí quan trọng trong nền
nông, nghiệp của nhiều nƣớc, trong đó có Việt Nam. Đậu xanh không những là
nguồn thực phẩm giàu đạm, đáp ứng nhu cầu về dinh dƣỡng của con ngƣời, vật
nuôi mà còn có tác dụng cải tạo và bồi, dƣỡng đất do rễ cây đậu xanh có các nốt
sần chứa vi sinh vật cố định đạm sống cộng sinh, Các giống đậu xanh ở nƣớc ta
hiện rất phong phú và đa dạng, có nguồn gốc từ nhiều địa, phƣơng trong cả nƣớc
và nhập về từ các trung tâm đậu đỗ trên thế giới. Trên cơ sở nguồn gen đa, dạng
của cây đậu xanh ở nƣớc ta mà việc nghiên cứu chọn giống đậu xanh chủ yếu
dựa vào kết quả đánh giá năng suất và sản lƣợng trên đồng ruộng, đánh giá chất
lƣợng hạt trên phƣơng diện, hoá sinh, để tuyển chọn những giống đậu xanh thích
hợp theo mục đích mà ít đi sâu phân, tích tính đa dạng của loại cây trồng này.
Tính đa dạng của các giống đậu xanh không chỉ thể hiện, ở các tính trạng hình
thái, nông học và năng suất, mà còn thể hiện trong cấu trúc của các đại phân, tử
protein và ADN; Biểu hiện ở đặc tính sinh lý, hóa sinh và sự phản ứng của kiểu
gen trƣớc điều, kiện ngoại cảnh. Từ những biểu hiện đa dạng về kiểu gen và
kiểu hình có thể xác định đƣợc mối, quan hệ họ hàng trên cơ sở xác định hệ số
giống và khác nhau giữa các nguồn gen nghiên cứu. Chính vì vậy nghiên cứu sự
đa dạng sinh học của các giống đậu xanh sẽ góp phần tuyển chọn, giống đậu
xanh ƣu việt giới thiệu cho sản xuất hoặc làm nguyên liệu cho lai giống.[8]
Ở Việt Nam, đậu xanh đã đƣợc trồng lâu đời, khắp nơi trong cả nƣớc, nhƣng bị
xem là cây trồng phụ tận dụng đất đai. Đậu xanh là cây có nguồn gốc nhiệt đới.
Yêu cầu của cây đậu xanh đối với chế độ nhiệt tƣơng đối cao. Nhiệt độ thích
hợp ở tất cả các thời kỳ đậu xanh sinh trƣởng, phát triển và cho năng suất
khoảng 25
0
C đến 30
0
C. Nói chung, trong thời kỳ sinh trƣởng, nhất là từ sau ra
hoa, nhiệt độ luôn phải đảm bảo trên 25
0
C, tốt nhất là khoảng 28
0
C đến 30
0
C.
Nhiệt độ thấp, kéo dài sinh trƣởng và làm giảm chất khô tích lũy, giảm số
hoa, số quả dẫn đến giảm năng suất. Nhiệt độ trung bình ngày là yếu tố chủ yếu
chi phối thời gian sinh trƣởng của đậu xanh. Ở các tỉnh phía Bắc nƣớc ta, trong
11
vụ xuân, nhiệt độ thấp ở đầu vụ là nguyên nhân hạn chế năng suất đậu xanh,
nhất là đối với đậu trồng sớm và những năm rét muộn. [1]
Đậu xanh chịu nóng tƣơng đối tốt. Nhiệt độ 38
0
C - 40
0
C không có ảnh
hƣởng đáng kể đến khả năng thụ phấn, thụ tinh của hoa và khả năng phát triển
của quả đối với một số giống cải tiến. [1]
Kết quả nghiên cứu của trƣờng ĐHNN HN, tích ôn tổng số của đậu xanh
trong vụ xuân trong khoảng 1600 - 1800
0
C, vụ hè 1400 - 1600
0
C. Chính yếu tố
nhiệt độ thấp cuối vụ đã gây khó khăn và làm giảm năng suất đậu tƣơng thu
đông. [12]
Về anh sáng đậu xanh là cây ngắn ngày, tuy nhiên phản ứng của đậu xanh với
quang chu kỳ tƣơng đối yếu. Đậu xanh có thể ra hoa, kết quả trong điều kiện độ
dài ngày 12 – 13 giờ, thậm chí tới 14 giờ. [1]
Các thí nghiệm gieo trồng đậu xanh tiến hành ở Viện cây lƣơng thực và Cây
thực phẩm (Hải Hƣng) cho thấy đậu xanh có thể ra hoa, kết quả quanh năm. [1]
Đối với cƣờng độ ánh sáng, đậu xanh là cây ƣa sáng, số giờ có nắng phải
đạt 180 – 200 giờ/tháng. Trong thời kỳ ra hoa, kết quả, số giờ nắng phải đạt >
200 giờ/tháng. Số giờ nắng giảm dƣới 150 giờ/tháng làm cây bị vóng, yếu, tỷ lệ
rụng hoa tăng, sâu bệnh nhiều. [1]
Ở miền Bắc, vụ đậu xanh hè đƣợc thỏa mãn đầy đủ ánh sáng hơn các vụ
khác nên khả năng năng suất đậu xanh ở vụ hè có thể đạt cao. [1]
Về độ ẩm và mƣa: So với các cây họ đậu ngắn ngày khác, đậu xanh có
khả năng chịu hạn tƣơng đối khá. Tuy nhiên chế độ mƣa vẫn là yếu tố khí hậu
ảnh hƣởng lớn nhất đến năng suất đậu xanh. [1]
Độ ẩm thích hợp cho sựm sinh trƣởng của đậu xanh là 70 – 80%. Thời
điểm chế độ ẩm có ảnh hƣởng lớn nhất đến năng suất là thời kỳ mọc và thời kỳ
ra hoa – kết quả.
Hạt đậu xanh nhỏ, vì vậy hạt rất mẫn cảm với độ ẩm đất thời kỳ nảy mầm.
Độ ẩm thích hợp (70 – 80%) và độ đồng đều về độ ẩm đất quyết định thời gian,
tỷ lệ mọc mầm và độ đồng đều của ruộng đậu xanh trong thời kỳ mọc. [1]
12
Thời kỳ cây con, đậu xanh có khả năng chịu hạn tố hơn cả. Hạn tƣơng đối
ở thời kỳ này tạo điều kiện cho bộ rễ ăn sâu, tăng khả năng chịu hạn cho cây giai
đoạn sinh trƣởng sau. [1]
Thời kỳ sinh trƣởng sinh thực cây mẫn cảm với độ ẩm hơn cả. Thiếu ẩm
thời kỳ này có thể tăng tỷ lệ rụng hoa, rụng quả đậu xanh. Lƣợng mƣa cần thiết
cho vụ đậu xanh là 400 – 600 mm, tiêu thụ nƣớc trung bình của đậu xanh là 4 –
5mm/ ngày. [1]
Về cầu đất đai, dinh dƣỡng: Đậu xanh không có yêu cầu chặt chẽ về đất
đai. Trừ đất sét nặng và đất chua mặn, các loại đất khác đều có thể trồng đƣợc
đậu xanh. [1]
Tuy nhiên những loại đất thích hợp với trồng đậu xanh là đất cát pha, đất
thịt nhẹ, có tầng đất mặt sâu trên 50cm, đất có cấu tƣợng, giữ nƣớc và thoát
nƣớc tốt; pH thích hợp với đậu xanh khoảng 5,5 – 7. [1]
Ở nƣớc ta, đậu xanh đƣợc trồng trên đất phù sa đƣợc bồi và không đƣợc bồi
hàng năm, đất bãi. [1]
Diện tich đậu xanh ở Việt Nam hiên nay chiếm diện tích khoảng 40 nghìn
ha, năng suất trung bình 6 - 7 tạ/ha. Các nhà tuyển chọn giống đậu xanh đã đạt
đƣợc những kết quả đáng ghi nhận với nhiều giống mới nhƣ: ĐX - 044, ĐX - 06,
ĐX – 92 - 1, V87 - 13, HL89 - E3, V91 - 15…là những giống ngắn ngày, chín
tập trung cho năng suất khi thâm canh đạt 15 - 17 tạ/ha. Tiềm năng năng suất
đậu xanh của chúng ta khá lạc quan. Tuy nhiên vì là cây chống đói, lấp vụ, xen
canh nên ít đƣợc đầu tƣ đúng mức, vì vậy cần thiết phải xây dựng quy trình kỹ
thuật thâm canh tổng hợp để trong tƣơng lai gần Việt Nam sẽ đứng đầu về kinh
nghiệm canh tác đậu xanh.
Nhƣ vậy có thể xem đậu xanh là cây trồng dân dã nhƣng giá trị kinh tế
cao vì là nguồn thực phẩm có nhiều dinh dƣỡng, đa dạng trong đời sống, thích
hợp với tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu.
Từ năm 1983, diện tích, năng suất và sản lƣợng tăng nhƣng chậm và
không liên tục. Năng suất đậu xanh thời kỳ 1981 - 1985 là 5,5 tạ/ha, 1986 - 1991
là 5,9 tạ/ha. Năm 1999 là năm có năng suất cao nhất: 8,2 tạ/ha nhờ sự chuyển
13
đổi giống mới. Năng suất đậu xanh ở các tỉnh phía Nam thƣờng cao hơn các tỉnh
phía Bắc, một số vùng ở An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang đã đạt gần 20 tạ/ha
trong vụ Đông Xuân vì có nhiều điều kiện thích hợp cho canh tác đậu xanh
(Phạm Văn Thiều, 2002).[8]
Từ đó rút ra những yếu tố làm hạn chế năng suất đậu xanh là:
- Giống sử dụng là các giống cũ của địa phƣơng không đƣợc chọn lọc.
- Đậu xanh thƣờng đƣợc trồng trên đất xấu không thể trồng cây lƣơng
thực vì thiếu nƣớc, đất tranh thủ, trồng xen, gối với các loại cây trồng khác nên
không có điều kiện thâm canh.
- Quan niệm là cây trồng phụ nên đƣợc mùa là tốt nếu không cũng ít
quan tâm bằng cây trồng chính vì thế tất cả các khâu chọn giống, chăm sóc xới
xáo, tƣới nƣớc, bảo vệ thực vật không đúng phƣơng pháp khoa học.
- Nông dân nghèo vùng sâu vùng xa còn thiếu thông tin, chƣa có điều kiện
tiếp cận những thành tựu về cây đậu xanh.
Tuy có những thành tựu lớn về giống, về giá trị kinh tế. Nhƣng diện tích
trồng đậu xanh vẫn còn hạn chế so với các cây họ đậu khác (đậu nành, đậu
phộng). Hầu hết diện tích trồng đậu xanh trong nƣớc đều nhỏ lẽ, manh mún,
thƣờng đƣợc trồng xen, gối vụ với các cây trồng khác. Một số nguyên nhân ảnh
hƣởng đến sự phát triển diện tích canh tác đậu xanh:
Năng suất đậu xanh còn hạn chế so với năng suất các cây trồng khác (điển
hình là đậu nành) trên cùng 1 diện tích.
Đậu xanh khá mẫn cảm với một số loại sâu bệnh nên chi phí cho thuốc
bảo vệ thực vật còn cao.
Công đoạn thu hoạch còn gặp nhiều khó khăn, thƣờng thì thu hoạch từ 2 -
4 lần, nên gặp khó khăn về công lao động (lao động nông thôn hiện nay rất khan
hiếm)
Chƣa có cơ giới hoá trong công đoạn thu hoạch đậu xanh, hiện nay công
đoạn thu hoạch và tách hạt thƣờng chỉ thực hiện thủ công, rất khó khăn cho việc
trồng với diện tích lớn.
14
Đậu xanh (Vigna radiata) là cây họ đậu ngắn ngày có giá trị kinh tế và
dinh dƣỡng cao. Trong hệ thống sản xuất cây lƣơng thực và cây thực phẩm của
nƣớc ta hiện nay, cây đậu xanh có vị trí quan trọng trong cơ cấu luân canh, xen
canh và gối vụ. Đặc biệt ở các tỉnh Bắc Trung bộ, Đông Nam bộ và Tây
Nguyên, cây đậu xanh đã trở thành cây trồng chính trong sản xuất vụ Hè.
Tình hình sản xuất, tiêu thụ và chế biến đậu xanh ở nƣớc ta đang có chiều
hƣớng gia tăng nhờ khai thác đƣợc một số ƣu điểm quan trọng của đậu xanh. Đó
là khả năng cung cấp dinh dƣỡng cao, dễ tiêu hoá, khả năng cải tạo đất nhờ sự
cộng sinh của vi khuẩn nốt sần với hệ rễ. Cây đậu xanh là cây trồng ngắn ngày
dễ luân canh, xen canh. Tuy nhiên, năng suất đậu xanh của nƣớc ta còn thấp, chỉ
đạt khoảng 4,5 - 6,8 tạ/ha do bộ giống đậu xanh còn nghèo nàn, đồng thời các
biện pháp kỹ thuật cũng chƣa đƣợc nông dân áp dụng và đầu tƣ.[9]
Để giải quyết các yếu tố hạn chế trong sản xuất đậu xanh nêu trên, từ năm
2003 đến nay Tập thể cán bộ nghiên cứu khoa học của Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Đậu đỗ -Viện Cây lƣơng thực và Cây thực phẩm - Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam đã chọn lọc thành công giống đậu xanh mới ĐX11.
Giống đậu xanh ĐX11 đã đƣợc Bộ Nông nghiệp và PTNT cho phép sản xuất thử
từ tháng 6 năm 2008.[9]
Giống đậu xanh ĐX11 có các đặc điểm chính nhƣ sau: Thời gian sinh
trƣởng từ 70 - 75 ngày; chiều cao cây từ 50 - 65 cm, dạng lá hình tam giác vỏ
quả màu nâu đen, vỏ hạt dạng mỡ có màu xanh nhạt. ĐX11 có khả năng chống
chịu sâu bệnh và chống đổ tốt. ĐX11 có số quả trung bình đạt từ 11,6 - 18,5
quả/cây; số hạt/quả từ 11,1 - 12,2; khối lƣợng 1.000 hạt biến động từ 63,0 - 72,4
g. Năng suất thực thu của ĐX11 cao hơn so với giống V123 (là giống đang đƣợc
trồng đại trà) là 15,6% và đạt từ 15,67 - 17,51 tạ/ha. ĐX11 là giống có tính ổn
định khá qua các mùa vụ và qua các năm. ĐX11 có hàm lƣợng dinh dƣỡng nhƣ
Protein thực vật nói chung và protein đậu xanh nói riêng là nguồn cung cấp
đạm dễ tiêu hoá cho con ngƣời và một số vật nuôi. Trong hạt đậu xanh, các
phân tử protein chiếm khoảng 23 - 28% và đƣợc chia thành hai nhóm: Nhóm
protein đơn giản và nhóm protein phức tạp. Trong nhóm protein đơn giản chủ
15
yếu là globulin, chiếm từ 60 - 80%, còn lại là albumin và một số loại khác.
Chức năng chính của protein dự trữ là cung cấp amino acid và nitơ cho quá
trình nảy mầm của hạt. Protein đậu xanh có chứa đầy đủ các tính chất chung
nhất của protein. Ngoài ra, protein đậu xanh còn có một số tính chất riêng biệt
nhƣ khả năng hút nƣớc và dầu tạo nhũ tƣơng, khả năng hoà tan trong nƣớc.
Đó là một trong những yếu tố quan trọng trong nghiên cứu và công nghệ sản
xuất các sản phẩm từ đậu xanh.
Protein đậu xanh đƣợc đánh giá là có chất lƣợng tốt do có chứa đầy đủ
các amino acid không thay thế và hàm lƣợng của chúng tƣơng đối trùng với
tiêu chuẩn dinh dƣỡng dành cho trẻ em do tổ chức nông lƣơng thế giới (FAO)
và tổ chức y tế thế giới (WHO) đƣa ra.[10]
Lipid là những hợp chất hữu cơ có trong tế bào sống, không hoà tan trong
nƣớc nhƣng tan trong các dung môi hữu cơ không phân cực nhƣ ether,
petroleum ether, benzen Lipid cũng là thành phần cấu tạo quan trọng của
màng sinh học, là nguồn dự trữ nhiên liệu cung cấp năng lƣợng cho cơ thể.
Lipid cùng với protein và polysaccarid cung cấp năng lƣợng cho sự nẩy mầm
của hạt. Tuy hàm lƣợng lipid trong hạt đậu xanh chiếm tỷ lệ thấp (trung bình
khoảng 1,3%), nhƣng đó lại là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá phẩm chất
và khả năng bảo quản hạt (Trần Đình Long, 1998) [11].
Tóm lại, việc nghiên cứu và xác định hàm lƣợng protein và lipid có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá chất lƣợng hạt đậu xanh.Ngoài ra lá non
và ngọn của cây đậu xanh có thể đƣợc dùng để làm rau, muối dƣa. Thân lá
xanh của cây đậu xanh dùng làm thức ăn cho chăn nuôi, còn thân lá già đem
phơi khô, nghiền nhỏ làm bột dự trữ cho gia súc.
Ngoài ra, đậu xanh còn có giá trị trong y học. Hạt đậu xanh có vị ngọt,
tính mát, không độc nên có tác dụng giải nhiệt, giải bách độc.
2.2.3. Tình hình sản xuất đậu xanh ở Sơn La
Sơn La là một tỉnh nằm ở khu vực Tây Bắc Việt Nam, phía Bắc giáp ba
tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Lai Châu. Phía đông giáp với hai tỉnh Phú Thọ, Hoà
Bình. Phía Tây giáp tỉnh Điện Biên. Phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá và nƣớc
16
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Sơn La có diện tích đất tự nhiên 14.125 Km².
Chủ yếu là núi và cao nguyên. Trong đó đất nông nghiệp chiếm trên 11%, diện
tích rừng và đất có khả năng phát triển lâm nghiệp chiếm 73% cùng hệ thống
sông, suối khá dày, độ dốc lớn và nguồn khoáng sản khá phong phú,đa dạng.
Dân số khoảng 1.007.5 nghìn ngƣời ( năm 2006) trong đó khoảng 53% số dân
trong độ tuổi lao động, là nguồn lực của Sơn La trong phát triển kinh tế xã hội.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21˚C, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa đông lạnh và khô, ít mƣa; mùa hè mƣa nhiều và không có bão.
Tỉnh Sơn La có điều kiên sinh thái, đất đai thuận lợi cho cây đậu xanh
sinh trƣởng, phát triển và cho năng suất cao. Trong những năm qua diện tích,
sản lƣợng đậu xanh của tỉnh có sự gia tăng đáng kể.
Bảng 2.2.1. Diện tích sản lượng đậu xanh của tỉnh Sơn La
Năm
Diện tích (ha)
Sản lƣợng (tấn)
2007
1386
1428
2008
1686
1571
2009
1797
1851
2010
1822
1987
2011
1988
2121
( Nguồn: cục thống kê Sơn La)[11]
Theo bảng cho thấy năng suất đậu xanh của tỉnh Sơn La những năm
qua biến động không đều.
Năm 2007 đạt 1428 tấn và đạt cao nhất vào năm 2011 (2121 tấn) tuy có
tăng lên nhƣng không đáng kể. Diện tích trồng đậu xanh của toàn tỉnh trong
những năm qua có xu hƣớng tăng lên, năm 2007 là 1386 ha và đạt cao nhất vào
năm 2011 là 1988 ha. Cùng với sự tăng lên về diện tích thì sản lƣợng cũng tăng
lên.
Tuy nhiên thực tế sản xuất trong tỉnh cho thấy tình hình phát triển cây
đậu xanh còn nhiều hạn chế, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng đất đai, điều kiện
sinh thái và mức độ quan tâm của các cấp lãnh đạo trong tỉnh, việc mở rộng diện
17
tích còn nhiều hạn chế, mức đầu tƣ thấp chính vì vậy năng suất đậu tƣơng còn
thấp và không ổn định so với các tỉnh khác trong cả nƣớc: Năng suất đậu xanh
năm 2007 là 12,8 tạ/ha, năm 2008 là 13,4 tạ/ha, năm 2009 là 13,2 tạ/ha, năm
2010 là 12,8 tạ/ha và năm 2011 la 14 tạ/ha. [11]
18
PHẦN III. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1.1.Vật liệu nghiên cứu
*Giống đậu xanh ĐX11: Do trung tâm đậu, viện cây lƣơng thực chọn tạo
*Phân bón :
- Phân đạm urê (46%N)
- Phân lân lâm thao (Super lân 16% P
2
O
5
)
- Phân chuồng hoai mục
- Phân kaliclorua (60%K
2
O)
3.1.2. Thời gian, địa điểm và điều kiện nghiên cứu
*Thời gian nghiên cứu: Từ 2/2013 đến tháng 4/2013
*Địa điểm nghiên cứu Bản Nà Mun xã Chiềng Khay huyện Quỳnh Nhai
*Điều kiện đất đai : thí nghiệm đƣợc bố trí trên đất đồi tại bản Nà Mùn xã
Chiềng Khay huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La
3.1.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của mật độ trồng ,phát triển và năng súât của đậu
xanh ĐX11trong điều kiện vụ xuân 2013 bản Nà Mùn xã Chiềng Khay huyện
Quỳnh Nhai
- Nghiên cứu ảnh hƣởng liều lƣợng phân bón đến sinh trƣởng ,phát triển
và năng suất của giống đậu xanh ĐX11 trong điều kiện xuân 2013 tại Quỳnh
Nhai Sơn La
3.2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CƢU
- Giống thí nghiệm: sử dụng ĐX11
- Thời gian gieo trồng tháng 02/2013
- Trồng với mật độ 35 cây/m²
- Công thức thí nghiệm 4 ô chiều dài 4m rộng 2m với 3 lần nhắc lại bố trí
theo kiểu ngẫu nhiên hoàn chỉnh
19
3.3. QUY TRÌNH KỸ THUẬT ÁP DỤNG TRONG THÍ NGHIỆM
3.3.1 Phương pháp bón phân
+ PB1: Nền: 8 tấn phân chuồng + 400kg vôi bột /ha)
+ PB2: Nền: 20kg N + 60kg P
2
O
5
+ 40kg K
2
O/ha
+ PB 3: (Nền: 30 N + 90 P
2
O
5
+ 60 K2O)kg/ha
+ PB4: Nền: 40kg N + 120kg P
2
O
5
+ 80kg K
2
O/ha
- Diện tích thi nghiệm
+ Diện tích mỗi ô là 2 x 5m²
Dải bảo vệ
Dải bảo vệ
PB1
PB2
PB3
PB4
PB4
PB3
PB2
PB1
PB1
PB2
PB3
PB4
- Cách bón bón lót toàn bộ bằng phân chuồng + phân lân + vôi bột.
- Bón thúc khi cây ra 2 - 3 lá thật: Bón toàn bộ lƣợng phân đạm và kali.
- Làm cỏ, xới xáo 2 lần
- Lần 1: khi cây có 2 - 3 lá thật kết hợp với bón thúc.
- Lần 2: Sau lần 1 thứ 12 - 15 ngày (khi cây có 5 - 6 lá).
- Phòng trừ sâu bệnh theo quy trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM trên
cây đậu xanh)
3.4 CÁC CHỈ TIÊU THEO DÕI
3.4.1 Các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển
- Thời gian gieo đến mọc(ngày)
- Tỷ lệ mọc mầm (%)
- Thời gian từ gieo đến ra hoa, thời gian từ gieo đến thu hoạch (ngày)
- Thời gian ra hoa (ngày)
- Chiều cao thân chính (cm)
20
- Đƣờng kính thân (cm)
-Tích lũy chất khô (g) : Cân sau khi sấy khô đến khối lƣợng không đổi
của 5 cây trên mỗi công thức ở cả 3 lần nhắc lại.
- Các yếu tố thành năng suất: Trƣớc khi thu hoạch mỗi ô thu 10 cây
để đo đếm.
- Tổng số cành cấp 1 trên cây
- Tổng số quả trên cây, tính tỷ lệ quả chắc (%)
- Tổng số đốt mag quả trên thân chính
- Xác định khối lƣợng 1.0000 hạt (g)
- Năng suất cá thể (g/cây): Khối lƣợng hạt trung bình của 10 cây mẫu
năng suất cá thể = khối lƣợng hạt 10 cây/10
- Năng xuất lý thuyết (tạ/ha) = Năng suất cá thể x mật độ x 10.000m²
- Năng suất thực thu (tạ/ha) = (Năng suất ô thí nghiệm /4m²) x 20m².
- Mức độ gây hại:đƣợc dánh giá theo 10TCN 468 - 2005
- Mức độ nhiễm bệnh: đƣợc dánh giá theo 10TCN 468 - 2005
+ Bệnh gỉ sắt: Đánh giá theo cấp độ bệnh từ 0 - 5
Cấp 0: Là không bị bệnh
Cấp 1: 1 - 5% diện tích lá bị bệnh
Cấp 2: 6 - 10% diện tích lá bị bệnh
Cấp 3: 11 - 25% diện tích lá bị bệnh
Cấp 4: 26 - 50% diện tích lá bị bệnh
Cấp 5: > 50% diện tích lá bị bệnh
+ Bệnh lở cổ rễ (%): Đƣợc tính bằng số cây bị bệnh/ số cây điều tra (điều
tra toàn bộ số cây/ô).
+ Bệnh đốm nâu, đốm đen: Điều tra 10 cây/ô theo 5 điểm chéo góc vào
thời điểm trƣớc thu hoạch:
Rất nhẹ - cấp 1 < 1% diện tích lá bị hại
Nhẹ - cấp 3 1 - 5% diện tích lá bị hại
Trung bình - cấp 5 > 5 - 25% diện tích lá bị hại
Nặng - cấp 7 > 25% - 50% diện tích lá bi hại
21
Rất nặng - cấp 9 >50% diện tích lá bị hại
3.5. PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU:
Số liệu đƣợc xử lý trên excel.
22
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1.Ảnh hƣởng của liều lƣợng phân bón đến thời gian và tỉ lệ mọc mầm của
giống đậu xanh ĐX11
Qua quá trình nghiên cứu em thấy giống có yếu tố di truyền nên giai đoạn
mọc mầm này liều lƣợng phân bón không ảnh hƣởng tới và thời gian mọc mầm
của giống đậu xanh ĐX11 là 7 ngày và đƣợc thể hiện qua bảng sau
Bảng 4.1. Bảng thời gian và tỉ lệ mọc mầm của giống đậu xanh ĐX11
Công thức bón
TG. từ
Gieo - mọc
(ngày)
Tỷ lệ mọc mầm
(%)
Tỷ lệ mọc mầm
t.bình của giống
(%)
CT1
7
97.1
96.7
CT2
7
96.2
CT3
7
98.2
CT4
7
95.0
Mọc mầm là quá trình biến đổi sinh hóa trong hạt và là quá trình trao đổi
năng lƣợng giữa hạt với bên ngoài hút ẩm để hạt chƣơng lên và nẩy mầm
Hạt đậu xanh sẽ nẩy mầm khỏe, đồng đều nếu bảo đảm đƣợc 2 yếu tố
nhiệt và ẩm. Nhiệt độ thích hợp là từ 30 - 32◦C, độ ẩm khoảng 75%.
Khi đậu mọc, 2 lá mầm tách ra và đôi lá thật đầu tiên xuất hiện, đó là 2 lá
đơn, mọc đối. Tiếp sau đó mới xuất hiện các lá kép. Lá kép mọc cách, lá thƣờng
to bản và cả 2 mặt lá đều có lông tơ
Qua bảng 4.1 trên: Ta tháy liều lƣợng phân bón không ảnh hƣởng
đến thời gian và tỉ lệ mọc mầm của đậu xanh giữa các công thức và tỉ lệ
mọc mầm trung bình của giống là 95,7% trong đó lệ mọc mầm tốt nhất là
theo công thức 3 là 98% và đƣợc biểu diến nhƣ biểu đồ sau.
23
Biểu đồ 4.1. Biểu đồ thể hiện thời gian và tỉ lệ mọc mầm của giống đậu
xanh ĐX11
4.2. Ảnh hƣởng của liều lƣợng phân bón đến thời gian sinh trƣởng của
giống đậu xanh ĐX11 (đơn vị: ngày)
Mỗi cá thể thực vật từ khi sinh ra, trải qua quá trình sinh trƣởng và phát
triển và kết thúc bằng chết tự nhiên. Ở thực vật có hoa, quá trìn sinh trƣởng và
phát triển bắt đầu từ hạt nảy mầm và tiếp theo là hàng loạt các quá trình phát
sinh hình thái, sinh lý, sinh hoá (gọi tắt là trƣởng và phát triển).
Hợp tử phôi trong hạt nảy mầm cây con cây
trƣởng thành già chết
Thời gian tồn tại của mỗi loài thực vật có thể dài hay ngắn khác nhau
đƣợc gọi là tuổi thọ.
Sinh trƣởng là sự tạo mới các yếu tố cấu trúc một cách không thuận
nghịch của tế bào, mô và toàn cây, kết quả dẫn đến sự tăng về số lƣợng, kích
thƣớc, thể tích, sinh khối của chúng ( thay đổi về mặt hình thái).
- Qua thời gian nghiên cứu thí nghiệm thực tiến em thấy lyều lƣợng phân
bón có ảnh hƣởng đến thời gian sinh trƣởng của giống đậu xanh ĐX11 thể hiện
qua bảng sau.
24
Bảng 4.2.Bảng Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến thời gian sinh
trưởng của giống đậu xanh ĐX11
Công
thức
bón
Thời gian
mọc - ra hoa
Thời gian
ra hoa – thu
lần 1
Thời gian từ
thu lần 1 –
tận thu
Tổng thời
gian ST
TGST
của
giống
CT1
57
17
17
79
80
CT2
56
16
17
75
CT3
55
14
15
73
CT4
57
16
16
78
Đậu xanh ĐX11 là loại cây thực phẩm có thời gian sinh trƣởng ngắn(63 -
80ngày), dễ trồng, có thể trồng đậu xanh luân canh trên đất lúa. Trồng đậu xanh
còn giúp bồ dƣỡng và cải tạo đất tốt nhờ xác bã, thân, lá để lại cho đất (tƣơng
đƣơng 8 - 16 tân/ha phân xanh) và các nốt sần ở rễ cung cấp đạm cho cây(tƣơng
đƣơng 20 - 40 kg N/ha, hay 42 - 85 kg Ure/ha). Do đó mà sau mùa đậu đất càng
trở nên màu mỡ hơn [1]
Qua bảng đồ trên ta thấy liều lƣợng phân bón có ảnh hƣởng đến thời
gian mọc đến ra hoa của giống đậu xanh ĐX11 giảm dần từ 57 ngày, thời
gian mọc đến ra hoa 17 ngày, thời gian từ thu lần 1 đến tận thu 17 ngày và
tổng thời gian sinh trƣởng là 79 ngày ở công thức 1 có liều lƣợng phân bón
(Nền: 8 tấn phân chuồng + 400kg vôi bột /ha) xuống 55 ngày thời gian mọc
đến ra hoa,14 ngày thời gian ra hoa đến thu lần 1, 16 ngày thời gian thu lần
1 đến tận thu đến tận thu, và tổng thời gian sinh trƣởng là 73 ngày ở công
thứ 3 có liều lƣợng phân bón (Nền: 30 N + 90 P
2
O
5
+ 60 K
2
O)kg/ha sau đó thời
gian mọc đến ra hoa tăng lên 57 ngày, 16 ngày ở thời gian ra hoa đến tận thu lần
1, là 16 ngày ở thời gian tận thu, và tổng thời gian sinh trƣởng 78 ngày ở công
thức 4 có liều lƣợng phan bón (Nền: 40kg N + 120kg P
2
O
5
+ 80kg K
2
O /ha) và
tổng thời gian sinh trƣởng của giống là 80 ngày ở công thức 1 có liều lƣợng
phân bón là (Nền: 8 tấn phân chuồng + 400kg vôi bột /ha),
25
Liều lƣợng phân bón cho giống đậu xanh ĐX11 sinh trƣởng ngắn nhất 55
ngày theo công thức 3 có liều lƣợng phân bón (Nền: 30N + 90 P
2
O
5
+ 60
K
2
O)kg/ha. Đƣợc biểu diến qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 4.2. Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến
các giai đoạn sinh trưởng của đậu xanh ĐX11
4.3. Ảnh hƣởng của liều lƣơng phân bón đến đặc điểm hình thái của giống
đậu xanh ĐX11
Đặc điểm hình thái là là hình ảnh của động vật, thực vật thây đổi qua từng
giai đoạn phát triển và có những đặc điểm hình thái khác nhau qua từng giai
đoạn phát triển đó,trng đó có ở đậu xanh ĐX11 qua thự tiến em thấy liều lƣợng
phân bón có ảnh hƣởng lớn tới các đặc điểm hình thái quả nó