Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Câu hỏi ôn tập triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.09 KB, 102 trang )


ĐỀ CƯƠNG ÔN THI
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
HÀ NỘI
Câu 4: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa?
a) Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý
thức, sinh ra ý thức.
- Ý thức là sự phản ánh thê sgiới vật chất vào bộ não con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trờ lại vật chất.
- ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính ănng động, sáng tạo
nên có thể tác động trờ lại vật chất, góp phần cải biến thế giới vật chất.
- ý thức tác động theo cả hướng tích cực và tiêu cực. í thức phản ánh đúng
hiện thực khách quan thì có tác dụng thúc đẩy và ngược lại.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người.
- Tuy nhiên, xét đến cùng, ý thức vẫn phải phụ thuộc vào thế giới vật chất và
các điều kiện khách quan.
c) ý nghĩa phương pháp luận
- Quán triệt nguyên tắc khách quan trọng nhận thức và hành động. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng, hành động theo quy
luật khách quan. Không lấy ý m,uốn chủ quan để xây dựng, hoạch định chính sách
phát triển kinh tế - xã hội… Cần tránh thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, định
kiến, không trung thực.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
con người. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải nâng cao trình độ tri
thức, bồi dưỡng, rèn luyện tư duy trí tuệ, trình độ lý luận…. Chống thái độ ỷ lại,
bảo thủ trì trệ…
- Khắc phục, ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí. Đó là lối suy nghĩ và hành
động gảin đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan. Để khắc phục phải nâng cao


trình độ tư duy lý luận cho con người.
2
Câu 4.1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm mối liên hệ
Liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau,
sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tás và chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính
của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong
mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động ảnh
hưởng của các sự vật, hiện tượng khác.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Chúng ta đều rõ, dù các sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu chăng nữa thì cũng
chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên, chung đều chịu sự chi
phối của quy luật vật chất . Ngay cả ý thức, tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Do vậy, ý thức tinh thần cũng bị
chi phối bởi quy luật vật chất.
2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan- nghĩa là mối liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, chỉ phụ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là
mối liên hệ vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.
Tính phổ biến- nghĩa là mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư
duy; có ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay trong cùng một sự vật, trong bất kỳ thời gian nào,
không gian nào luôn có mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
Tính đa dạng, phong phú – rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc vào
góc độ xem xét: chẳng hạn, mối liên hệ bên trong – bên ngoài mối liên hệ tất yếu –
ngẫu nhiên; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp; mối liên hệ chủ yếu – thứ yếu, mối

liên hệ xa – gần Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trò khác nhau trong quá trình vận
3
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự phân chia các cặp mối liên hệ này cũng
chỉ là tương đối. Ví dụ, mối liên hệ này trong quan hệ này được coi là mối liên hệ
bên trong nhưng trong quan hệ khác lại được coi là mối liên hệ bên ngoài.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu mối liên hệ phổ biến cho ta ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện đòi hỏi:
+ Khi nhận thức sự vật phải nhận thức trong mmm với các sự vật, hiện
tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự vật đó.
+ Để cải tạo sự vật trên thực tế phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp.
+ Phải biết phân loại đúng các mối liên hệ, trên cơ sở đó nhận thức đúng và
giải quyết để thúc đẩy sự vật tiến lên.
+ Chống lại quan điểm chiết trung – lắp ghép một cách máy móc vô nguyên
tắc những cái trái ngược nhau vào làm một; chống lại nguỵ biện – một kiểu đánh
tráo các mối liên hệ một cách có ý thức, có chủ định.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể. Khi nhận thức sự
vật thì phải xem xét sự vật luôn trong điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian
cụ thể. Phải xem xét sự vật ra đời trong hoàn cảnh nào? Nó tồn tại, vận động, phát
triển trong những điều kiện nào? Trong hoạt động thực tiễn khả năng giải quyết
vấn đề thực tiễn nào phải có những biện pháp rất cụ thể, không được chung chung.
Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận chung vào thực tiễn phải xuất phát từ
những điều kiện thực tiễn lịch sử – cụ thể. Quan điểm lịch sử – cụ thể chống lại
quan điểm giáo điều. Như vậy, chính quan điểm triết học Mác-Lênin về mối liên hệ
phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử – cụ thể
- Chống lại quan điểm phiến diện, một chiều trong nhận thức cũng như trong
hành động.
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi không được bình quân, dàn đều khi xem xét

sự vật mà phải có trọng tâm, trọng điểm.
4
II. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm phát triển
Theo triết học duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học chỉ
khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật. Nguồn gốc của s phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật.
Đó là mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn đó quy định sự vận động, phát triển của sự vật.
2. Tính chất của sự phát triển
Phát triển mang tính khách quan, nghĩa là phát triển của sự vật là tự thân,
nguồn gốc của phát triển nằm ngay trong sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, chỉ phụ thuộc vào mâu thuẫn bên trong sự vật.
Phát triển mang tính phổ biến. Phát triển diễn ra cả trong tự nhiên, xã hội và
tư duy, diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Phát triển mang tính đa dạng, phong phú, tức là tuỳ thuộc vào hình thức tồn
tại cụ thể của các dạng vật chất mà phát triển diễn ra cụ thể khác nhau. Chẳng hạn,
ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả năng thích nghi của cơ
thể trước môi trường; ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng
hoàn thiện hơn.
Trong xã hội, phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã
hội phục vụ con người.
Trong tư duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức vấn đề gì đó ngày càng
đầy đủ, đúng đắn hơn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về sự phát triển rút ra những ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Khi nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong sự vận động, phát triển,
không nhìn nhận sự vật đứng im, chết cứng, không vận động, không phát triển.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại
khó, ngại đổi mới, dễ bằng lòng với thực tại.

5
- Nhận thức sự vật phải thấy được khuynh hưóng phát triển của nó, để có
những phương án dự phòng. Có như vậy con người mới chủ động trong hoạt động
tránh bớt được vấp váp, rủi ro; nghĩa là, con người sẽ chủ động, tự giác hơn trong
hoạt động thực tiễn.
- Phát triển là khó khăn, phức tạp. Vì vậy, trong nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải bình tĩnh, tin tưởng vào
tương lai. Như vậy, quan điểm triết học Mác-Lênin về phát triển là cơ sở lý luận
của quan điểm phát triển.
Câu 6: Qui luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại?
1. Về phạm trù chất và lượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính để phân biệt sự vật này với
sự vật khác.
Cần thấy rõ thuộc tính là cái để nhận biết chất, xác định chất, còn chất lại
được tạo thành từ kết cấu của sự vật. Trước hết, chất được tạo bởi các nhân tố tạo
thành vật. Vật được tạo thành bởi các nhân tố khác nhau thì chúng có chất khác
nhau. Chẳng hạn sự kết hợp giữa hyđrô và ôxy (H
2
O) tạo thành chất nước, nhưng
sự kết hợp giữa canxi và ôxy (CaO) lại tạo thành vôi sống.
Khi nói đến chất của sự vật còn phải nhận thấy mỗi vật không phải chỉ có một
chất mà nó có thể có nhiều chất. Bởi vì, mỗi sự vật đều có nhiều thuộc tính và mỗi
thuộc tính lại có thể đặc trưng cho một chất. Chẳng hạn NaCl có thể gọi là chất
muối, nhưng nó lại có các thuộc tính như mặn, kết tinh, tính chất hoà tan. Vì vậy
nó có thể được gọi là chất mặn, chất kết tinh hay chất hoà tan v.v… Đồng có thuộc
tính là dẫn điện, dẫn nhiệt… Vì vậy có thể gọi nó là chất dẫn điện, chất dẫn
nhiệt…

Mỗi sự vật không phải chỉ có chất mà còn có lượng. Chất của sự vật không
bao giờ tồn tại tách rời với mặt lượng của nó. Lượng và chất là hai mặt của tính qui
định luôn cùng tồn tại trong một sự vật. Chất nào cũng phải có một lượng nhất
định và lượng nào cũng là lượng của một chất nhất định. Tuy nhiên giữa chất và
lượng cũng có những sự khác nhau nhất định. Lượng cũng là tính qui định vốn có
của vật nhưng lại biểu thị độ lớn nhỏ, trình độ phát triển cao, thấp hay tốc độ vận
động nhanh, chậm của chất.
6
Chính vì vậy, lượng được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui
định vốn có của sự vật, thể hiện số lượng, qui mô, trình độ phát triển hay tốc độ
vận động của một chất.
Trong thực tế, lượng có thể biểu hiện bằng nhiều cách khác nhau nhưng cách
thức phổ biến là bằng các con số, các đại lượng hay các tập hợp… Giữa các con số
và các đại lượng, các tập hợp… có những mối quan hệ riêng vì vậy người ta có thể
tách chúng khỏi những sự vật cụ thể để tính toán. Đó là khả năng trừu tượng hoá
cao của tư duy con người và là cơ sở để nảy sinh môn toán học.
Một điều cũng cần nhấn mạnh là khi nói lượng là lượng của chất. Vì vậy, một
vật có nhiều chất thì vật cũng có nhiều lượng. Chẳng hạn, mỗi con người đều có
những thuộc tính sinh học và thuộc tính xã hội. Nếu xem con người là một “chất
sinh học” thì lượng ở đây là chiều cao, cân nặng… Nhưng con người lại cũng có
thể xem là có “chất thanh niên”, “chất trung niên”, thậm chí là “chất chính trị”,
“chất quản lý”. Mỗi loại đó có một loại lượng khác nhau. Chẳng hạn “chất chính
trị” có lượng của nó là quá trình tham gia các hoạt động chính trị, những điểm nổi
bật trong quá trình này. Nhưng nếu nói đến “chất quản lý” lại phải kể đến quá trình
tham gia quản lý, những chức vụ trong quản lý, những thành tích trong quản lý mà
một người cụ thể đã từng đảm nhận và hoàn thành nhiệm vụ của mình.v.v
Như vậy, chất và lượng có sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên sự khác biệt
này chỉ là tương đối và nhiều khi các số đo về lượng lại phản ánh “chất” là thế nào.
Chẳng hạn để xác định thể trạng của một con người, không thể không căn cứ vào
chiều cao, cân nặng, áp huyết Mặt khác ngay bản thân các con số cũng không

phải chỉ biểu thị lượng của sự vật. Trong hệ thống các con số, chúng ta có số chẵn
và số lẻ, những số hữu tỉ và những số vô tỷ chúng có những thuộc tính khác
nhau, vì vậy cũng có thể xem giữa chúng có sự khác biệt về chất.
2. Quan hệ biện chứng sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
Lượng và chất không chỉ gắn bó với nhau như ở phần trên đã đề cập, mà
chúng còn gắn bó với nhau trong toàn bộ quá trình vận động và biến đổi của sự
vật. Do thuộc tính vận động của vật chất nên trong thế giới khách quan không có
cái gì là bất động, chúng luôn luôn biến hoá dưới hình thức này hay hình thức
khác, mặc dù sự biến hoá này có thể nhanh chậm khác nhau với vô vàn các hình
thức khác nhau. Tuy vậy, sự biến đổi của bất kỳ sự vật nào dù lớn hay nhỏ, dù vô
cơ hay hữu cơ cũng đều bắt đầu từ sự biến đổi về lượng. Chẳng hạn, nước lỏng
muốn chuyển thành thể hơi, nhiệt độ của nó phải tăng từ thấp đến cao. Một con
người muốn phát triển phải có sự tăng trưởng về thể lực, về trí tuệ và khi đạt đến
7
một trình độ phát triển nào đó mới chuyển từ thơ ấu sang nhi đồng, từ nhi đồng
sang thiếu niên Mọi sự “bùng nổ”, “bất ngờ” đều là kết quả của những sự tích tụ
những nguồn năng lượng hay những yếu tố nào đó đến mức phải phá vỡ chất cũ,
tạo ra chất mới. Mọi sự tích tụ về lượng có thể diễn ra nhanh chóng hoặc lâu dài
nhưng ở một phạm vi nào đó nó chưa thể tạo ra sự biến đổi về chất hay nói đúng
hơn, nó chưa tạo ra sự biến đổi căn bản về chất. Trong trường hợp đó, sự vật “vẫn
là nó”, nó chưa chuyển thành cái khác. Lượng và chất ở thời điểm này được xem là
thống nhất với nhau. Chẳng hạn, nước lỏng trong khoảng từ 0
o
C đến 100
o
C dưới áp
suất 1atm, dù nhiệt độ có tăng hay giảm vẫn không làm cho nước lỏng biến thành
hơi. Khoảng giới hạn từ 0
o
C đến 100

o
C được gọi là độ của nước lỏng.
Vậy, độ là khoảng giới hạn mà trong đó những sự biến đổi về lượng không
làm cho chất biến đổi căn bản.
Trong thế giới, không có cái gì tồn tại vĩnh viễn, không có cái gì không có
giới hạn. Vì vậy, mọi cái đều có độ của nó. Trong con người từ sức mạnh cơ
bắp đến thần kinh đều có độ. Vượt khỏi giới hạn đó con người không đủ sức chịu
đựng. Thậm chí, như V.I.Lênin nhận định, ưu điểm mà vượt quá giới hạn của nó
cũng trở thành khuyết điểm. Điểm giới hạn của sự biến đổi về lượng trong một
chất xác định được gọi là điểm nút.
Điểm nút là điểm mà ở đó bất kỳ một sự biến đổi nào về lượng cũng tạo ra sự
biến đổi về chất. Điểm nút là điểm ở hai đầu của độ. Chẳng hạn, điểm nút của nước
lỏng là 0
o
C và 100
o
C. Khi nước ở 100
o
C nếu ta thêm bất kỳ một lượng nhiệt nào nó
cũng làm cho nước bốc hơi. Hoặc ngược lại, nếu nước đã ở 0
o
C thì ta giảm bất cứ
lượng nhiệt nào nước cũng chuyển thành thể rắn. ở những điểm nút đó “một giọt
nước” có thể làm tràn cốc nước hay “con ruồi đỗ nặng đòn cân”. Nhận thức được
điểm nút là nhận thức được sự chín muồi, là biết được thời cơ, vận hội hoặc cũng
có thể dự báo được những nguy cơ, những tai họa có thể ập đến Một nhà quản lý
nhận thức được điểm nút có thể có những quyết định hoạt động đúng đắn dứt khoát
để chuyển hóa hay để bảo tồn sự vật. Không nhận thức được điều đó, con người sẽ
hành động mù quáng, có thể gặp hậu họa hoặc bỏ lỡ thời cơ.
Sự chuyển biến từ chất cũ sang chất mới được gọi là “bước nhảy” hay “nhảy

vọt”. Bước nhảy là phạm trù dùng để chỉ quá trình chuyển hoá từ chất cũ sang chất
mới do kết quả của sự biến đổi về lượng tạo ra.
Việc nhận thức được “bước nhảy” trong quá trình phát triển là một bước tiến
trong sự nhận thức thế giới. Đó cũng là tiêu chí quan trọng để phân biệt quan điểm
biện chứng và quan điểm siêu hình. Theo quan điểm siêu hình, sự phát triển của
8
từng sự vật, hiện tượng cũng như của thế giới nói chung chỉ là sự tăng giảm thuần
túy về lượng. Đó là sự phát triển liên tục trong thời gian đi theo sự tiệm tiến dần
dần. Họ phủ nhận “bước nhảy” và cũng có nghĩa là phủ nhận vai trò của các cuộc
cách mạng trong sự phát triển xã hội. Phủ nhận “bước nhảy” về thực chất cũng là
phủ nhận sự biến đổi về chất. Bởi vì, khi chất cũ mất đi, chất mới ra đời thì nhất
định các nhân tố của nó phải đổi mới, các kết cấu vật chất cũng phải thay đổi và
điều đó tất yếu phải tạo ra sự gián đoạn. Học thuyết tế bào đã cho ta thấy “bước
nhảy” từ chất vô cơ sang chất hữu cơ. Học thuyết tiến hoá của Đácuyn đã cho thấy
“bước nhảy” từ loài sinh vật này lên loài sinh vật khác. Các cuộc cách mạng trong
lịch sử đã cho thấy “bước nhảy” từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh
tế - xã hội cao. Vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định “tính tiệm tiến mà không có bước
nhảy vọt thì không giải thích được gì cả”
(
1).
Tuy nhiên, bước nhảy có nhiều loại, nếu xét về thời gian có thể phân thành
bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy diễn
ra một cách nhanh chóng. Bước nhảy đột biến có thể diễn ra trong khoảnh khắc
như các vụ nổ hạt nhân. Nhưng trong xã hội, những cuộc cách mạng chính trị diễn
ra nhanh chóng cũng có thể được xem là bước nhảy đột biến trong xã hội. Trong
xã hội, những sự đột phá tạo nên những chuyển biến căn bản trong lĩnh vực khoa
học công nghệ, cũng có thể xem là những sự đột biến.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy diễn ra trong thời gian dài. Bước nhảy dần
dần không đồng nhất với sự biến đổi về lượng. Vì sự biến đổi về lượng chỉ diễn ra
trong khuôn khổ của chất cũ, còn bước nhảy dần dần lại là quá trình chất cũ mất đi

“dần dần” và chất mới “ dần dần” nảy sinh. Đó là quá trình thay đổi về chất.
Xét về qui mô có thể phân bước nhảy thành bước nhảy toàn bộ và bước nhảy
cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là biến đổi toàn diện về chất của sự vật còn bước nhảy
cục bộ là sự biến đổi về chất của từng bộ phận, từng mặt của sự vật đó.
Trong một cuộc cách mạng xã hội, việc chuyển từ một hình thái kinh tế - xã
hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác là bước nhảy toàn bộ. Nhưng sự
biến đổi từng bộ phận như: cách mạng chính trị, cách mạng khoa học kỹ thuật,
cách mạng văn hoá tư tưởng là những bước nhảy bộ phận. Bước nhảy bộ phận có
thể diễn ra đồng thời cũng có thể diễn ra trước sau ở những thời điểm khác nhau.
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ đều có thể diễn ra nhanh chóng (đột biến)
hoặc diễn ra dần dần.
(1)
V.I.Lênin: TT, Nxb TB, M, 1978, t. 29, tr.133
9
Quá trình lượng đổi dẫn đến chất đổi thực chất là quá trình tích tụ về lượng để
đến một thời điểm nào đó sẽ làm cho chất chuyển hoá. Đặc điểm của quá trình này
là không gây ra những chấn động mạnh, thậm chí còn “êm ái” “dễ chịu” nhưng kết
quả thì nhiều khi to lớn, bất ngờ. Hêghen đã từng nhận xét “Lượng, khi được coi
như một giới hạn bàng quan thì đó là mặt mà từ phía ấy vật đang tồn tại nào đó bị
tấn công một cách bất ngờ và sự tiêu diệt”
(
1).
Tuy nhiên, trong sự biến đổi của thế giới không phải chỉ có lượng đổi dẫn đến
chất đổi vì còn có quá trình ngược lại. Thực chất của quá trình ngược lại này là khi
chất đổi sẽ làm cho lượng biến đổi với tốc độ nhanh hơn và với qui mô lớn hơn.
Trong thế giới khách quan, ứng với một chất xác định chỉ có một lượng xác định.
Trong khuôn khổ của chất ấy, lượng có giới hạn tối đa và tối thiểu nhưng lượng
không thể vượt được giới hạn đó. Chẳng hạn, nước nguyên chất dưới áp lực 1 atm,
thể tích của nó có thể tăng dần lên khi nhiệt độ tăng từ 0

o
C đến 100
o
C, nhưng
lượng nước trong một nồi súp-de không thể vượt quá một giới hạn nào đó. Muốn
có một thể tích lớn hơn nó phải chuyển thành hơi. Chính ở trạng thái hơi, nước có
một kết cấu mới và do đó thể tích của nó tăng lên một cách đột ngột gây áp lực lớn
tác động vào pittông tạo ra sự vận hành của máy.
Trong lịch sử xã hội loài người, do sự thay đổi về chất, chế độ chiếm hữu nô
lệ đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất so với giai đoạn cộng sản nguyên
thuỷ. Tuy nhiên, cách thức tổ chức của xã hội ấy làm cho sản xuất chỉ có thể phát
triển ở một giới hạn nào đó. Khi đã đến giới hạn này, muốn sản xuất phát triển
được xã hội lại phải chuyển sang hình thái mới. Sở dĩ phải có sự thay đổi về chất
mới tạo ra bước phát triển mới về lượng vì như trên đã đề cập, mỗi chất đều được
tạo từ một kết cấu xác định của một sự vật hiện tượng hay một hệ thống sự vật hiện
tượng. Các nhân tố và phương thức kết hợp các nhân tố của sự vật quyết định sự
biến đổi của lượng. Nhưng bản thân các nhân tố và cả phương thức kết hợp giữa
chúng là cái có giới hạn, vì vậy nếu không thay đổi các nhân tố và cách sắp xếp
giữa chúng không thể tạo ra sự tăng “đột biến” về lượng. Đó chính là ý nghĩa to
lớn của những sự thay đổi mang tính cách mạng.
Vì vậy, phương thức biến đổi phát triển của mọi sự vật trong thế giới khách
quan phải là từ sự biến đổi về lượng đi tới sự biến đổi về chất. Trong chất mới
lượng lại tăng dần từ thấp đến cao, nhưng đến một giới hạn nào đó nó bị dừng lại.
Muốn lượng tiếp tục biến đổi chất mới phải ra đời thay thế chất cũ. Đó là qui luật
vận động và phát triển của thế giới khách quan. Điều này làm cho sự biến đổi và
(1)
V.I.Lênin: TT, Nxb TB, M, 1978, t. 29,tr.133
10
phát triển vừa liên tục vừa gián đoạn, vừa tiệm tiến vừa nhảy vọt, chúng tạo những
chu kỳ của sự phát triển không ngừng trongthế giới khách quan.

3. Một số kết luận và ý nghĩa phương pháp luận.
Qui luật lượng đổi dẫn đến chất đổi chỉ rõ phương thức vận động biến đổi của
thế giới khách quan nên nó cũng có ý nghĩa đối với việc hình thành phương thức
hoạt động của con người.
Trước hết, trong đời sống cũng như trong công tác, muốn tạo ra một sự biến
đổi về chất nào đó phải có sự tích lũy về lượng. Tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh cụ
thể mà sự tích luỹ này có thể nhanh chóng nhưng có những trường hợp phải lâu
dài. Mọi tư tưởng nôn nóng, vội vàng, đốt cháy giai đoạn
đều chỉ có thể đưa tới thất bại. Trên thế giới, nhiều cuộc cách mạng do “đẻ non”
mà không thành công. Thời kỳ bao cấp trước đây, tư tưởng tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không cần những khâu trung gian cần thiết đã làm cho nhiều mục tiêu
đề ra không thể thực hiện được. Ngày nay, tư tưởng nôn nóng trong lĩnh vực này
hay lĩnh vực khác vẫn còn không ít. Vì vậy thái độ bình tĩnh, phấn đấu bền bỉ kiên
trì, biết tìm ra những khâu trung gian cần thiết, những bước đi phù hợp là yêu cầu
quan trọng đối với con người nói chung và đối với cán bộ quản lý nói riêng. Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đượng, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
(1)
.
Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn khác với tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Sự phát triển là
phải đi đến sự biến đổi về chất, vì vậy phải tạo mọi điều kiện để thực hiện mục tiêu
đó, sao cho khi lượng đã biến đổi đến điểm giới hạn thì có thể thực hiện được sự
biến đổi về chất một cách kịp thời. Chỉ lo biến đổi về lượng mà không chú ý đến
những điều kiện cho sự biến đổi về chất là sai lầm và khi lượng đã đến điểm giới
hạn mà vẫn không thực hiện được sự biến đổi về chất thì tất yếu sẽ đưa tới khủng
hoảng thậm chí có thể làm cho những mầm mống, những tiền đề đã hình thành bị
thui chột và sự “đứt đoạn” càng lớn, ảnh hưởng tới tiến trình biến đổi của sự vật.
Trong thời đại ngày nay, bọn đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ đang thực hiện

âm mưu “diễn biến hoà bình”. Thực chất của âm mưu này là dùng các tác động
kiên trì, lâu dài, liên tục dần dần từng bước nhằm làm giảm lòng tin đối với chủ
nghĩa Mác - Lê nin, đối với lý luận cách mạng, đối với Đảng cộng sản đi tới xoá bỏ
Đảng cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội giành ưu thế tuyệt đối cho chủ nghĩa tư
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu to n quà ốc lần thứ IX NXb CTQG, H Nà ội, 2001, trang
22
11
bản. Âm mưu này được thực hiện bằng các chiến thuật “rỉ máu” “mưa lâu thấm
dần” trước đây, hay là các chiến thuật “thả bóng”, “chim nhồi rơm”, “đô la hoá”
cán bộ hiện nay. Đó là âm mưu hết sức thâm độc mà nếu thiếu cảnh giác có thể vấp
phải những sai lầm nghiêm trọng. Chiến thắng âm mưu này phải có sự nhìn nhận
thực sự tỉnh táo, sáng suốt, nhận rõ thực chất của các thủ đoạn tuyên truyền của kẻ
địch. Đây cũng là một trong những cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức phức tạp hiện
nay.
12
Câu 5.1: Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập?
Qui luật mâu thuẫn là qui luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật. Nó
đã được con người nhận thức ngày càng sâu sắc và đầy đủ hơn. Chính điều đó là
một tiền đề lý luận hết sức quan trọng để hình thành lý luận mác xít về mâu thuẫn.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã kế thừa tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn,
tổng kết những thực tế của lịch sử loài người, khái quát những thành tựu mới của
khoa học từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX để luận giải mâu thuẫn một cách
khoa học và vận dụng lý luận này để phân tích xã hội, tìm ra phương thức cải tạo
nó.
Trên cơ sở xác định rõ qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
hạt nhân của phép biện chứng, chủ nghĩa Mác đã làm rõ thực chất của mâu thuẫn
biện chứng thông qua việc phân tích bản chất của các mặt đối lập và mối quan hệ
giữa chúng.
1. Quan hệ của các mặt đối lập.

Trong cuộc sống thông thường, cho đến nay vẫn còn có không ít người đồng
nhất các mặt đối lập với các lực lượng thù địch. Dĩ nhiên thù địch cũng là mặt đối
lập, nhưng cái đối lập lại không chỉ là những cái thù địch. Trong các tác phẩm kinh
điển, Ph.Ăng ghen đã lấy nhiều ví dụ cụ thể để chỉ các mặt đối lập như cộng và trừ,
nhân và chia, vi phân và tích phân trong toán học, điện âm và điện dương trong vật
lý, hoá hợp và phân giải trong hoá học, đồng hoá và dị hoá trong một cơ thể sinh
vật, các giai cấp đấu tranh với nhau trong xã hội. Các mặt đối lập phải bao hàm
nhiều nội dung khác nhau. Các mặt đối lập phải là những bộ phận, những nhân tố
có thuộc tính hoặc có khuynh hướng vận động trái ngược nhau. Chúng phải cùng
tồn tại trong một sự vật, và chúng phải tác động qua lại với nhau để tạo nên sự vận
động và biến đổi của sự vật đó. Vì cùng tồn tại trong một sự vật nên ngoài những
thuộc tính khuynh hướng vận động trái ngược nhau chúng lại phải có cái đó đồng
nhất. Chính V.I.Lênin đã khẳng định: “phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng
những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, -
trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hoá lẫn nhau”.
Nếu không có sự “đồng nhất” không thể có sự chuyển hoá nào.
Do những đặc điểm trên mà các mặt đối lập có sự thống nhất với nhau.
Nghiên cứu “Bút ký triết học” của V.I.Lênin, ta thấy ông đề cập đến sự thống nhất
theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất đó là sự cùng tồn tại, sự liên kết nương tựa, bổ sung
13
cho nhau của các mặt đối lập trong cùng sự vật. Nếu không có sự thống nhất giữa
chúng sẽ không có bất cứ sự “tự vận động” nào và không có bất cứ sự phát triển
nào. Chính sự thống nhất của phép cộng và phép trừ, phép nhân và phép chia, vi
phân và tích phân mới làm cho toán học đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp
của cuộc sống. Chính sự thống nhất của đồng hoá và dị hoá mới làm cho cơ thể
sống có thể tồn tại và phát triển sự thống nhất ở đây là do bản chất của chúng qui
định.
Nhưng sự thống nhất còn có nghĩa hẹp hơn. Đó là sự “phù hợp”, “đồng nhất”,
“tác động ngang nhau”. Sự thống nhất này chỉ xảy ra trong từng giai đoạn phát
triển cụ thể của sự vật. Phải nói rằng trong cuộc sống thường sự thống nhất của các

mặt đối lập thường được hiểu theo nghĩa này. Nếu giữa các mặt đối lập không có
sự “đồng nhất”, “phù hợp”, chúng được xem như là không thống nhất mặc dù
chúng vẫn cùng tồn tại trong một sự vật.
Ngoài sự thống nhất, các mặt đối lập do bản chất của chúng là trái ngược
nhau nên tất yếu chúng phải đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
được hiểu là sự bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Khi nói sự đấu tranh của các mặt đối lập, ta thấy V.I.Lênin đưa từ đấu tranh
vào trong ngoặc kép (“đấu tranh”). Vì vậy, đấu tranh không thể theo một nghĩa hạn
hẹp nào đó mà phải hiểu nó thực sự linh hoạt, tuỳ thuộc vào các sự vật cụ thể và
các hoàn cảnh cụ thể.
Khi nói về “đấu tranh” giữa các mặt đối lập, chủ nghĩa Mác có hai luận điểm
quan trọng. Luận điểm thứ nhất khẳng định thống nhất là tương đối còn đấu tranh
là tuyệt đối. Trong “Bút ký triết học”, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp,
đồng nhất, tác động ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt
đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”
(1)
. Nếu dựa vào luận điểm này
thì có thể hiểu thống nhất là tương đối chỉ có nghĩa là sự “phù hợp”, “đồng nhất”,
“tác động ngang nhau” của các mặt đối lập là tương đối. Điều này có thể thấy rõ ở
mọi sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, nếu so sánh đấu tranh với vận động và thống
nhất với đứng im cũng có thể hiểu thống nhất là tương đối. Vì mọi sự thống nhất
của các mặt đối lập chỉ có thể xét về một mặt nào đó, một phương diện nào đó.
Nếu “thống nhất tuyệt đối” chúng không còn là các mặt đối lập nữa.
Luận điểm thứ hai, đấu tranh là động lực của sự phát triển. Trong thực tế do
đồng nhất đấu tranh với mọi sự va chạm, đụng độ, với những sự rối loạn, mất ổn
(1)
V.I.Lênin : TT, Nxb TB, M, 1978, t. 29, tr.379-380
14
định nên con người thường ác cảm với đấu tranh. Tuy nhiên, trong thực tế, nếu

không có đấu tranh sẽ không thể đưa đến sự phát triển. Chính thông qua đấu tranh
mà các mặt đối lập phải điều chỉnh lại cho phù hợp với sự vận động biến đổi của
chúng cũng như phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mới. Chính đấu
tranh mới làm cho những cái cũ, cái lỗi thời có thể mất đi và cái mới, cái tiến bộ có
thể ra đời. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, ở mỗi thời đại, nhờ có những
cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân mà giai cấp thống trị phải điều chỉnh lại
các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và điều đó đã làm cho các hình thái kinh
tế - xã hội vận động từ thấp đến cao. Trong một tổ chức xã hội, trong mỗi con
người nếu không có sự đấu tranh giữa cái đúng và cái sai, cái thiện và cái ác, cái
phải và cái trái sẽ không có bất kỳ sự phát triển nào. Ngay chủ nghĩa tư bản nếu
không có phong trào đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân thì làm sao có sự
thay đổi phương thức bóc lột, có sự chú ý đến việc thay thế các máy móc thiết bị
đã cũ, thay đổi điều kiện làm việc của công nhân. Nhiều triều đại phong kiến,
nhiều chế độ xã hội đã thối nát, mục ruỗng đến cực độ nhưng để xoá bỏ nó vẫn tốn
biết bao xương máu, vẫn cần biết bao sự hy sinh của những các lực lượng xã hội
tiến bộ. Cho nên đấu tranh có một ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của sự vật.
Có điều không thể đồng nhất sự đấu tranh với các hiện tượng bè phái mất đoàn kết,
vì các hiện tượng này không tạo ra sự phát triển. Vì thế V.I.Lênin khẳng định: “Sự
phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”
(1)
.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho các mặt đối lập
chuyển hoá. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập diễn ra dưới nhiều hình thức. Hình
thức thứ nhất là chuyển hoá từng mặt, từng khía cạnh của mặt đối lập này sang mặt
đối lập khác. Chẳng hạn trong xã hội có giai cấp đối kháng, lối sống của giai cấp
này có thể ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống của một bộ phận trong giai cấp khác.
Trong các thời kỳ cách mạng, những cá nhân tiến bộ thuộc các giai cấp thống trị có
thể chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng. Hình thức thứ hai là có thể mặt đối
lập này chuyển thành mặt đối lập khác, Thí dụ: thẳng trở thành cong và ngược lại.
Trong một số trường hợp cụ thể, thiện có thể trở thành ác và ngược lại. Hình thức

thứ ba là có thể cả hai mặt đối lập đều bị triệt tiêu và chuyển thành những mặt đối
lập mới. Chẳng hạn, khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, cả hai giai cấp chủ nô và nô
lệ căn bản bị triệt tiêu, hai giai cấp mới là địa chủ phong kiến và nông dân hình thành.
Như vậy, thông qua sự tác động qua lại của các mặt đối lập mà mọi sự vật
luôn luôn vận động, biến đổi, phát triển.
(1)
V.I.Lênin: TT, Nxb TB, M, 1978, t. 29, tr.379
15
2. Mâu thuẫn của sự vật.
Trong thực tế, mâu thuẫn có hai cách hiểu khác nhau. Một cách tổng quát có
thể thấy khi sự vật được tạo thành bởi các mặt đối lập thì ở trong nó đã luôn chứa
đựng mâu thuẫn và mâu thuẫn này vẫn tồn tại chừng nào sự vật chưa bị phá vỡ. Vì
vậy, theo nghĩa chung nhất mâu thuẫn là sự tác động qua lại của các mặt đối lập.
Với cách nhìn đó, chủ nghĩa Mác cho rằng bất kỳ sự vật nào cũng chứa mâu thuẫn.
Không ở đâu không có mâu thuẫn và không bao giờ không có mâu thuẫn. Nhìn sự
vật mà chỉ thấy sự đồng nhất, “đồng nhất tuyệt đối” là lối nhìn hời hợt, nông cạn,
bề ngoài. Tuy nhiên, mâu thuẫn còn có nghĩa thứ hai. Đó là sự bất đồng, sự không
phù hợp, sự mất cân bằng giữa các mặt đối lập. Trong cuộc sống thường nói đến
mâu thuẫn theo nghĩa này. Chính khi Mác phân tích những mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chủ
nghĩa cũng như phân tích mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ông đều dùng
mâu thuẫn theo nghĩa thứ hai này. Khi Đảng ta phân tích những mâu thuẫn giữa
nhân dân ta và bọn đế quốc phong kiến, mâu thuẫn giữa phe phái trong hàng ngũ
của địch cũng đều nói đến những sự bất đồng, những xung đột giữa các lực
lượng xã hội. Mâu thuẫn trong trường hợp này được hiểu là điểm đỉnh của sự khác
biệt giữa các mặt đối lập, là sự phát triển của các yếu tố không phù hợp, những sự
trái ngược giữa chúng. Tất nhiên, dù hiểu mâu thuẫn theo bất kỳ nghĩa nào thì nó
vẫn là nguồn gốc của sự phát triển. Nói mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển
không có nghĩa là tuyệt đối hoá vai trò của mâu thuẫn, là đề cao mâu thuẫn. Vấn đề
chính ở đây là muốn khẳng định rằng, có mâu thuẫn mới có đấu tranh và chỉ có

đấu tranh mới tạo ra sự phát triển như phần trên đã đề cập. Tuy nhiên, mỗi sự vật
không phải chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có rất nhiều mâu thuẫn và vai trò của
các mâu thuẫn này đối với sự phát triển của sự vật không giống nhau. Vì vậy, triết
học mác-xít đã chia mâu thuẫn thành các loại khác nhau.
3. Phân loại mâu thuẫn
16
3.1 Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại của các mặt đối lập tạo thành sự
vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật này và sự vật khác. Chẳng hạn,
mâu thuẫn giữa các giai cấp trong một dân tộc là mâu thuẫn bên trong; mâu thuẫn
giữa dân tộc này và dân tộc khác là mâu thuẫn bên ngoài. Sự phân biệt mâu thuẫn
bên trong và bên ngoài chỉ có tính chất tương đối vì nó tuỳ thuộc vào sự vật được
xác định là như thế nào. Trong ví dụ trên, nếu xem mỗi giai cấp là một sự vật thì
những mâu thuẫn diễn ra trong nội bộ giai cấp ấy là bên trong còn mâu thuẫn giữa
các giai cấp trong một dân tộc lại trở thành mâu thuẫn bên ngoài. Trong hai mâu
thuẫn này, mâu thuẫn bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với sự vận
động và biến đổi của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài có thể tác động vào mâu thuẫn
bên trong theo những hướng khác nhau. Mâu thuẫn bên ngoài có thể thúc đẩy mâu
thuẫn bên trong, ngược lại mâu thuẫn bên ngoài cũng có thể kìm hãm mâu thuẫn bên
trong.
3.2. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn và việc giải quyết nó sẽ tạo cơ sở để giải quyết
các mâu thuẫn khác. Những mâu thuẫn cùng tồn tại trong giai đoạn này nhưng nó
không mang tính cấp bách hoặc không ảnh hưởng lớn đến sự biến đổi của sự vật ở
giai đoạn đó là mâu thuẫn thứ yếu. Trong quá trình vận động của sự vật, có mâu
thuẫn là chủ yếu trong giai đoạn này nhưng lại là thứ yếu trong giai đoạn khác và
ngược lại. Thí dụ, trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, mâu thuẫn chủ yếu là
mâu thuẫn giữa các lực lượng chính trị đối lập nhau, nhưng khi chính quyền đã về
tay giai cấp cách mạng thì những mâu thuẫn trong sự phát triển kinh tế, ổn định đời
sống xã hội lại có thể trở thành mâu thuẫn chủ yếu.

3.3. Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn nảy
sinh từ bản chất của sự vật, tồn tại cùng với sự vật, qui định sự tồn tại và biến đổi
của sự vật, đồng thời là cơ sở nảy sinh các mâu thuẫn khác. Thí dụ, mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của
lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn cơ bản
nhất của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn giữa các mặt, các bộ phận nằm ngoài
bản chất. Trong xã hội tư bản, hàng loạt các mâu thuẫn gia đình, xã hội, những
mâu thuẫn cá nhân trong cuộc sống hàng ngày là những mâu thuẫn không cơ bản
của xã hội này.
17
Chủ nghĩa Mác còn phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng. Đây là những mâu thuẫn đặc thù của xã hội. Mâu thuẫn đối kháng là mâu
thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Đó là các mâu thuẫn giữa
chủ nô và nô lệ, giữa chúa đất và nông nô, giữa tư sản và vô sản. Trong tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng ghen cho rằng những mâu thuẫn đối kháng
chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Khi xã hội không
còn giai cấp thì mâu thuẫn vẫn tồn tại nhưng đối kháng mất đi.
Ngược lại với mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn
giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất nhưng lợi
ích không cơ bản, cục bộ tạm thời lại đối lập nhau. Đó là mâu thuẫn giữa các tầng
lớp dân cư trong cùng một giai cấp hay mâu thuẫn giữa các giai cấp như công nhân
và nông dân, công nhân và trí thức v.v… Như vậy, mâu thuẫn không chỉ khác nhau
về bản chất mà còn khác nhau về trình độ phát triển và về vai trò của nó đối với sự
phát triển của sự vật trong suốt quá trình tồn tại của nó hay trong từng giai đoạn cụ thể
khác nhau.
3. Một số kết luận về ý nghĩa phương pháp luận
Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là qui luật có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với hoạt động của con người. Do mâu thuẫn là nguồn gốc của
sự vận động và phát triển nên muốn hiểu rõ sự vật hay cải tạo nó phải nhận thức

được mâu thuẫn. Trong xã hội xác định được mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản sẽ
có cơ sở để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn; xác định rõ mâu thuẫn
chủ yếu sẽ có các giải pháp tập trung để giải quyết
những vấn đề trọng yếu nhất tạo ra khả năng phát triển của xã hội trong từng giai
đoạn phát triển của nó. Đặc biệt khi có những vấn đề bức xúc nảy sinh thì việc
phân biệt rõ mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng. Điều đó sẽ giúp cho một tổ chức cách mạng hay các cá nhân phân biệt rõ
bạn và thù và đề ra được phương thức giải quyết mâu thuẫn thích hợp, tuỳ vào tình
hình cụ thể.
Nhận thức mâu thuẫn không phải chỉ là nhận thức loại hình mâu thuẫn mà còn
phải xác định được trình độ phát triển của nó. Đó là những mâu thuẫn vừa nảy sinh hay
mâu thuẫn đã đến độ chín muồi. Cùng một mâu thuẫn nhưng trình độ phát triển khác
nhau thì phương thức giải quyết cũng khác nhau.
Tuy nhiên, muốn nhận thức mâu thuẫn phải căn cứ vào các mặt đối lập, không
dựa trên các mặt đối lập và những mối quan hệ cơ bản của chúng không thể xác
định rõ loại hình mâu thuẫn cũng như trình độ phát triển của mâu thuẫn.
18
Việc phân tích và giải quyết mâu thuẫn không phải chỉ đòi hỏi sự nhiệt tình,
hăng hái mà phải có sự hiểu biết, có tri thức khoa học, có vốn sống nhất định.
Thiếu tri thức và vốn sống cần thiết sẽ không nhận thức đúng được bản chất của
mâu thuẫn và do đó cũng không thực sự hiểu biết được thế giới khách quan, không
đề ra được những phươngthức giải quyết các vấn đề đặt ra một cách có hiệu quả.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người thực chất là lịch sử phát hiện và giải quyết
các mâu thuẫn. Năng lực của một cán bộ lãnh đạo quản lý trước hết phải là năng
lực phát hiện ra các mâu thuẫn và tổ chức chỉ đạo quần chúng nhân dân giải quyết
các mâu thuẫn đó. Chính vì vậy, đường lối cách mạng Việt Nam từ khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời đến nay bao giờ cũng dựa trên cơ sở của việc phân tích những
mâu thuẫn ở Việt Nam và trên thế giới. Không căn cứ vào các mâu thuẫn cần phải
giải quyết, một đất nước, một dân tộc, một Đảng không thể tìm ra những giải pháp
tích cực nhất để vượt qua những thách thức, tiếp tục phát triển trong quá trình thực

hiện những nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra.
19
Câu 8: Quy luật phủ định của phủ định?
Quy luật phủ định của phủ định, lần đầu tiên được đề cập tới một cách sâu
sắc trong triết học của Hêghen. Hêghen đã xem đó là quy luật cơ bản làm cơ sở
cho cả hệ thống triết học của ông. Ông nhận thấy "cái hữu hạn", thông qua sự phủ
định cái phủ định của nó mà trở thành vô hạn. Hêghen cũng là người đã nhận thấy
"sự duy trì cái khẳng định trong cái phủ định" và cho rằng "cái khẳng định" và "cái
phủ định" thống nhất với nhau. Dĩ nhiên Hêghen đã mô tả quy luật phủ định của
phủ định như là một quy luật vận động của các ý niệm, quy luật của tư duy.
Kế thừa những hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen, chủ nghĩa Mác đã
xây dựng quan điểm khoa học về quy luật phủ định của phủ định với tư cách là
một quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1. Phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó.
Để hiểu đúng đắn quy luật phủ định của phủ định trước hết phải hiểu rõ thế
nào là phủ định. Về phạm trù này có hai cách hiểu khác nhau: hiểu theo quan điểm
biện chứng và hiểu theo quan điểm siêu hình. Quan điểm siêu hình cho phủ định
chỉ là sự không thừa nhận một sự vật hay một thuộc tính nào đó của sự vật. Đó là
sự tác động từ bên ngoài nhằm phá hủy, thủ tiêu, loại bỏ sự vật, là sự "phủ định
sạch trơn" không giữ lại bất cứ đặc trưng nào của sự vật.
Ngược lại, quan điểm biện chứng cho phủ định là một kết quả tất yếu trong
quá trình vận động biến đổi của bản thân sự vật. Nguyên nhân của sự phủ định là
do sự tác động của các nhân tố tạo thành sự vật đặc biệt là sự tác động qua lại của
các mặt đối lập ở bên trong sự vật tạo ra. Sự tác động qua lại này làm cho lượng
biến đổi và khi lượng biến đổi đến điểm giới hạn thì chất cũ mất đi và chất mới ra
đời. Sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới thay thế nó trong quá trình này là
phủ định biện chứng.
20
Do đó phủ định biện chứng là sự thay thế cái cũ bằng cái mới phù hợp hơn
do những biến đổi bên trong của sự vật cũ tạo ra.

Phủ định biện chứng bao giờ cũng có hai đặc điểm cơ bản.
Đặc điểm thứ nhất: phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định. Nó không
phải là sự áp đặt từ bên ngoài mà do sự biến đổi bên trong, do sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập tạo ra.
Đặc điểm thứ hai của phủ định biện chứng là nó mang tính kế thừa. Do phủ
định biện chứng là sự tự phủ định, là sự ra đời của cái mới từ trong lòng cái cũ nên
những tiền đề của nó phải được tạo ra từ trong cái cũ, đồng thời nó phải giữ lại
những nhân tố hợp lý của cái cũ và phát triển bổ sung thêm để tạo ra cái mới.
Chính sự kế thừa làm cho cái cũ và cái mới, quá khứ, hiện tại gắn kết với
nhau trong dòng chảy vô tận của sự vận động và phát triển. Quan điểm biện chứng
xem kế thừa là yếu tố căn bản nhất của phủ định biện chứng, là đặc trưng của phủ
định biện chứng. V.I.Lênin đã nhấn mạnh: "Không phải sư phủ định sạch trơn,
không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không
phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong
phép biện chứng mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của sự phát triển với sự
duy trì cái khẳng định"
(1)
.
Nhận định này đã làm rõ sự đối lập hoàn toàn của quan điểm biện chứng và
quan điểm siêu hình về sự phủ định. Tất nhiên quan điểm biện chứng không phủ
nhận việc tất yếu phải loại bỏ những gì là tiêu cực, là lỗi thời, những cái đã trở
thành lực cản của sự phát triển. Chẳng hạn, trong lịch sử loài người, nếu không thủ
tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ, xóa bỏ đặc quyền đặc lợi của giai cấp địa chủ phong
kiến, không lên án kịch liệt tình trạng áp bức bóc lột trong xã hội tư bản, tư tưởng
bá quyền của bọn đế quốc hiếu chiến và không lật đổ ách thống trị của nó thì sẽ
không bao giờ có bước tiến lên của lịch sử, sẽ không có sự thay thế hình thái kinh
tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn. Những sự phủ định
theo nghĩa "loại bỏ" nói trên là nhân tố hết sức quan trọng thậm chí là quan trọng
nhất của mọi cuộc cách mạng chính trị. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy cách mạng là sự
"loại bỏ", "sự đập tan, sự "phá hủy hoàn toàn" cái cũ và phải xây dựng xã hội mới

từ những viên gạch đầu tiên thì lại rơi vào tư tưởng tả khuynh, là chỉ làm được một
hành động có tính chất tiêu cực thuần túy. Một cuộc cách mạng chỉ có tính chất
phá hủy về thực chất chỉ có thể đưa xã hội trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu.
Vì thế phủ định biện chứng chỉ loại bỏ những cái gì đã thực sự trở nên lỗi thời, còn
(1)
V.I.Lênin: TT, Nxb TB, M, 1981, t.29, tr.245.
21
cái gì là hợp lý nó lại phải khẳng định, duy trì, phát triển, bổ sung trong quá trình
hình thành cái mới. Việc hình thành cái mới tiến bộ hơn là cái đích của phủ định
biện chứng.
2. Phủ định của phủ định - vòng khâu của sự phát triển.
Với cách hiểu phủ định như trên, ta có thể nói phát triển thực chất là quá
trình phủ định liên tiếp từ thấp đến cao. Tuy nhiên các lần phủ định không nối tiếp
nhau theo một đường thẳng mà chúng làm thành những chu kỳ. Những chu kỳ này
có thể gọi là những vòng khâu của sự phát triển. Ở cuối mỗi vòng khâu, sự vật
"hình như là quay trở lại" với điểm xuất phát, với cái bị phủ định đầu tiên. Điều đó
đã tạo ra cảm giác về sự vận động vòng tròn như từ hạt thóc nảy sinh cây lúa và
cây lúa lại sinh ra hạt thóc; quả trứng nở thành con gà và con gà lại sinh ra quả
trứng Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của sự vật, mỗi "vòng tròn" ấy là một
"vòng khâu của sự phát triển. Cái vòng khâu này thường gồm hai lần phủ định liên
tiếp nên được gọi là "phủ định của phủ định". Do phủ định có nguồn gốc từ sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập nên lần phủ định thứ nhất bao giờ cũng
tạo ra sự vật có nhiều đặc điểm đối lập với sự vật ban đầu. Nhiệm vụ của lần phủ
định này là công phá cái đã được khẳng định để mở ra sự phát triển mới. Nhưng sự
tồn tại của cái phủ định cũng có giới hạn của nó và đến một lúc nào đó nó lại tỏ ra
không đầy đủ và tất yếu phải bị thay thế. Đó là nguyên nhân dẫn đến lần phủ định
thứ hai. Lần phủ định thứ hai lại tạo ra sự vật mới đối lập với "cái phủ định" của sự
vật ban đầu và do đó nó có vẻ "trở về" với cái khẳng định ban đầu. Lần phủ định
thứ hai vừa khẳng định những cái gì là hợp lý của cái bị phủ định đầu tiên vừa phát
triển bổ sung nó, hoàn thiện thêm nó. Chính những sự vận động như vậy đã hình

thành một quy luật cơ bản đó là quy luật phủ định của phủ định. Đương nhiên quy
luật phủ định của phủ định là quy luật cơ bản của phép biện chứng nên nó không
diễn ra một cách giản đơn theo kiểu cơ giới. Với tư cách là phủ định biện chứng nó
phải có tính kế thừa. Nhưng sự kế thừa của lần phủ định thứ hai giữ vai trò trọng
yếu hơn trong lần phủ định thứ nhất vì lần phủ định này là kết quả tổng hợp của cả
vòng khâu phủ định. Lần phủ định thứ hai tạo ra sự vật mới ở trình độ cao hơn so
với cái bị phủ định đầu tiên trong vòng khâu này. Mặt khác, mỗi vòng khâu phủ
định không phải bao giờ cũng chỉ đơn giản có hai lần phủ định mà có thể có nhiều
lần phủ định liên tiếp khác nhau. Quá trình từ cái trứng tằm nở ra con tằm và để
hình thành những trứng tằm mới phải thực hiện tới 4 lần phủ định kế tiếp nhau.
Trong xã hội loài người, để đi từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản văn minh sau
này, mọi dân tộc đều phải qua nhiều lần phủ định. Ngoài những trường hợp đã nêu,
22
quy luật phủ định của phủ định còn có vô vàn các hình thức khác nhau mà chúng ta
chỉ có thể phân biệt chúng trong những trường hợp thật cụ thể. Bất cứ sự nhận thức
máy móc, siêu hình nào về quy luật này cũng đều dẫn tới sai lầm.
Thông qua các vòng khâu phủ định, sự phát triển bao giờ cũng đi theo con
đường "xoắn ốc". "Đường xoắn ốc" không phải là con đường đi lên cụ thể của các
sự vật mà thực chất là quá trình vận động vừa "lặp lại", vừa nâng cao trong quá
trình vận động của các sự vật hiện tượng. Chính quan niệm này đã khắc phục được
những tư tưởng siêu hình về sự phát triển - sự phát triển theo vòng tròn hay sự vận
động theo đường thẳng đơn thuần và vì vậy nó có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng đối với những hoạt động của con người. Như vậy, quy luật phủ định của phủ
định không chỉ nói rõ xu thế của sự vận động và phát triển mà còn nói rõ cách thức
vận động phát triển trong thế giới khách quan. Đó là quy luật phổ biến của tự
nhiên, xã hội và tư duy, là kết quả tất yếu do sự thống nhất và đấu tranh cuả các
mặt đối lập, là kết quả của quá trình chuyển hoá về lượng đưa đến sự biến đổi về
chất. Chính vì vậy quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận hết sức quan trọng.
3. Một số kết luận có ý nghĩa phương pháp luận.
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật của sự phát triển nên muốn phát

triển được phải biết phủ định. Điều đó đòi hỏi trước hết phải tìm ra những cái đã
lỗi thời, những cái còn hạn chế, những thiếu sót, những khuyết tật để phê phán,
loại bỏ. Mặt khác trong quá trình phủ định lại phải luôn chú ý đến sự kế thừa đặc
biệt là kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa của nhân
loại. Ở Việt Nam có nhiều giá trị truyền thống quý báu như chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần độc lập tự cường, ý thức cộng đồng Những giá trị tinh thần này cần
được phát huy trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, khi đề cập tới yêu cầu phát triển văn hoá , mở rộng
quan hệ đối ngoại, Đảng ta luôn nhấn mạnh tới việc “kế thừa truyền thống cách
mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”
(1)
đồng thời “tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm
nền văn hoá nhân loại”
(2)
và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội
nhập quốc tế. Đó chính là quan điểm kế thừa hết sức đúng đắn của Đảng ta. Chính
vì vậy, trong công tác tư tưởng phải đấu tranh mạnh mẽ với những tư tưởng bảo
thủ trì trệ nhưng đồng thời cũng phải kiên quyết phê phán tư tưởng phủ định sạch
trơn. Những tư tưởng phủ định sạch trơn hay "hư vô chủ nghĩa" là những tư tưởng
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu to n quà ốc lần thứ IX NXb CTQG, H, 2001, trang 114
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu to n quà ốc lần thứ IX NXb CTQG, H, 2001, trang 115
23
phản khoa học. Nó chỉ có thể mang lại những mất mát, những tổn thất thậm chí tổn
thất rất nặng nề. Chẳng hạn đối với chủ nghĩa tư bản, phải đấu tranh chống lại tư
tưởng đế quốc chủ nghĩa, tư tưởng bá chủ toàn cầu, phê phán những mặt trái của
chủ nghĩa tư bản nhưng đồng thời lại phải biết chắt lọc, tiếp thu những thành tựu
mà loài người đã đạt được trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản đặc biệt

là các thành tựu về khoa học công nghệ, những thành tựu trong quản lý kinh tế,
quản lý xã hội. Loài người không thể dừng lại ở chủ nghĩa tư bản vì còn chủ nghĩa
tư bản thì không thể xóa bỏ được áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Nhưng muốn đi
lên chủ nghĩa xã hội thì không thể thiếu nền văn minh mà loài người đã đạt được
trong chủ nghĩa tư bản. Đó là điều trước đây V.I.Lênin đã chỉ ra mà ngày nay cũng
phải nhận thức thực sự sâu sắc và rõ ràng. Tất nhiên, trong quá trình kế thừa cũng
phải tránh tư tưởng kế thừa "nguyên xi", không chọn lọc, không đổi mới, không
phát triển bổ sung. Trong thực tế có người đã đồng nhất sự kế thừa với việc đem
nguyên vẹn cái cũ, cái lỗi thời vào trong cuộc sống mới. Họ khôi phục những hủ
tục nặng nề, đem cả những cái tiêu cực của chủ nghĩa tư bản vào trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về thực chất điều đó là làm cho lịch sử đi lùi lại chứ
không phải thúc đẩy lịch sử tiến lên. "Kế thừa", tự bản thân nó đã bao hàm sự đổi
mới kể cả những truyền thống tốt đẹp cũng phải mang thêm nội dung mới. Chỉ có
như vậy mới tạo nên sự phát triển. Đó là ý nghĩa cơ bản của quy luật phủ định của
phủ định.
Câu 9: Những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1. Cặp phạm trù cái riêng và cái chung
a. Khái niệm
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình hay một hệ thống các sự vật tạo thành một chỉnh thể tồn tại độc lập với
cái riêng khác. Ví dụ, một tác phẩm văn học cụ thể, chẳng hạn tác phẩm “Chiến
tranh và hoà bình”; một ngôi nhà cụ thể…
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính giống nhau được lặp lại trong nhiều cái riêng khác. Ví dụ, thuộc tính là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả một quốc gia dân tộc của thủ đô. Thuộc tính
này được lặp đi, lặp lại ở tất cả các thủ đô riêng biệt như Hà Nội, Ph-nôm-pênh,
Viêng-Chăn, Mát-xcơ-va…
24
Cái đơn nhất là phạm trù triết học chỉ những đặc diểm, những thuộc tính vốn
có chỉ của một sự vật, hiện tượng, quá trình và không được lặp lại ở các cái riêng

khác. Ví dụ, vân tay của mỗi người; số điện thoại (kể cả mã vùng, mã nước luôn là
đơn nhất)…
b. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Theo triết học duy vật biện chứng:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Ví dụ, chung
“thủ đô” chỉ tồn tại thông qua từng thủ đô cụ thể như Hà Nội. Ph-nôm-pênh,
Viêng-Chăn…
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, vì bất cứ cái
riêng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với cái riêng khác. giữa những cái riêng ấy
bao giờ cũng có những cái chung giống nhau. Ví dụ, trong một lớp học có 30 sinh
viên, mỗi sinh viên coi như “một cái riêng”; 30 sinh viên này (30 cái riêng) liên hệ
với nhau và sẽ đưa đến những điểm chung: đồng hương (cùng quê), đồng niên
(cùng năm sinh), đồng môn (cùng học một thầy/cô), đều là con người, đều là sinh
viên…
- Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không gia nhập hết vào
cái chung. Do đó, cái riêng phong phú hơn cái chung. Tuy nhiên, cái chung sâu sắc
hơn cái riêng. Ví dụ, cái chung của thủ đô là thuộc tính “trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá của một quốc gia”. Nhưng, từng thủ đô cụ thể còn có nhiều nét riêng
khác về diện tích, dân số, vị trí địa lý Cho nên, mt thủ đô cụ thể – với tư cách là
cái riêng – có nhiều đặc điểm, thuộc tính hơn thủ đô (với tư cách là cái chung). Do
vậy, cái riêng phong phú hơn cái chung. Nhưng rõ ràng, thuộc tính “trung tâm
chính trị, kinh tế, xã hội của một quốc gia dân tộc” sâu sắc hơn, nó phản ánh được
bản chất sâu xa, ổn định, bền vững của thủ đô, những thuộc tính về dân số, vị trí,
diện tích không nói ên được bản chất của thủ đô.
- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. Bởi lẽ, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay mà ban đầu
xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Dần dần cái chung ra đời thay thế cái đơn nhất.
Ngược lại, cái cũ ban đầu thường là cái chung, nhưng do những yếu tố không còn
phù hợp nữa nên trong điều kiện mới mất dần và trở thanh cái đơn nhất.
c. Một số kết luận về mặt phương pháp luận

25

×