LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong cuộc sống ngày nay, hợp đồng dân sự là giao kết được thực hiện
với một số lượng rất lớn, thông dụng và phổ biến. Hơn thế nữa, trong thực
tiễn giao dịch dân sự, nhu cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vấn đề
cấp thiết, phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và đối tượng. Hàng ngày có
vô số các hợp đồng dân sự được thoả thuận ký kết, từ những hợp đồng sinh họat
đơn giản thường thấy, như : gửi giữ chiếc xe đạp, mua bán Tivi, tủ lạnh, xe máy,
vay mượn , đến những hợp đồng phức tạp, giá trị lớn như hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở; hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh tế…
Song vấn đề ở đây là tính pháp lý của các thoả thuận giao kết trên, là giá
trị hiệu lực của các hợp đồng dân sự này có được bao đảm thi hành. Nhìn chung,
phấn lớn các giao dịch liên quan đến đồng dân sự được giao kết phù hợp với quy
định pháp luật, có giá trị thi hành, bên cạnh đó thực tế còn tồn tại một số các giao
dịch không thỏa mãn các điều kiện để hợp đồng phát sinh hiệu lực dẫn tới hợp đồng
giao kết vô hiệu, đó là các hành vi lừa dối, thực hiện mua bán, tặng cho tài sản
thuộc sở hữu của người khác mà không được sự chấp nhận tự nguyện giao kết,
hình thức hợp đồng không tuân thủ theo qui định của pháp luật Nhất là đối với
hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật rất phổ biết, xâm phạm đến
quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, gây thiệt hại nghiêm trọng
đến lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội .
Việc ban hành Bộ luật Dân sự vào năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung năm
2009 là rất kịp thời, đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của giao dịch dân sự đang
ngày một phong phú và đa dạng trong thời kỳ kinh tế thị trường, chủ trương mở
cửa hợp tác quốc tế, nhất là các quy định về hợp đồng dân sự. Đến nay qua gần
mười năm thi hành, các quy định về hợp đồng dân sự đã đi vào cuộc sống. Một mặt
hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức trong giao dịch dân sự, mặt khác tạo cơ
sở pháp lý để xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ
hợp đồng, tạo căn cứ để Toà án và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp về hợp đồng dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần
tạo sự ổn định và lành mạnh trong giao lưu dân sự, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội, giao lưu hội nhập quốc tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, các qui định
pháp luật về hợp đồng dân sự vẫn còn bộc lộ những vấn đề mang tính bất cập, các
qui định có sự chồng chéo, trái ngược nhau, điều đó đã gây khó khăn cho việc nhận
thức cũng như áp dụng các qui định pháp luật về hợp đồng dân sự. Kết quả dẫn đến
tồn tại rất nhiều hợp đồng dân sự vô hiệu trên thực tế, không đem lại mục đích các
bên chủ thể mong muốn, dẫn đến nhiều tranh chấp, khi giải quyết lại thiếu cơ
sở pháp lý, gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền. Đáng chú ý nhất là
1
các hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và việc xữ lý hợp
đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Làm ảnh hưởng rất lớn tới lợi ích
của cá nhân, tập thể, xã hội và trật tự quản lý của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới tính nghiêm minh của pháp luật trong công tác xử lý hợp đồng vô hiệu do
vi phạm pháp luật.
2 Mục
đí
ch, đối tượng và phạm vi
nghi
ên
cứu
Mục đích của đề tài nhằm hoàn thiện hơn chế định hợp đồng dân sự vô
hiệu,
quy
định cụ thể và chặt chẽ hơn về các trường hợp vô hiệu và cách thức
xử lý đảm
bảo
được sự hài hòa lợi ích cho các bên tham gia quan hệ dân sự .
Để đạt được mục
đích
trên cần giải thích rõ khái niệm, nội dung, mục đích cũng
như các trường hợp hợp đồng dân
sự
bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật và
kiến nghị cách thức xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật hợp
lý.
Đối tượng trong bài nghiên cứu này là trường hợp hợp đồng dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật
và cách thức xử lý các hợp đồng dân
sự bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật đó. Các quy định về hợp
đồng
dân sự vô hiệu đó sẽ được nghiên cứu trong Bộ luật Dân sự 2005 của nước
Cộng
hòa xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
3. Phương pháp
nghi
ên cứu đề
tài
Để nguyên cứu đánh giá các vấn đề trong bài báo cáo, tác giả kết hợp
phương
pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra,
…
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
Nhằm nhận diện và tiếp cận những trường hợp vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật của hợp đồng dân sự,
hậu
quả pháp lý, việc xử lý hợp đồng
vô hiệu do vi phạn điều cấm của pháp luật từ đó nhận xét những tồn tại vướng
mắc trong quá trình giải
quyết
tranh chấp về hợp đồng vô hiệu do vi phạm
điều cấm của pháp luật trên thực tế, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng
cao
chất lượng giao kết hợp đồng, đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp
đồng, hoàn
thiện
cơ chế giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự vô
hiệu.
5. Kết cấu của tiểu luận
:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài tiểu luận được kết cấu gồm hai chương:
Chương I: Khái quát chung về hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật
2
Chương II: Chế định về hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật và xử lý hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều câm của pháp luật trong
pháp luật dân sự
Việt
Nam – thực trạng và giải pháp.
3
Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
DO VI PHẠM ĐIỀU CẤM CỦA PHÁP LUẬT.
1.1 Khái niệm chung và đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu.
1.1.1 Khái niệm.
Để phân tích các khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu, chúng ta nên tìm hiểu và
phân tích những quy định của pháp luật liên quan đến hợp đồng dân sự. Trong khoa
học pháp luật dân sự, Điều 388 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định khái
niệm hợp đồng dân sự khái quát, ngắn gọn như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả
thuận giữa
các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ
dân sự”. Còn
theo
cách hiểu thông thường: “Hợp đồng là phương tiện pháp
lý quan trọng để cho
các
công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần
trong sản xuất, kinh doanh cũng
như
trong sinh hoạt tiêu dùng”
1
.
Như vậy
hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí
của
các bên bằng việc thoả thuận
với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác
định
khi nào và trong điều
kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập,
được
thay đổi và chấm
dứt. Các chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc
pháp
nhân hoặc
các loại chủ thể khác. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định đối với loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
Bên cạnh đó sự thỏa thuận khi cam kết các bên thực sự phù hợp với mong muốn
của các bên, cũng như phù hợp với pháp luật. Đảm bảo nguyên tắc giao kết hợp
đồng dân sự là tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng. Nguyên tắc này tồn tại trong pháp luật hợp đồng của các nước. Để sự thoả
thuận đạt được mục đích, cũng như kết quả như mong muốn của các bên nhưng
không làm ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của các bên pháp luật còn quy định về
điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, cũng như trường hợp hợp đồng vô hiệu.
Cụ thể, Điều 410 và 411 BLDS 2005 có quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu.
Theo Điều 410 BLDS năm 2005, các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu cũng
được áp dụng với hợp đồng dân sự vô hiệu. Giao dịch dân sự không có một
trong các điều kiện được quy
đ
ịnh tại Điều
122
của Bộ luật dân sự 2005 thì
vô hiệu. Điều đó có nghĩa là những hợp đồng dân sự nếu vi phạm một trong các
điều kiện về hình thức và nội dung của giao dịch dân sự nói chung sẽ có thể bị coi là
vô hiệu bao gồm: Người tham gia giao dịch dân sự không có năng lực hành vi dân
sự; Mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
1
Nguyễn Thị Thanh (2005), “Xử lý hợp đổng vô hiệu theo pháp luật dân sự
Việt
Nam”
4
đức xã hội; Người tham gia giao dịch bị ép buộc ý chí; Hình thức giao dịch không
phù hợp với qui định của pháp luật; Tính vô hiệu của hợp đồng dân sự được thẻ
hiện ở chỗ nó không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn đạt
được khi tham gia xác lập hợp đồng dân sự đó, hay nói cách khác làm nó không làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên mong muốn có khi xác lập hợp
đồng dân sự đó. BLDS quy định bảy trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng
đây chỉ là những trường hợp vô hiệu nói chung. Có thể thấy rằng, Bộ luật dân sự chỉ
liệt kê các điều kiện để một hợp đồng dân sự thông thường phát sinh hiệu lực. Như
vậy nếu vi phạm một trong các điều kiện mà luật quy định thì hợp đồng bị coi là vô
hiệu. Mặt khác, Bộ luật dân sự ra 2005 cũng không định nghĩa như
thế
nào
được gọi là hợp đồng dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu: “Hợp
đồng dân
sự
vô hiệu là giao dịch thể hiện ý chí của các bên tham gia, nhưng
có sự vi phạm
điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được quy định trong
Bộ luật dân sư”
2
.Như
vậy,
chỉ cần một trong các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng bị vi phạm thì hợp
đồng
vô
hiệu.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu.
• Hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện của hợp đồng. Đó là
các
điều kiện quy định tạo Điều 122 BLDS năm 2005: Vi phạm điều kiện về năng lực
hành vi của người xác lập hợp đồng
dân
sự; mục đích và nội dung của hợp
đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo
đức xã hội; vi phạm điều
kiện tự nguyện xác lập hợp đồng; vi phạm hình thức
của
hợp
đồng.
• Hậu quả pháp lý: Các
bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận,
trong trường hợp nếu
không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, bên có lỗi
gây
thiệt hại phải bồi
thường.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật.
1.2.1. Khái niệm.
T
ự do ý chí là yếu tố rất quan trọng để tạo nên một hợp đồng. Tuy nhiên
sự tự
do
của một người luôn bị hạn chế để đảm bảo các quyền và lợi ích của
người khác, vì mọi sự vật hiện tượng tồn tại đều có tương tác, tác động
qua
lại lẫn
nhau, không thể có sự tự do ý chí một cách tuyệt
đối
. Hơn nữa, lợi ích của
cá nhân
luôn
phải phục tùng lợi ích chính đáng của tập thể, mọi thỏa thuận
xâm hại đến lợi
ích
công, đến thuần phong mỹ tục, trái pháp luật đều bị coi là
2 Nguyễn Thị Thanh (2005), “Xử lý hợp đổng vô hiệu theo pháp luật dân sự Việt
Nam”
5
vô
hiệu, nhất là việc giao kết hợp đồng có nội dung vi phạm các điều cấm của
pháp luật
. Theo Điều 128 BLDS năm 2005, điều cấm của pháp luật là “những
quy
định
của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định”. Điều cấm của pháp luật thường bao gồm các trường hợp: nội dung hợp
đồng, đối tượng (tài sản, hàng hoá, công việc hay dịch vụ) của hợp đồng, ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh, hoạt động. Có những trường hợp chủ thể xác lập hợp
đồng cũng bị coi là vi phạm điều cấm của pháp luật về nội dung hợp đồng. Ví dụ:
Người đại diện không được nhân danh người được đại diện để giao dịch với mình
hoặc người khác mà mình cũng là đại diện được quy định tại Điều 144 Bộ luật
Dân sự năm 2005. Như
vậy, đối chiếu
với thuật ngữ “trái pháp luật” được ghi
nhận tại Điều 131 Bộ luật dân sự 1995 và “vi
phạm
điều cấm của pháp luật”
trong Bộ luật dân sự 2005 thì có thể rút ra kết luận quy định Bộ luật Dân sự năm
1995 có cách tiếp cận rộng và chính xác hơn. “Khái niệm trái pháp luật bao trùm
khái niệm vi phạm điều cấm pháp luật,
nên
có thể nói những quy định
không vi phạm điều cấm pháp luật là một phần
nằm
trong khái niệm không
trái pháp luật”
3
.
Vậy
hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là hợp
đồng
đó
chứa đựng các thỏa thuận xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của lợi
ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác,
cụ thể là nội dung và
mục đích chứa đựng các quy phạm cấm của pháp luật
không
có giá trị pháp lý,
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với các bên tham
gia
hợp đồng từ
thời điểm xác lập .
1.2.2. Cơ sở pháp lý và đặc điểm hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật.
Cơ sở pháp lý để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật. Theo Điều 121 BLDS 2005 hợp đồng dân sự là một dạng của giao dịch
dân sự. Nên chế định hợp đồng dân sự vô hiệu được quy đinh tại Điều 410 BLDS và
từ Điều 127 đến Điều 138 của BLDS 2005 cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô
hiệu”. Để xác định hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật thì ngoài
việc áp dụng các quy định chung trên thì Điều 128 BLDS 2005 là điều khoản chi
tiết nhất trong BLDS 2005 để căn cứ xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm
3 Nguyễn Văn Cường, “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả
pháp lý của giao
dịch
dân sự vô
hiệu”
6
điều cấm của pháp luật. Đây là những quy định chung của pháp luật về việc hợp
đồng bị vô hiệu vì vậy nếu muốn xác định nội dung của hợp đồng cụ thể có vi phạm
điều cấm của pháp luật hay không, chúng ta cần xem xét đến các quy phạm được
quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Đó là các văn bản pháp luật
trực tiếp điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng hay có liên quan tới nội dung hợp đồng giao
kết như lĩnh vực thương mại, đất đai…. Cụ thể là các điều cấm của từng lĩnh vực để
xác định được nội dung, mục đích của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật
hay không. Ví dụ như: Các hàng hoá, dịch vụ bi cấm kinh doanh được quy định tại
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 hướng dẫn Luật Thương
mại 2005 về hàng hoá, dịch vụ, bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh
doanh có điều kiện được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 43/2009/NĐ-CP ngày 07
tháng 5 năm 2009. Bên cạnh đó một cơ sở pháp lý xác định hợp đồng vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật không thể thiếu và cần lưu ý là các quy định cấm
trong Bộ luật hình sự 2003.
Đặc điểm hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.
• Hợp đồng sẽ bị vô hiệu tuyệt đối;
• Phạm vi các loại hợp đồng bị vô hiệu là rất rộng hầu hết ở tất cả các lĩnh vực đời
sống như hợp đồng dịch vụ, hợp đồng thương mại, hợp đồng mua bán đất…. Bởi
điều cấm của pháp luật ở nhiều lĩnh vực của pháp luật như Bộ luật Hình sự, luật
Đất đai, luật Doanh nghiệp…. ;
• Căn cứ vô hiệu của hợp đồng là căn cứ vào chủ thể giao kết, mục đích và nội dung
vi phạm điều cấm pháp luật của hợp đồng;
• Có thể dẫn tới chịu đồng thời cả trách nhiệm hình sự và dân sự khi hợp đồng vô
hiệu trong một số trường hợp.
7
Chương II. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO VI PHẠM ĐIỀU CẤM
CỦA PHÁP LUẬT VÀ XỬ LÝ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO VI
PHẠM ĐIỀU CẤM CỦA PHÁP LUẬT – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
2.1. Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.
2.1.1 Nội dung và mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật.
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên
đã
cam
kết, thỏa thuận, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Còn mục đích và nội
dung
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và pháp luật dân sự quy định để giao
dịch dân
sự không bị
vô hiệu thì mục đích và nội dung của hợp đồng không được
vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội.
Vậy, nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật được hiểu là việc
các bên thoả thuận với nhau trong hợp đồng để thực hiện những công việc mà pháp
luật không cho phép thực hiện, ví dụ: không cho phép sản xuất, tiêu thụ hàng giả,
mua bán, vận chuyển hàng cấm, cung ứng dịch vụ bị cấm thực hiện, thỏa thuận
thanh toán bằng đồng ngoại tệ trong các giao dịch kinh doanh trên lãnh thổ Việt
Nam (trừ một số trường hợp pháp luật về Ngoại hối cho phép) dịch chuyển tài sản
trái phép hay những thoả thuận gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba
Nội dung của hợp đồng gồm ba thành phần, đó là điều khoản chủ yếu, điều
khoản thường lệ và điều khoản tuỳ nghi. Phạm vi nội dung hợp đồng bị vô hiệu phụ
thuộc vào điều khoản vi phạm điều cấm của pháp luật.
4
Ví dụ: Hành vi mua bán
chất ma túy mà không phải mục đích là cung cấp cho các trại nghiện hay các trung
tâm nghiên cứu, sản xuất thuốc thì hợp đồng bị coi là vô hiệu. Nếu nội dung vi
phạm điều cấm của hợp đồng là những điều khoản chủ yếu, cơ bản của hợp đồng
hoặc phần nội dung chính của hợp đồng có ghi nhận nội dung vi phạm quy định
pháp luật thì toàn bộ thỏa thuận trong hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu tuyệt đối hay vô
hiệu toàn bộ. Trường hợp điều khoản vi phạm điều cấm của pháp luật không phải là
4 Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr. 154
8
nội dung cơ bản của hợp đồng mà chỉ là các điều khoản tùy nghi thì chỉ riêng điều
khoản đó vô hiệu, các điều khoản khác vẫn có giá trị ràng buộc giữa các bên. Bên
cạnh đó mục đích của hợp đồng cũng không được vi phạm điều cấm của pháp luật.
Hợp đồng có mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật cũng sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
Dựa vào mục đích, nội dung, phạm vi của hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật mà có thể phân chia hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô
hiệu một phần.
• Hợp đồng vô hiệu toàn bộ do vi phạm điều cấm của pháp luật.
Hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ là hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu, hoặc chỉ
có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn
bộ hợp đồng. Khi có căn cứ cho rằng toàn bộ các điều khoản của hợp đồng vô hiệu,
thì hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Căn cứ làm cho hợp đồng vi phạm điều cấm có thể là
các căn cứ khác nhau như chủ thể giao kết hợp đồng, mục đích của hợp đồng vi
phạm điều cấm của pháp luật… Ví dụ dẫn chứng : Công ty A tiến hành giao kết hợp
đồng với công ty B nhận vận chuyển hóa hất độc hại, tuy nhiên công ty A không
được cấp giấy phép trong hoạt động vận chuyển hoá chất độc hại, như vậy hợp đồng
giao kết bị vô hiệu toàn bộ.
Ngoài ra, hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ khi có một hoặc một số điều
khoản của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, nhưng điều khoản bị vô hiệu
đó là điều khoản cơ bản và không thể tách rời khỏi nội dung khác của hợp đồng. Ví
dụ: Hợp đồng mua bán có đối tượng là ma tuý giữa A với B. Trường hợp này vô
hiệu toàn bộ vì điều khoản đối tượng vi phạm điều cấm của pháp luật. Cần chú ý, có
những trường hợp hợp đồng vô hiệu toàn bộ do vi phạm điều cấm của pháp luật
nhưng đối với một số điều khoản được các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng và có
vai trò độc lập với hợp đồng, thì khi hợp đồng vô hiệu toàn bộ, thì điều khoản đó
cũng được công nhận còn hiệu lực, nếu không vi phạm điều cấm và có đủ các điều
kiện khác luật định mà không thuộc hiệu lực của hợp đồng thì vẫn được công nhận
và áp dung. Ví dụ: trong hợp đồng các bên thỏa thuận lựa chọn Toà án xét xử khi
hợp đồng vô hiệu hoặc các điều khoản về cách thức bồi thường thiệt hại khi các bên
có lỗi. Như vậy giả thiết các điều khoản khác của hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì
việc thỏa thuận lựa chọn Tòa án làm cơ quan xét xử, giải quyết tranh chấp vẫn được
thừa nhận và có giá trị ràng buộc giữa hai bên.
Hậu quả của hợp đồng vô hiệu toàn bộ là hợp đồng không còn tồn tại, tất cả các
thoả thuận, điều khoản trong hợp đồng giữa các bên đều không còn giá trị, các bên
hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.
• Hợp đồng vô hiệu từng phần do vi phạm điều cấm của pháp luật.
Hợp đồng vô hiệu từng phần là những hợp đồng được xác lập mà có một
phần nội dung của nó vi phạm điều cấm của pháp luật không có giá trị pháp lý,
9
nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng.
5
Các điều
khoản này tồn tại độc lập với các điều khoản còn lại của hợp đồng, thì chỉ những
điều khoản đó bị vô hiệu và không làm ảnh hưởng đến phần còn lại của hợp đồng.
Cũng được coi là hợp đồng bị vô hiệu một phần nếu một phần của điều khoản của
hợp đồng vi phạm điều cấm pháp luật dẫn tới vô hiệu.Ví dụ điều khoản thỏa thuận
lãi suất trong hợp đồng vay tài sản vượt quá mức cho phép của pháp luật, thì chỉ
phần lãi suất vượt quá đó bị vô hiệu, các điều khoản khác không bị vô hiệu. Trong
hợp đồng kinh tế các bên thoả thuận mức phạt cụ thể cao hơn khung phạt do pháp
luật quy định. Thoả thuận này của các bên bị vô hiệu, nhưng không làm ảnh hưởng
đến các nội dung khác của hợp đồng. Hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp
luật này bị coi là vô hiệu từng phần.
Trong trường hợp hợp đồng bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi
các điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu và bị xử lý
theo các quy định khác của pháp luật.
Như vậy: Cách phân loại hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật
thành hợp đồng vô hiệu toàn bộ hay một phần chủ yếu dựa trên căn cứ mức độ vi
phạm điều cấm của pháp luật trong phần nội dung của hợp đồng. Phân loại này cho
phép quy định trong luật về cách thức xử lý hay công nhận giá trị hiệu lực của hợp
đồng sao cho đảm bảo tốt quyền lợi chính đáng của các bên khi giao kết hợp đồng
mà có nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luât, cũng như hiệu quả áp
dụng của pháp luật được linh hoạt, hiệu quả trong thực tiễn.
Sau đây là một số trường hợp hợp đồng vi phạm điều cấm pháp luật thường xảy
ra nhất hiện nay:
Đối với các hợp đồng dân sự vô hiệu này là các điều khoản khác nhau
trong hợp đồng không tuân thủ theo qui định pháp luật hoặc vi phạm pháp luật hợp
đồng dân sự , hoặc thiếu các điều khoản cơ bản mà qui định pháp luật hợp đồng dân
sự bắt buộc cần phải có , ví dụ như: trong hợp đồng mua bán có đối tượng giao kết
là tài sản không thuộc sở hữu của bên bán, hoặc là tài sản thuộc sở chung của vợ,
chồng, trong hợp đồng vay tài sản thì lãi suất cho vay lại quá cao, các hợp đồng dân
sự về chuyển nhượng đất thì quyền sử dụng đất được chuyển nhượng sai mục đích
sử dụng , nhưng phổ biến có các hợp đồng dân sự vô hiệu trong các trường hợp
sau:
Các hợp đồng dân sự vô hiệu do có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật (Điều
128 BLDS năm 2005). Hợp đồng dân sự vô hiệu này là giao dịch dân sự vô hiệu
được qui định tại điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005. Đây là thực trạng “hợp đồng
vô hiệu ẩn”, hợp đồng vô hiệu ẩn được hiểu là các hợp đồng vô hiệu không được
5 Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr. 177
10
thông kê tại Toà án nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền, nhưng qua số liệu thống
kê xã hội học, thì đây lại là một con số đáng quan tâm. Các hợp đồng này là các
thoả thuận mua bán hàng hoá quốc cấm, như : ma tuý, đồ cổ, động thực vật rừng
cấm săn bắt, mua bán; các thoả thuận về vay tài sản với lãi suất cao; các hợp đồng
mua bán, tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp nhưng người được nhận
quyền sử dụng đất lại không có nhu cầu sử dụng đất theo qui định luật đất đai 2013;
chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có hợp đồng thực tiễn Tòa án thường
tuyên bố vô hiệu với một số hợp đồng sau:
• Các hợp đồng vay tài sản lãi suất cao
Xuất phát từ nhu cầu thường ngày vốn sản xuất, kinh doanh, do ốm đau, cưới
sinh, các chủ thể có yêu cầu vay mượn nhanh chóng (vay nóng), thủ tục đơn giản,
tiện lợi, nên các bên đã giao kết hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân với nhau,
khi đó thủ tục vay đơn giản, vốn vay cập nhật, đáp ứng kịp thời theo yêu cầu,
nếu hợp đồng vay có thế chấp thì không cần công chứng, chứng thực, ngược
lại lãi suất vay thường cao hơn rất nhiều so với qui định lãi suất tối đa mà Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam qui định , thông thường 2% đến 3% trên 1 ngày, thậm chí
lên đến 10% đến 15% trên 1 tháng.
• Các hợp đồng mua bán vi phạm pháp luật
Hiện nay trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên nói riêng, khu vực miền núi nói
chung đang diễn ra tình trạng mua bán xe máy, khai thác gỗ trái phép một cách ồ ạt.
Do đặc thù nền kinh tế ở những địa phương này là sản xuất nông nghiệp, làm
nương rẫy, khai thác rừng, kinh doanh gỗ, mặt khác vị trí lãnh thổ gần biên
gới, đường xá, địa hình là các đường dã chiến, đường mòn, sình lầy, đồi dốc dẫn
đến nhu cầu về các loại phương tiện vận tải rẻ, động cơ mạnh, để lưu thông trên các
đường rừng núi, dốc trơn. Đáp ứng các yêu cầu đó chỉ có những loại xe như : Xe
81, xe 67 của Nhật, hầu hết những xe này đều có nguồn gốc nhập lậu, không có kê
khai đóng thuế Hải quan, dẫn đến các hợp đồng mua bán xe dạng này rất đơn giản,
các bên mua bán với nhau bằng giấy "viết tay", các bên thoả thuận giá cả, thanh
toán trực tiếp cho nhau, nhận xe, không cần biển số kiểm soát, không cần giấy tờ
đăng ký.
Xuất phát từ nhu cầu sử dụng gỗ cho các ngành sản xuất, hơn nữa tài nguyên
rừng của các địa phương này rất phong phú, đa dạng, với nhiều nguồn khai
thác khác nhau, hợp pháp có, bất hợp pháp có. Song phần lớn các hợp đồng
dân sự mua bán gỗ để xây dựng thì cây gỗ được mua bán là gỗ khai thác trái phép
(gỗ lậu), nhưng khi cây gỗ thành phẩm được giao cho các bên tại công trình thì
không ai kiểm tra, hiển nhiên cây gỗ thành phẩm đó trở thành gỗ được mua bán
hợp pháp.
• Các HĐDS vô hiệu do có các điều khoản khác vi phạm pháp luật
11
Dưới cơ chế của nền kinh tế thị trường, bộ mặt xã hội ngày càng thay đổi, đời
sống ổn định, khấm khá hơn, tạo nên một diện mạo mới về các nhu cầu vật chất,
nhất là các nhu cầu về nhà ở, nhu cầu về xây dựng, chuyển nhượng đất đai hợp
đồng dân sự vô hiệu dạng này, đối tượng hợp đồng thường gây nên tranh chấp là
các tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Với những loại tài sản có đăng ký quyền sở
hữu pháp luật dân sự quy định: khi thực hiện giao kết mua bán, tặng cho ,
các bên phải lập hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực, nếu
liên quan đến quyền sử dụng đất thì phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép,
nếu là tài sản chung của vợ chồng, thì phải có sự đồng ý của cả hai, qui định của
pháp luật là vậy nhưng thực tiễn các bên vẫn lừa dối nhau, nhầm lẫn, giả mạo để
giao kết.
Các hợp đồng mua bán tài sản mà tài sản là tài sản có đăng ký sở hữu, thuộc sở
hữu chung của vợ chồng, thường người đứng tên trong giấy đăng ký tự ý mua bán,
tặng cho mà không cần có sự đồng ý của người kia, hợp đồng mua bán mà tài sản
mua bán là di sản thừa kế, chia cho nhiều người, một người hưởng thừa kế tự ý đem
bán mà chưa có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác, tự ý cầm cố tài sản thuộc sở
hữu của người khác , tác giả dẫn ví dụ liên quan đến hợp đồng trong lĩnh vực xậy
dựng.
Lĩnh vực hợp đồng về xây dựng nhà ở được pháp luật về hợp đồng dân sự quy
định rất cụ thể, khi xây dựng nhà ở và công trình kiến trúc phải có dự toán thiết kế
công trình, giấy phép của cơ quan xây dựng, sự phê duyệt của Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền. Thực tế vẫn còn rất nhiều vi phạm nghiêm trọng, nhiều hợp
đồng xây dựng vô hiệu do vi phạm các qui định này, phần nhiều các hợp đồng xây
dựng nhà ở không có giấy phép xây dựng, thiếu bản dự toán thiết kế công trình,
chưa có sự cho phép của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Ngoài ra còn có các
hợp đồng xây dựng nhà ở trên đất sử dụng vào mục đích khác, không được làm nhà
ở trên đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích
nuôi trồng thuỷ sản, các hợp đồng xây dựng nhà ở trên đất thuộc hành lang bảo vệ
an toàn đê điều, hành lang bảo vệ an toàn các công trình công cộng khác. Điều đó
đã gây nguy cơ đe doạ sự an toàn các công trình công cộng, gây nguy cơ đe doạ
về an toàn tính mạng con người, tạo khó khăn cho quản lý nhà nước về công trình,
đô thị, gây ảnh hưởng nghiêm trọng lợi ích xã hội.
Trên đây là những thực trạng hợp đồng vô hiệu rất nghiêm trọng, là phần chìm nguy
hiểm của tảng băng lớn về hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật, trong giao giao dịch dân sự hiện nay, gây thiệt hại cho các lợi ích chính đáng,
mất trật tự quản lý nhà nước đe doạ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
2.1.2 . Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật
12
Một hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật thì có hậu quả pháp
lý cũng được áp dụng tương tự như việc giải quyết một giao dịch dân sự vô hiệu,
hợp đồng dân sự bị vô hiệu.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được giải quyết theo Điều 137 BLDS năm
2005. Theo quy định của điều luật này, sự vô hiệu của hợp đồng dẫn đến hậu quả là
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ
thời điểm xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng
tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy
định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ dẫn đến một hậu quả pháp lý là không làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên, kể từ thời điểm
xác lập. Do vậy, việc chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật, cho nên
phát sinh nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp
luật theo Điều 599 đến điều 601 Bộ luật dân sự năm 2005.
6
Khi hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật thì các bên chủ thể có
nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng dân sự là hiện vật mà không hoàn trả
được thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ những tài sản, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch
thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, còn
nều các bên trong hợp đồng vô hiệu đều có lỗi thì các bên có nghĩa vụ bồi thường
theo mức độ lỗi của mình.
Như vậy, trong trường hợp hơp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật thì hợp
đồng vô hiêu ngay từ thời điểm giao kết không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên, nó đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên;
các bên tham gia vào giao dịch dân sự có thể biết hoặc không biết là mình đã tham
gia dân sự trái pháp luật. Tuy theo tính chất và mức độ vi phạm thì tài sản giao dịch
và hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu sung công quỹ nhà nước. Trong trường hợp
có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của mình; nếu
chỉ một bên đều có lỗi, thì bên đó phải bồi thường cho bên kia.
2.2. Việc xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật.
Việc kết luận và xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án chỉ xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
6 Đỗ Văn Đại (2014), Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2005, nhà xuất bản tư
pháp, tr 138
13
Về nguyên tắc, hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ ràng buộc các bên từ thời điểm ký kết, bởi vậy hợp
đồng dân sự bị coi là vô hiệu toàn bộ được xử lý như sau:
• Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa được thực hiện thì các bên không
được phép thực hiện:
• Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện thì các bên phải chấm
dứt việc tiếp tục thực hiện và bị xử lý về tài sản;
• Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiên xong, thì các bên bị xử lý
về tài sản.
Đối với hợp đồng dân sự do vi phạm điều cấm của pháp luật bị coi là vô hiệu
từng phần thì các bên phải sửa đổi hoặc huỷ bỏ nội dung trái pháp luật. Nếu nội
dung vô hiệu đã được thực hiện xong phải bị xử lý về tài sản.
2.2.1 Nguyên tắc xử lý hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật.
Việc xử lý về tài sản được thực hiện theo nguyên tắc sau:
• Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện
hợp đồng. Trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng
tiền, nếu tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật;
• Thu nhập bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách Nhà nước, thiệt hại phát sinh các
bên phải chịu.
Thực tiễn áp dụng quy định về sử lý tài sản khi hợp đồng dân sự vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật :
Thứ nhất, khôi phục lại tình trạng ban
đầu
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì “khôi phục lại tình trạng ban đầu”
thường
được đồng nhất với “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, song đây
lại là hai
khái
niệm hoàn toàn khác nhau. Tòa án buộc các bên trong hợp
đồng vô hiệu phải
khôi
phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn trả
không đúng với hiện trạng
tại
thời điểm xác lập hợp đồng: tài sản đã bị hư
hỏng, giảm giá trị; tài sản đã được
tu
sửa, xây dựng, cải tạo làm tăng giá trị.
Quy định “các bên khôi phục lại tình
trạng
ban đầu” cũng là việc không thể
trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là
công việc, dịch vụ đã thực hiện.
14
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp bên nhận chuyển nhượng
quyền
sử
dụng đất đã xây dựng nhà ở hoặc công trình kiên cố khi hợp đồng
bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật ( chuyển nhựơng nhằm mục đích tẩu tán
tài sản, tránh thực hiện nghĩa vụ),
Tòa
án không buộc bên nhận chuyển nhượng
phải tháo dỡ công trình trên đất để trả
lại
hiện trạng đất ban đầu cho bên
chuyển nhượng. Mặc dù việc khôi phục lại
hiện
trạng ban đầu trong trường
hợp này là có thể thực hiện được, song sẽ gây lãng
phí
rất lớn, đặc biệt khi tài
sản tăng thêm có giá trị cao. Do đó, để đảm bảo quyền và
lợi
ích hợp pháp của
các bên. Tòa án có thể lựa chọn giải pháp theo hướng buộc
một
bên nhận lại
tài sản đã được làm tăng giá trị và thanh toán thành tiền tương ứng
với
phần
giá trị tài sản tăng thêm cho bên
kia.
Thứ hai, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận
.
Đây là chế tài có mục đích “khôi phục lại tình trạng ban đầu” của tài sản
của
các
bên như trước khi giao kết hợp đồng. Nhưng việc “khôi phục lại tình
trạng ban
đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” chỉ có thể áp dụng khi đối
tượng hợp đồng
còn
nguyên vẹn, chưa có hoặc ít có sự biến đổi đáng kể, như
đã nói
trên.
Trong trường hợp này khó áp dụng đối với đối tượng hợp đồng là tài sản
không
còn giữ được tình trạng như ban đầu hay đối tượng hợp đồng là công
việc (dịch
vụ)
đã được thực hiện mà có căn cứ xác minh là hợp đồng vô hiệu.
Đặc biệt là đối
với
những hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm
pháp luật và trái đạo
đức
xã hội mà đối tượng hợp đồng là các công việc có
liên quan đến giá trị nhân
thân
của các bên chủ thể. Thực tế xét xử cho thấy,
đối với những hợp đồng như hợp
đồng
vận chuyển, hợp đồng xây dựng, hợp
đồng tư vấn việc hoàn trả cho nhau những
gì
đã nhận rất khó thực hiện.
Ví dụ: trong hợp đồng vận chuyển hàng lậu, khó có thể xử
lý
trường hợp
đối tượng hợp đồng đã được vận chuyển tới một không gian hay
địa
điểm
khác so với địa điểm xuất phát ban đầu hay hợp đồng được hưởng lợi về mặt
tinh thần như hợp đồng mua bán dâm thì cũng không thể hoàn trả cho nhau những
gì đã nhân được
Thực tiễn xét xử tại Tòa án cũng cho thấy, việc hoàn trả cho nhau
những gì
đã
nhận chưa thực sự đảm bảo được lợi ích của các chủ thể. Điển
15
hình như đối
với
những giao dịch có đối tượng là nhà ở hay quyền sử dụng
đất. Trong các vụ án
yêu
cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật tại Điều 12 Luật đất đai năm 2013, nguyên đơn hầu hết là bên
chuyển nhượng. Đối
với
bên chuyển nhượng, việc lấy lại đất là thoả đáng.
Nhưng với bên được
chuyển
nhượng, việc phải trả lại đất cho bên bán là
một tổn thất rất lớn đối với họ. Cho
dù
được nhận lại đủ số tiền đã bỏ ra
trước đây, họ không bao giờ còn có thể mua
được
thửa đất như vậy nữa, vì vị
trí lô đất đã khác, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị
đồng
tiền cũng đã khác.
Tuy trong trường hợp bên chuyển nhượng có lỗi khi xác lập
hợp
đồng này,
bên nhận chuyển nhượng được bồi thường thiệt hại, nhưng khoản
bồi
thường cũng không bao giờ bù đắp được mất mát thực tế của họ do hợp
đồng
chuyển nhượng bị tuyên vô hiệu. Đây cũng là một nguyên nhân làm
phát sinh
nhiều
khiếu
kiện.
Khoản tiền phải hoàn trả do không hoàn trả được tài sản bằng hiện vật
cần
được
xác định như thế nào? Đây cũng là một vấn đề không đơn giản.
Ví dụ, trong
hợp
đồng cho thuê máy móc, thiết bị giải trí vi phạm điều cấm
của pháp luật bị tuyên bố vô hiệu, Toà án ra phán
quyết
hoàn trả tài sản mà
hiện nay giá trị tài sản đã bị hao mòn (bao gồm cả hao mòn
vô
hình và hao
mòn hữu hình) theo thời gian, thì sẽ không đảm bảo được quyền lợi
cho
bên
cho thuê, nhưng ngược lại, yêu cầu bên thuê phải thanh toán giá
t
rị tài sản
tính
theo thời điểm xác lập hợp đồng thì rõ ràng, cách giải quyết đó
không đảm
bảo
quyền lợi ích hợp pháp của bên thuê. Bởi hiện tại, thiết bị máy
móc giải trí đó đã
lạc
hậu, bị hao mòn và bên thuê cũng đã phải trả chi phí
khấu hao tài sản trong giá
thuê
thiết
bị.
Thứ ba, bên có lỗi phải bồi thường thiệt
hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu do vi phạm
điều cấm của pháp luật là một dạng
tr
ách
nhiệm
bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Do đó căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm
bồi
thường thiệt hại
do hợp đồng vô hiệu cũng giống như các căn cứ làm phát sinh
trách
nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác quy định tại Điều 604 Bộ luật
dân
sự
2005, bao gồm bốn điều kiện: hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật,
16
có
lỗi của người gây thiệt hại, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân
quả
giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt
hại.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong trường hợp này là hành vi vi
phạm
điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng, làm cho hợp đồng dân sự rơi vào
tình trạng vô
hiệu,
hoặc là hành vi xâm phạm đến tài sản và những lợi ích
hợp pháp khác của các
bên
trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng
như: hành vi lừa dối, đe
dọa….Bản
thân việc giao kết và thực hiện hợp đồng
không thỏa mãn các điều kiện cũng
được
xem là hành vi trái pháp luật, ví dụ
như: giao kết hợp đồng vay tài sản lãi suất cao.
Lỗi là yếu tố chủ quan, thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi vi phạm
pháp luật của mình. Căn cứ Điều 308 Bộ luật dân sự 2005 về lỗi trách nhiệm dân
sự có hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Việc xác định lỗi rất quan trọng, đối với
trường hợp bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu không chỉ là cơ sở pháp sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà còn là cơ sở để xác định mức
bồi thường thiệt hại do hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật. “Nếu cả hai cùng có lỗi thì phải xác định mức lỗi của từng bên, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại sẽ được xác định tương ứng vối mức độ lỗi của các bên”
7
Có
thể nói lỗi là thước đo trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hợp đồng dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, đây là một đặc thù của trong trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
khác .
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hợp đồng dân sự vô hiệu cũng là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên khi xác định thiệt hại, cũng
áp dụng các quy định về xác định thiệt hại là căn cứ bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng tại Mục 2 Chương XXI Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, đối vối thiệt hại do
hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu còn có đặc thù riêng nên việc xác định thiệt hại
còn phải căn cứ vào hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4 Mục 2 Phần I Nghị quyết
01/2003/ NQ - HĐTP ngày 16/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao về xác định thiệt hại của hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, thì có thể xác
định thiệt hại trong hợp đồng vô hiệu nói chung bao gồm: khoản tiền mà các bên
7
Điểm a.3 tiểu mục 2.4 mục 2 Nghị quyết 01/2003/NQ – HĐTP ngày 16 tháng
4 năm 2003
của
Hội đồng thẩm phán Tòa án dân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết
một
số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình
.
17
bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản là đối tượng của hợp đồng bị
vô hiệu bị hư
hỏng; khoản tiền mà các bên bỏ ra để làm tăng giá trị của tài
sản là đối tượng của
hợp đồng bị vô hiệu; khoản tiền chênh lệch giá do các
bên thỏa thuận với giá trị
tài
sản tại thời điểm xét xử sơ thẩm; các thiệt hại
khác (nếu
có).
Mối quan hệ nhân quả thể hiện ở việc thiệt hại xảy ra kết quả của hành
vi
trái
pháp luật hay ngược lại, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra
thiệt hại.
Tuy
nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là một vấn đề phức
tạp. Do đó, cần
phải
xem xét một cách thận trọng, khách quan và toàn diện từ
đó mới có thể rút ra
được
kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng
trách nhiệm của người gây
thiệt
hại. Chỉ khi nào thiệt hại của một bên là hậu
quả tất yếu của hành vi trái pháp
luật
của bên dẫn đến việc hợp đồng mua bán
nhà ở vô hiệu thì bên gây thiệt hại phải
bồi
thường bên
kia.
Ngoài việc xử lý về mặt dân sự khi hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật thì các bên giao kết hợp đồng còn bị xử lý về mặt hành chính và
hình sự. Tuỳ thuộc vào lỗi, nội dung vi phạm điều cấm thuộc lĩnh vực nào, mức độ
như thế nào để xem xét. Ví dụ: Hợp đồng sản xuất chất ma tuý đã vi phạm vào Điều
193 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội sản xuất trái pháp chất ma tuý. Đối với các hợp đồng vận chuyển chất độc
hai qua khu dân cư đông người thì sẽ bị xử lý phạt vi phạm hành chính.
2.2.2 Thực tiển xử lý tài sản khi hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật.
Thiết nghĩ, thực tiễn xử lý tài sản khi hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật còn nhiều điểm bất cập.
Thứ nhất : Khi các bên không hoàn trả được bằng hiện vật mà trả bằng tiền thì
tính theo giá nào, giá ghi trong hợp đồng hay giá thị trường tại thời điểm thanh
toán? Sẽ hợp lý hơn nếu tính giá trị tài sản phải hoàn trả theo giá thị trường tại thời
điểm thanh toán, bởi lẽ bên phải hoàn trả tài sản có thể mua được tài sản đó theo giá
thị trường để hoàn trả bằng hiện vật.
Thứ hai : Thế nào là "thu nhập bất hợp pháp" cũng chưa được làm rõ. Bởi vậy
tuỳ từng trường hợp, xét theo tính chất của hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của
pháp luật bị vô hiệu mà tài sản giao dịch và lợi nhuận thu được có thể bị tịch thu
theo quy định của pháp luật.
Thứ ba : Quy định thiệt hại phát sinh các bên phải chịu có nghĩa là thiệt hại
xảy ra cho bên nào bên đó tự gánh chịu là chưa phù hợp và không công bằng. Bởi lẽ
có trường hợp hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật bị vô hiệu toàn bộ
hoàn toàn do lỗi của một bên gây ra. Nên áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên có lỗi, thì mỗi bên phải tự chịu phần thiệt hại của mình; nếu chỉ có một bên
có lỗi, thì bên đó phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
18
Thứ tư: Chưa quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp
đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật bị vô hiệu. Có thể linh hoạt áp dụng
theo quy định của Điều 147 Bộ luật Dân sự: "Trong trường hợp giao dịch dân sự bị
vô hiệu toàn bộ, những tài sản giao dịch đã được chuyển giao bằng một giao dịch
khác cho người thứ ba ngay tình, thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực;
nếu tài sản giao dịch bị tịch thu sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có
quyền nhận tài sản đó, thì người thứ ba có quyền yêu cầu người xác lập giao dịch
với mình bồi thường thiệt hại".
.
2.2.3. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do vi
phạm điều cấm.
Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời hiệu
yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao
dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Bởi vì
những giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội,
giả tạo được quy định tại điều 128 và điều 129 Bộ luật Dân sự thi không bị hạn
chế về thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Vì những
giao dịch này xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng cho nên cần phải
xử lý để bảo vệ lợi ích chung.
8
Quy định này có điểm bất cập cần
xem
xét. Đó
là, đ
ối với giao dịch dân sự (Hợp đồng dân sự) được quy định tại Điều 128
Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định thời hiệu yêu cầu là “không bị hạn chế”
là không có
ý
nghĩa về mặt pháp lý bởi ý nghĩa của thời hiệu không còn và
cũng không có ý
nghĩa
về thực tế bởi nếu thời gian dài như vậy thì liệu các
chứng cứ chứng minh cho sự
vi
phạm điều cấm của pháp luật của các giao dịch,
hợp đồng nói trên có còn đủ để xem xét hiệu lực của nó hay
không.
Mặt khác,
nếu quy định thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp này có thể dẫn
đến
sự
mâu thuẫn với Điều 247 Bộ luật Dân sự n ă m 2005 nếu vào thời điểm xác
lập
hợp
đồng, người xác lập không biết và không thể biết hành vi xác lập
hợp đồng
của
mình là vi phạm pháp luật. Điều này chắc chắn sẽ gây khó
khăn cho cơ quan
nhà
nước thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của các
bên cũng như lợi ích của
xã
hội không chỉ trong việc xác định chứng cứ mà
cả trong việc lựa chọn điều
khỏan
áp
dụng.
8 Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2005,nhà xuất bản tư pháp –xb 2014, tr 182
19
Do vậy, tác giả nhất trí với quy định mới trong Dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa
đổi),
thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đối
với các trường
hợp
quy định tại Điều 128 và 129 Bộ luật dân sự 2005 cần
được xác định bằng một
con
số chính xác, đủ lâu (30 năm) để vẫn đảm bảo
được tính nghiêm khắc của điều
luật
đối với các hành vi vi phạm nói trên và
có thể bảo vệ cao nhất lợi ích chung
cũng
như bảo đảm được trật tự, an toàn
trong giao lưu dân
sự.
9
2.3. Nguyên nhân và giải pháp.
Qua thực tiễn thi hành Bộ luật dân sự năm 2005, các quy định pháp
luật về quan hệ Hợp đồng dân sự cho thấy, các quy định pháp luật dân sự
nước ta, nhìn chung có tiến bộ, tương đối hoàn thiện và đầy đủ, điều chỉnh hầu
hết các vấn đề cơ bản trong quan hệ về dân sự, kỹ thuật lập pháp có tiếp thu những
tinh hoa lập pháp qua các thời kỳ, nội dung phù hợp với đặc thù kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước, đặc thù dân tộc.
Song các qui định về quan hệ Hợp đồng dân sự cũng không tránh khỏi
những thiếu xót, bất cập bởi nền kinh tế thị trường đa dạng, năng động, phức tạp
luôn vận động và phát triển, đời sống đi lên, trình độ dân trí nâng cao, nhu cầu giao
dịch ngày càng phát sinh, trở nên cấp thiết đối với mọi cá nhân và tổ chức, hơn
nữa chịu áp lực lớn trong quá trình hội nhập Quốc tế, toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới.
2.3.1 Nguyên nhân:
Theo báo cáo nghiên cứu ở Chương 1, chúng ta thấy thực trạng các Hợp đồng
dân sự vô hiệu là một tồn tại phong phú , đa dạng, phức tạp, là một vấn đề nghiêm
trọng, bức xúc hiện nay. Vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, chủ
quan có, khách quan có, do đòi hỏi phức tạp của cơ chế thị trường, do kỹ thuật lập
pháp còn nhiều bất cập, vấân đề giải thích pháp luật, thực tiễn áp dụng chưa có sự
thống nhất
Do kỹ thuật lập pháp của chúng ta còn chưa hoàn thiện, mặc dù đã có sự tham
khảo pháp luật các nước, được sự giúp đỡ của chuyên gia các nước phát triển như
Nhật, Pháp Song các văn bản pháp luật vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau,
kết quả, các quy định pháp luật chưa bao quát toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời
9 Khoản 2 Điều 170 Dự thảo Bộ luật dân
s
ự
(s
ửa
đổi).
20
sống, mọi quan hệ xã hội, chưa có sự giải thích chính thức, việc áp dụng không
thống nhất .
Hơn thế ngày nay, thế giới ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày một
tiến bộ, hiện đại, nền kinh tế thị trường vận động, phát triển phức tạp, nhu
cần trong giao lưu dân sự ngày càng xuất hiện các quan hệ sản xuất mới, phức tạp
hơn, chính đáng và phù hợp với đạo đức xã hội. Nhưng pháp luật chưa có sự tiên
liệu, nên không có quy phạm điều chỉnh kịp thời như : đẻ thuê, tặng cho trứng, giao
phối gen, hoặc các hợp đồng được ký kết bằng email, fax , đã dẫn đến các Hợp
đồng dân sự có nội dung, hoặc hình thức mà đó chưa phải là đối tượng điều chỉnh
của pháp luật, dẫn đến những tranh chấp loại này chưa có hướng dẫn giải quyết,
không có cơ sở pháp lý để thực hiện.
Ngoài ra, ở các địa phương, các vùng miền nông thôn, vùng sâu vùng xa, đời
sống còn khó khăn, cơ sở vật chất cò thiếu thốn, phương tiện thông tin đại chúng
khan hiếm nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế, điều kiện ngân sách để các cơ quan
có thẩm quyền sử dụng để thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống
còn gặp nhiều, khó khăn.
Mặc dù pháp luật đối với một số lĩnh vực nhất định đã được quy định chặt chẽ,
chi tiết và đầy đủ về các hành vi bị điều luật cấm trong lĩnh vực này vẫn chiếm một
số lượng rất đáng kể. Hoặc do các bên chủ thể không có sự hiểu biết pháp
luật, hoặc do các bên chủ thể có nhận thức tốt về pháp luật nhưng vẫn cố tình lẫn
tránh.
Khi giao kết hợp đồng, các bên thường theo tư duy thông thường, từ kinh
nghiệm sống, quan điểm đạo đức của cá nhân để nhận định rằng việc giao kết như
vậy là đúng pháp luật, đơn cử, trong nhiều trường hợp, tài sản thuộc đối tượng
giao kết của hợp đồng là tài sản sở hữu chung vợ chồng, là loại tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, nhưng trên giấy đăng ký chỉ ghi tên một người, thông thường là tên
người chồng. Như vậy người có tên trong giấy đăng ký tự hiểu rằng đó là tài sản
thuộc sở hữu của mình nên có quyền mua bán, tặng cho không cần ý kiến của
người còn lại.
Do sự hạn chế của các qui định PL : bất cập, nhiều mâu thuẫn, có nhiều
quy định còn chung chung, thiếu chặt chẽ; đã tạo “lỗ hổng” cho các vi phạm
pháp luật phát triển. Bằng nhiều cách khác nhau, các chủ thể này đã hợp thức hoá
các thủ tục, giấy tờ theo quy định pháp luật một cách trái pháp luật để giao kết hợp
đồng giả mạo, lừa dối, chẳng hạn : Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng, khi giao kết, chỉ một bên sở hữu giả mạo chữ ký của người sở hữu kia, giả
mạo giấy uỷ quyền để hợp thức hoá hồ sơ, thủ tục trong HĐ mua bán, tặng cho,
nhằm để được công chứng, chứng thực tại các cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra do
có sự am hiểu pháp luật, nên các bên chủ thể của hợp đồng vì lợi ích nhất định, trốn
thuế đã ngầm ký kết với nhau các hợp đồng sai quy định pháp luật, ví dụ :
21
mua bán xe máy thuộc sở hữu chung của vợ chồng, chỉ người có tên trên giấy
đăng ký sở hữu thực hiện giao kết, không có chứng nhận, chứng thực của cơ
quan có thẩm quyền, không đóng thuế, không thực hiện sang tên trước bạ.
2.3.2 Giải pháp đặt ra:
Bên cạnh việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan có
thẩm quyền cần ban hành văn bản giải thích pháp luật một cách chính thức, vì văn
bản pháp luật sử dụng các thuật ngữ pháp lý, cấu thành quy phạm pháp luật sẽ
khó nhận thức, khó được tiếp thu thống nhất, khi ban hành sẽ có nhiều cách hiểu
khác nhau. Kết quả, với các cơ quan thực thi pháp luật sẽ áp dụng không thống nhất
giữa các địa phương, các cơ quan ban ngành; với người dân sẽ khó tiếp thu pháp
luật, hiểu sai pháp luật, ảnh hưởng đến ý thức tuân thủ pháp luật.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật: bằng cách tổ chức các
cuộc thi hiểu biết pháp luật, đưa pháp luật thành một môn học chính thức
trong chương trình đào tạo tại nhà trường phổ thông. Nhất là các vùng nông thôn,
khu vực miền núi cần được quan tâm trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở
những vùng này.
Cần có một cuốn sách tổng hợp và phân loại các quy định cấm của pháp luật để
mọi người được tiếp cận tốt hơn và sẽ hạn chế được việc vi phạm điều cấm của khi
tham gia giao dịch dân sự, cũng như giao kết hợp đồng. Bởi vì, không phải ai khi
tham gia giao dich dân sự, hợp đồng dân sự cũng có thể tìm hiểu được tất cả các văn
bản pháp luật về vấn để mình cần giao kết. Điều cấm của pháp luật là quy đinh rải
rác ở các văn bản quy phạm pháp luật mà số lượng các văn bản của pháp luật của
Việt Nam trong mỗi lĩnh vực là rất lớn. Nên cần tổng hợp lại giúp cho những người
dân tham gia có thể dễ dàng tiết cận và tránh vi phạm pháp luật.
Quy định hiện nay có thể dẫn đến trường hợp các bên tham gia xác lập, thực
hiện hợp đồng mặc dù không tuân theo quy định của pháp luật nhưng không vi
phạm điều cấm của pháp luật (những việc mà pháp luật cấm thực hiện). Với logic
này đương nhiên hợp đồng nói trên vẫn có hiệu lực (hợp đồng đó không vô hiệu).
Tuy nhiên, điều này lại đi ngược lại mục đích của việc ban hành pháp luật. Ngoài ra,
mặc dù điểm b khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 được hiểu là quy định
điều kiện chung để giao dịch dân sự có hiệu lực quy định “mục đích và nội dung
của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;”
nhưng tại các khoản 1 Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005 lại quy định “tự do giao
kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” và Điều 652 Bộ luật
22
Dân sự năm 2005quy định “Nội dung di chúc không trái pháp luật,…”. Nói cách
khác việc sử dụng các thuật ngữ của Bộ luật Dân sự liên quan đến hiệu lực của giao
dịch dân sự còn thiếu thống nhất. Để khắc phục điều này, theo tác giả nên sử dụng
thống nhất thuật ngữ “không vi phạm qui định bắt buộc” trong các điều khoản nói
trên. Cụ thể là khoản 2 Điều 122 BLDS năm 2005 nên được sửa lại là: “Mục đích
và nội dung của giao dịch không vi phạm qui định bắt buộc của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội”.
KẾT
LUẬN
Hợp đồng là phương tiện pháp lý quan trọng để cho các công dân thỏa
mãn
nhu
cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong
sinh hoạt
tiêu
dùng. Nó là sự thỏa thuận của các bên nhằm đạt được lợi ích
về vật chất hoặc
về
tinh thần nào đó. Tôn trọng sự tự do, tự nguyện, đạo
đức xã hội, thuần phong
mỹ
tục, sự đảm bảo và minh bạch là những nền tảng
xây dựng nên các điều kiện có
hiệu
lực của hợp đồng được quy định trogn Bộ
luật Dân sự năm 2005. Nếu vi phạm một trong các
điều
kiện đó là hợp đồng bị
vô hiệu, điều đó dẫn đến hậu quả pháp lý nhất định, các
bên
khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không
hoàn trả được
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền; thiệt hại phải bồi
thường.
Trong
quá trình áp dụng pháp luật, các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật và xử lý hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật
thể
hiện những điểm bất hợp lý, nhận thấy những bất cập đó, các nhà
làm luật đã có
dự
thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự trong đó có sửa đổi phần điều
kiện có hiệu lực của
giao dịch, thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật
. Quy định đó, sau khi sửa đổi thiết nghĩ
là hợp lý và phần nào giải quyết
được
bế tắc trong quá trình áp dụng. Tuy
nhiên, việc những
quy
định về điều kiện có hợp đồng dân sự chưa được
s
ửa
đổi triệt để, có nghĩa là,
vẫn
còn nhiều bất cập tồn tại như đã phân tích ở
trên nhưng không được đề cập
trong
bản dự
thảo.
23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
• Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14 tháng 6 năm 2005;
• Bộ luật Hình sự năm 1999 sữa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật số
37/2009/QH13) ngày 16 tháng 9 năm 2009;
• Nghị quyết 01/2003/NQ – HĐTP ngày 16 tháng 4 năm 2003
của
Hội đồng thẩm phán Tòa án dân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết
một
số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình;
•
Luật Phá sản (Luật số 59/2014/QH13) ngày 19 tháng 6 năm 2014;
• Dự thảo Bộ luật dân
s
ự
(s
ửa
đổi).
B. Tài liệu tham khảo
• Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và Bình luận Bản án,
NXB. Chính trị quốc gia, năm 2011;
• Bình luận khoa học Bộ luật dân sự, NXB. Tư Pháp năm 2014;
• Giáo trình ĐH Luật TPHCM, Pháp luật về hợp đồng và Bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam năm
2013;
• Nguyễn Văn Cường, Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết
hậu quả pháp lý của giao
dịch
dân sự vô
hiệu;
• Nguyễn Thị Thanh , Xử lý hợp đổng vô hiệu theo pháp luật dân sự
Việt
Nam , Xb năm 2005;
• Tập bài giảng Những vấn đề chung về luật dân sự - ĐH Luật TPHCM;
• Trần Việt Anh, Bàn về khái niệm hợp đồng, Tap chí Nhà nước và
pháp luật số 4/2010;
• Đỗ Văn Đại, Thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 5/2006;
Wesite
•
/>keyword=&match=True&area=0
• />dong-dan-su-hop-dong-dan-su-vo-hieu.htm
24
•
/>qua-phap-ly-cua-viec-tuyen-bo-giao-dich-dan-su-vo-hieu.htm
•
/>%E1%BA%A3i+quy%E1%BA%BFt+h%E1%BB%A3p+
%C4%91%C3%B4ng+v%C3%B4+hi%E1%BB%87u?
utm_source=search&utm_campaign=clickSearch&utm_medium=clickSearchTa
g
•
/>ban-hang-hoa-quoc-te-va-thuc-trang-giai-quyet-hop-dong-vo-hieu.htm
•
o/luan-van/de-tai-phan-tich-nhung-dieu-khoan-
chu-yeu-cua-hop-dong-40234/
/>25