NỘI DUNG ĐỀ TÀI :
MỘT CÁCH SOẠN GIẢNG MỚI BÀI “THUỐC ”(LỖ TẤN- LỚP 12 BAN
CƠ BẢN) THEO PHƯƠNG CHÂM TÍCH HỢP, NÊU VẤN ĐỀ, TRAO ĐỔI
THẢO LUẬN
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước đang trong giai đoạn đổi mới. Nhìn một cách toàn diện, ta thấy tất cả
xã hội đang “thay da đổi thịt”. Hoà chung với không khí biến đổi chung ấy, ngành
giáo dục nước nhà đã và đang thay đổi cách dạy, cách học, cũng như chương trình
nội dung sách giáo khoa, để phù hợp với xu thế chung của thời đại để có thể sánh
vai cùng các cường quốc năm châu.
Từ năm 2001 đến năm 2006 : SGK văn học của lớp 10, 11, 12 được biên
soạn theo một kết cấu chặt chẽ gồm ba phần là văn học Việt Nam ; Văn học nước
ngoài ; Lí luận văn học. Nhưng từ năm học 2006-2007 đến nay SGK ngữ văn của
cả ba khối lớp học trên đã hợp nhất ba phần trên và cuốn sách tiếng Việt thành bộ
sách Ngữ Văn. Vì thế mà kết cấu có phần khác biệt . Đặc biệt phần văn học Việt
Nam và văn học nước ngoài được thiết kế đan xen vào nhau , giúp học sinh không
chỉ có cái nhìn toàn diện hơn về nền văn học Việt Nam mà còn có cơ hội so sánh
đối chiếu với nền văn học thế giới. Đây là sự đổi mới hết sức đúng đắn và phù hợp
với phương pháp dạy văn và học văn hiện nay.
Chương trình sách giáo khoa có sự thay đổi, vì vậy không có lí gì mà người
dạy và người học văn chỉ “dậm chân tại chỗ”. Đặc biệt chúng ta không chỉ quan
tâm và hứng thú với những tác phẩm văn học nước nhà, mà còn cần chú ý tìm tòi,
cảm nhận hơn nữa với những tác phẩm văn học nước ngoài.
Thực tế học văn cho thấy, vấn đề giảng dạy và học văn học nước ngoài chưa
thực sự được chú trọng. Nguyên nhân là:
- Về phía người dạy : Giáo viên giảng dạy những tác phẩm văn học nước
ngoài chủ yếu là thụ động, ngại khai thác kĩ tác phẩm, quan niệm của họ là dạy
những tác phẩm văn học nước ngoài là cho học sinh có được học. Bởi vì nó không
quan trọng, không liên quan đến thi, nếu có chỉ là những câu hỏi tái hiện kiến thức
ở kì thi tốt nghiệp. Chính vì vậy mà việc soạn giảng những tác phẩm văn học nước
ngoài thường sơ sài, qua loa. Còn phương pháp dạy học phần lớn là thuyết giảng,
còn nếu có nêu vấn đề thì chỉ là chiếu lệ.
- Về phía người học : Các em cũng mang tư tưởng chung là các tác phẩm
văn học nước ngoài không quan trọng, không nằm trong chương trình thi là bao.
Đồng thời, những tác phẩm văn học nước ngoài có phần xa lạ với suy nghĩ và tâm
lý của các em. Đặc biệt có những tác phẩm rất ngắn ngọn, cô đọng, súc tích đòi hỏi
người học phải biết khám phá giá trị của nó, thì phần lớn học sinh của chúng ta rất
lười suy nghĩ để phát hiện (ví dụ: tác phẩm Thuốc - Lỗ Tấn). Do đó, khi tìm hiểu
những tác phẩm văn học nước ngoài thường các em không hứng thú. Học sinh chỉ
chiếm lĩnh tác phẩm một các chung chung, thậm chí mơ hồ không đúng với ý
nghĩa, chủ đề của tác phẩm.Có khi các em “học xong là quên ngay”.
Vì những lí do trên, tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy và học tác
phẩm văn học nước ngoài là một yêu cầu bức thiết hiện nay. Chúng ta không nên
nghĩ đơn giản là tác phẩm văn học nước ngoài đưa vào chương trìng SGK cho
phong phú, mà phải nhìn nhận một cách đúng đắn rằng những tác phẩm văn học
nước ngoài cũng như văn học Việt Nam là những sáng tạo nghệ thuật chân chính
của các nghệ sĩ văn chương. Cho nên chúng ta phải đón nhận nó bằng tất cả tấm
lòng, sự nhiệt huyết và cả sự rung động của con tim mới có thể phát hiện ra những
vẻ đẹp thực sự của tác phẩm nghệ thuật.
Là một giáo viên trẻ (cả tuổi đời lẫn tuổi nghề) có tâm huyết là dâng hiến tất
cả tài năng và tấm lòng của mình cho sự nghiệp giáo dục. Cho nên tôi đã vận dụng
phương pháp giảng dạy truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn (lớp 12 – Ban cơ bản) theo
Giáo viên : Lê Thị Hường - 2 - Bộ Môn: Ngữ Văn
phương châm tích hợp các kiến thức lịch sử; kĩ năng làm văn, và phương pháp nêu
vấn đề, trao đổi thảo luận nhằm kích thích hứng thú học sinh học và tìm hiểu
những tác phẩm văn học nước ngoài.
Mong rằng các đồng chí góp ý và động viên.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 3 - Bộ Môn: Ngữ Văn
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I -Tiến trình nghiên cứu:
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học văn trong giai đoạn
hiện nay. Đặc biệt là phát huy tính chủ động, sáng tạo kích thích hứng thú học tập
và thêm yêu thích văn học nước ngoài. Hơn nữa để có cơ hội cho chính các em có
những chính kiến , quan điểm của mình về một vấn đề được nêu trong tác phẩm.
Tôi và một số đồng nghiệp đã tiến hành nghiên cứu , cái tiến cách dạy truyện ngắn
Thuốc (Lỗ Tấn) trong chương trình văn lớp 12 – Ban cơ bản, theo các bước sau:
Bước 1: Khảo sát học sinh để tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em “ngại” học
văn học nước ngoài .
Bước 2 : Áp dụng việc đổi mới phương pháp vào bài soạn.
Bước 3 : Kết quả rút ra sau khi áp dụng
II - Phạm vi và thời gian thực hiện đề tài
Đề tài này được tôi áp dụng thử nghiệm từ năm học 2006 – 2007 : năm
học 2007 – 2008 và năm học 2008 – 2009 ở một số lớp 12 Trường THPT Mỹ
Đức A ( 12A4 ; 12A13 ; 12A11 ; 12A14 ) mà tôi được phân công giảng dạy.
Tôi đã thu được một số kết quả đáng kích lệ.
PHẦN I : KHẢO SÁT HỌC SINH ĐỂ TÌM HIỂU VÌ SAO CÁC EM LẠI
“NGẠI” HỌC NHỮNG TÁC PHẨM VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI.
Qua khảo sát việc dạy và học văn phần văn học nước ngoài ở một số lớp 12
trong nhiều năm, tôi nhận thấy có một số nguyên nhân khiến việc học và tiếp nhận
những tác phẩm văn học nước ngoài không được nhiều học sinh hứng thú, say mê.
I. Từ phía người học :
Giáo viên : Lê Thị Hường - 4 - Bộ Môn: Ngữ Văn
Từ khi đổi mới chương trình sách giáo khoa, phần văn học nước ngoài
(Ngữ văn 12) đã được giảm tải hơn so với sách giáo khoa cũ. SGK Ngữ văn hiện
nay chỉ còn ba tác phẩm văn học nước ngoài: Thuốc (Lỗ Tấn) ; Số phận con người
(Sô - lô - khốp) ; Ông già và biển cả (Hê - minh - uê). Việc giảm tải chương trình
như sách hiện hành là phù hợp với lượng kiến thức mà các em cần tiếp nhận. Tuy
nhiên phần lớn các em vẫn ít có cảm hứng khi học những tác phẩm văn học nước
ngoài. Một phần là do những tác phẩm ấy khó học và khó tiếp thu, mặt khác, nội
dung kiến thức của những tác phẩm ấy không liên quan nhiều đến thi cử, nhiều tác
phẩm chỉ được học một đoạn trích, còn có tác phẩm được học hoàn chỉnh thì lại là
một văn bản ngắn gọn, cô đọng, nhiều tầng nghĩa nên rất khó hiểu. Qua phiếu điều
tra nhanh ở tất cả các lớp 12 trường THPT Mỹ Đức A kết quả cho thấy:
- 80% học sinh không thích học phần văn học nước ngoài, lí do vì khó
tiếp nhận, khó đọc.
- 10% thích phần văn học nước ngoài, song số giờ dạy trên lớp ít khiến
việc tiếp nhận nội dung kiến thức của các em còn lơ mơ.
- 5% trả lời thẳng thắn: Học cũng được mà không cũng được. Các em còn
mạnh dạn đề xuất không nên đưa phần văn học nước ngoài vào trong chương
trình.
- 5% không có quan điểm hay đề xuất nào cả.
Từ kết quả điều tra trên tôi thấy : tình hình học sinh học phần văn học nước
ngoài còn chống đối, chưa có ý thức đúng đắn trong việc học và chiếm lĩnh những
văn bản văn học nước ngoài .
Để học sinh không quay lưng lại với văn học nước ngoài thì việc làm cấp
thiết của giáo viên là : Hướng dẫn cách học cho các em, giúp các em đổi mới
phương pháp học văn , đọc và biết cách tiếp cận để hiểu đúng ý nghĩa văn bản.
Đồng thời nhắc nhở các em phải chuẩn bị tốt các khâu đọc - hiểu văn bản ở nhà
Giáo viên : Lê Thị Hường - 5 - Bộ Môn: Ngữ Văn
cũng như ở trên lớp : đọc kĩ văn bản, tìm và đọc các tư liệu tham khảo, lắng nghe
để khắc sâu kiến thức của thầy cô, trả lời các câu hỏi trong SGK
Làm được như vậy, thì những tác phẩm văn học nước ngoài dần dần gắn bó
mật thiết hơn với nền văn học Việt Nam và người học sẽ có hứng thú hơn khi tiếp
nhận văn học nước ngoài.
II. Từ phía người dạy :
Qua dự giờ một số đồng nghiệp và những buổi thảo luận, họp tổ rút
kinh nghiệm tôi thấy : những tác phẩm văn học nước ngoài thường thì các thầy cô
dạy một cách chiếu lệ, qua loa. Mặt khác, phương pháp dạy vẫn theo cách cũ, chủ
yếu là thuyết trình; chưa phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh; chưa tích
hợp các kiến thức có liên quan tới bài dạy (đặc biệt là kiến thức lịch sử).
Trong giờ dạy, khi giáo viên ở dụng phương pháp trao đổi thảo luận thường
gặp phải nhược điểm: gây ồn làm ảnh hưởng tới các lớp học khác
Như vậy muốn khắc phục được tình trạng trên, thiết nghĩ:
- Giáo viên phải luôn luôn có ý thức tự giác, tự trau dồi kiến thức cho
mình qua tài liệu, qua sách tham khảo và qua Internet .
- Muốn dạy tốt giáo viên phải thường xuyên dự giờ rút kinh nghiệm, học
tập các phương pháp dạy học khác của các đồng nghiệp để tự nâng cao năng
lực dạy văn của mình.
- Ngoài phương pháp nêu vấn đề, thuyết giảng khi dạy giáo viên cần sử
dụng hợp lí những câu hỏi thảo luận để vừa phát huy tính chủ động và rèn
luyện kĩ năng nói trước tập thể vừa có ý thức bảo vệ chính kiến, quan điểm của
mình về một vấn đề mà giáo viên đặt ra.
Có như vậy giờ học văn, nhất là văn học nước ngoài mới hứng thú, hấp dẫn
học sinh.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 6 - Bộ Môn: Ngữ Văn
PHẦN II - MỘT CÁCH SOẠN GIẢNG MỚI BÀI “THUỐC” ( LỖ TẤN -
NGỮ VĂN 12 BAN CƠ BẢN) THEO PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP , NÊU
VẤN ĐỀ VÀ TRAO ĐỔI THẢO LUẬN
I. Mục tiêu bài học.
Giúp học sinh:
1. Về kiến thức.
- Cảm nhận được giá trị, tư tưởng của tác phẩm thuốc: là hồi chuông cảnh
báo căn bệnh u mê, đớn hèn của người dân Trung Hoa đầu thế kỉ XX .
- Lỗ Tấn chủ trương tìm một phương thuốc hữu hiệu để chữa bệnh cho
quốc dân: làm cho họ giác ngộ cách mạng và gắn bó với cách mạng.
- Hiểu được đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm : cốt truyện đơn giản, cách
viết cô đọng, súc tích, xây dựng những hình ảnh mang tính biểu tượng.
2. Về kĩ năng.
- Nâng cao kĩ năng đọc - hiểu một truyện ngắn của nước ngoài
- Rèn luyện kĩ năng đọc tác phẩm, hiểu tác phẩm một cách chủ động, tích
cực và sáng tạo.
3. Về tư tưởng thái độ .
- Có quan điểm đúng đắn về lí tưởng cách mạng.
- Có cái nhìn đúng đắn, quý trọng những người đấu tranh cho sự nghiệp
cách mạng.
II. Phương pháp , phương tiện.
1. Phương pháp :
- Nêu vấn đề, thảo luận nhóm, phân tích.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 7 - Bộ Môn: Ngữ Văn
- Tích hợp các kiến thức liên quan (đặc biệt là lịch sử).
2. Chuẩn bị phương tiện:
- Giáo viên: SGK, SGV, thiết kế bài dạy, các phương tiện trực quan như
ảnh Lỗ Tấn; ảnh người chiến sĩ cách mạng Thu Cận
- Học sinh: SGK, vở bài soạn, đọc các tài liệu có liên quan đến bài học
III. Tiến trình.
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ:
Câu hỏi: Vì sao tác giả Nguyễn Khải gọi nhân vật cô Hiền là “một hạt bụi
vàng của Hà Nội” ?
Dự kiến học sinh trả lời:
- Nói đến hạt bụi, người ta nghĩ đến vật nhỏ bé, tầm thường, có điều là
“hạt bụi vàng” thì dù nhỏ bé nhưng có giá trị quý báu
- Nói đến hạt bụi , người ta nghĩ đến vật nhỏ bé, tầm thường, có điều là
“hạt bụi vàng” thì dù nhỏ bé nhưng có giá trị quý báu.
- Cô Hiền là một người Hà Nội bình thường nhưng đã thấm sâu bản sắc
của người Hà Nội Đó chính là phẩm giá, truyền thống, cốt cách của người
Hà Nội.
3 – Bài mới
Lời vào bài : Lâu nay chúng ta thường hiểu “thuốc” là một loại dược liệu để
chữa bệnh cho con người. Đối với nhà văn Lỗ Tấn “thuốc” lại được ông lấy để đặt
tên cho “đứa con tinh thần của mình”. Nhan đề ấy có thể hiện ý nghĩa trên hay còn
bộc lộ một dụng ý sâu sắc nào khác ? Buổi học hôm nay chúng ta cùng đi vào tìm
hiểu, khám phá văn bản văn học này !
Giáo viên : Lê Thị Hường - 8 - Bộ Môn: Ngữ Văn
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
VÀ HỌC SINH
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
I . Vài nét về tác giả , tác phẩm.
1. Tác giả:
GV : Dựa vào phần tiểu dẫn và bài soạn đã
chuẩn bị ở nhà, em hãy trình bày những nét
chính về nhà văn Lỗ Tấn ?
HS : Trả lời dựa vào mục tiểu dẫn
và các nguồn tài liệu khác.
Trên cơ sở hs trình bày gv nhấn mạnh
sau đó treo ảnh nhà văn Lỗ Tấn.
I . Vài nét về tác giả , tác phẩm.
1. Tác giả:
- Lỗ Tấn (1881- 1936) là nhà văn
vĩ đại của Trung Quốc.
+ Tên khai sinh : Chu Thụ Nhân
+ Quê : Triết Giang
+ Thời trẻ ông làm nhiều nghề : khai mỏ ;
hàng hải ; y khoa ; viết văn.
-Mục đích viết văn của ông : thức tỉnh
quốc dân đồng bào.
- Quan điểm sáng tác: Phê phán những căn
bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê
muội tự thấy mình “ngủ say trong cái hộp
bằng sắt không có cửa sổ ”.
Lỗ Tấn được tôn vinh là “linh hồn của
dân
tộc” ; là danh nhân văn hoá thế giới và là
nhà
văn được Bác Hồ kính trọng .
2. Những tác phẩm chính:
Gv : Hãy kể tên những tác phẩm
của Lỗ Tấn mà em biết ?
2. Những tác phẩm chính.
- Truyện ngắn : Gào thét (1923 );
Bàng hoàng (1926)
- Tạp văn : Cỏ dại ; Nấm mồ
3. Truyện ngắn Thuốc
GV nêu vấn đề và hỏi : Bối cảnh xã hội
của một giai đoạn lịch sử có vai trò làm
3. Truyện ngắn Thuốc.
a) Hoàn cảnh sáng tác .
Thuốc được viết vào năm 1919,
Giáo viên : Lê Thị Hường - 9 - Bộ Môn: Ngữ Văn
nảy sinh cảm hứng sáng tạo cho người
nghệ sĩ. Vậy theo em thì truyện ngắn
Thuốc ra đời trong hoàn cảnh nào ?
HS trả lời .
GV tích hợp kiến thức lịch sử nhấn mạnh
và bổ sung.
đúng vào lúc cuộc vận động ngũ tứ bùng
lên. Đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị
các nước đế quốc như : Anh , Pháp , Đức ,
Nhật xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành
xã hội thực dân nửa phong kiến, nhưng
nhân dân lại an phận chịu nhục . Họ đang
bị nhiễm một căn bệnh tinh thần không có
thuốc chữa, đó là bệnh đớn hèn, tự thoả
mãn với chính mình. Điều đó đã cản trở
nghiêm trọng con đường giải phóng dân
tộc.
Thuốc ra đời trong bối cảnh lịch sử
ấy.
b- Mục đích sáng tác.
GV dẫn dắt và nêu vấn đề : Trước khi cầm
bút viết chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt câu
hỏi “ Viết cho ai ? Viết để làm gì ? Viết cái
gì ? Viết như thế nào ?” Từ quan điểm trên
của Bác em hiểu gì về mục đích sáng tác
của truyện ngắn Thuốc ?
HS trả lời
GV nhấn mạnh, bổ sung.
b - Mục đích sáng tác
Khi sáng tác truyện ngắn Thuốc, Lỗ
Tấn chủ trương : tìm một phương thuốc
hữu hiệu có thể chữa căn bệnh tinh thần
cho người dân Trung Hoa để cứu dân tộc
ra khỏi cảnh nô lệ, lầm than.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 10 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV chuyển ý : Từ mục đích trên, chúng ta
cùng cắt nghĩa giá trị văn bản.
1. Đọc – tóm tắt văn bản.
GV yêu cầu học sinh đọc tác phẩm ở nhà,
đến lớp gọi một, hai học sinh tóm tắt tác
phẩm.
HS tóm tắt.
GV nhận xét.
II - Đọc - hiểu văn bản.
1. Đọc – tóm tắt.
Tóm tắt tác phẩm : tác phẩm xoay quanh
gia đình nhà lão Hoa mua bánh bao tẩm
máu ngườicho con trai (tên là Thuyên), ông
bà Hoa tin rằng liều thuốc ấy có thể chữa
được bệnh cho con. Trong khi đó tại quán
trà của lão, mọi người tụ tập bàn tán về vị
thuốc và chửi bới người liệt sĩ. Cuối cùng
con trai lão Hoa vẫn chết.
Trong ngày tết thanh minh, hai bà mẹ họ
Hoa và Hạ gặp nhau ở nghĩa địa. Bà mẹ Hạ
Du cảm thấy xấu hổ vì con mình bị chôn
bên nghĩa địa của người bị chết chém và
hết sức ngạc nhiên vì vòng hoa được đặt
trên mộcon mình, ngỡ là con trai hiển linh.
Bà không hiểu nổi ý nghĩa của vòng hoa.
Bà lẩm bẩm một mình “thế này là thế
nào ?”
2- Tìm hiểu văn bản.
a. Nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc
bánh bao.
+ Nhan đề.
GV dẫn dắt và nêu vấn đề: Truyện ngắn
Thuốc là một sự sáng tạo độc đáo của Lỗ
Tấn. Điều đó được thể hiện ngay ở nhan đề
tác phẩm . Vậy theo các em thì tác phẩm
2- Tìm hiểu văn bản.
a. Nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc
bánh bao.
+ Nhan đề : Thuốc là một nhan đề có
nhiều tầng nghĩa.
- Trước hết : hiểu theo đúng nghĩa
đen, ấy là thứ thuốc chữa bệnh laocủa
Giáo viên : Lê Thị Hường - 11 - Bộ Môn: Ngữ Văn
này có bao nhiêu lớp nghĩa ? Đó là những
lớp nghĩa nào?
HS chia nhóm thảo luận . Mỗi nhóm cử một
bạn phát biểu.
GV nhận xét , nhấn mạnh.
người Trung Quốc lạc hậu, u mê một cách
chữa bệnh đầy mê tín - lấy máu người để
chữa bệnh. Rốt cuộc con bệnh chết. Chết
trong không khí ẩm mốc hôi tanh mùi máu
của nước Trung Quốc lạc hậu.
- Thứ hai : không chỉ có vậy Lỗ Tấn
muốn đề cập đến một vấn đề sâu xa hơn .
Đó là thứ thuốc mà bố mẹ thằng Thuyên
đã trị bệnh cho nó là thuốc độc . Vì thế
mọi người phải giác ngộ ra là thuốc độc
thì không có tác dụng chữa bệnh lao.
- Thứ ba : hơn nữa nhà văn Lỗ Tấn
còn muốn tìm một liều thuốc để có thể
chữa khỏi căn bệnh tinh thần cho người
dân Trung Hoa, và quan trọng hơn là quần
chúng phải được giác ngộ cách mạng và
làm cho cách mạng gắn bó hơn với quần
chúng.
+ Hình tượng chiếc bánh bao
GV dẫn dắt vấn đề : Từ ý nghĩa nhan đề tác
phẩm , em có cảm nhận gì về hình ảnh chiếc
bánh bao?
HS trả lời
GV nhận xét, nhấn mạnh
+ Hình tượng chiếc bánh bao.
- “Bánh bao tẩm máu người” là thần
dược mà người dân Trung Hoa dùng để
chữa khỏi bệnh lao cách chữa thật
ghê sợ, phản khoa học.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 12 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV : Từ cảm nhận của em, hãy rút ra ý
nghĩa của hình tượng “chiếc bánh bao”.
HS suy nghĩ trả lời.
GV nhận xét và định hướng.
Qua hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu
người, mà người dân Trung Quốc dùng để
chữa bệnh, ta thấy bản chất “ngu muội, u
mê” của quần chúng. Vì vậy Lỗ Tấn đặt ra
một vấn đề hệ trọng : Cần phải giác ngộ
quần chúng nhân dân.
b. Hạ Du - biểu tượng của người chiến sĩ
cách mạng
GV dẫn dắt và nêu vấn đề : Hạ Du tuy
không trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm,
song nhân vật này đóng một vai trò quan
trọng - thể hiện được chủ đề tư tưởng tác
phẩm.Em hãy phân tích nhân vật này ?
HS suy nghĩ , trả lời :
b. Hạ Du - biểu tượng của người chiến sĩ
cách mạng
- Hạ Du là con trai bà Tứ , nhà nghèo.
- Anh là người được giácngộ cách
mạng khá sớm, dũng cảm , hiên
ngang,dám tuyên truyền cách mạng ngay
trong nhà tù (rủ lão Nghiã mắt cá chép đi
làm giặc).
- Bị lão ta đánh nhưng Hạ Du vẫn lẩm
bẩm “thật đáng thương”. Vì anh thấy sự u
mê của quần chúng.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 13 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV chốt vấn đề (tích hợp kiến thức lịch sử -
nhân vật lịch sử Trung Quốc).
- Hạ Du bị xử chém, rồi bị nhà lão
Hoa mua máu của mìnhđể chữa bệnh cho
con số phận thật bi thảm.
Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng kiên
trung, có tấm lòng yêu nước sâu sắc rất
đáng khâm phục.
- Nguyên mẫu của Hạ Du là Thu
Cận(một nữ chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi đã
khắc sâu trong tâm khảm của Lỗ Tấn).
c. Quần chúng đám đông - những người
dân u mê, đớn hèn.
GV dẫn dắt nêu vấn đề: Một dân tộc mà bị
các nước Đế quốc xâu xé, đô hộ ,thì lực
lượng quan trọng nhất có thể giải phóng ách
áp bức ấy chính là nhân dân. Thế mà nhân
dân Trung Hoa thời kì Mãn Thanh lại đớn
hèn , xa rời cách mạng. Em hãy làm sáng tỏ
trạng thái tinh thần , suy nghĩ và hành động
của họ ?
HS suy nghĩ trả lời
c. Quần chúng đám đông - những người
dân u mê, đớn hèn.
- Mẹ Hạ Du : không hiểu được đứa
con mình, chỉ biết khóc kêu “oan” .
- Cụ Ba - người trong họ với Hạ Du :
tố giác anh để nhận thưởng hai mươi lạng
bạc.
- Ông cả Khang : bán bánh bao tẩm
máu Hạ Du.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 14 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV tổ chức thảo luận:
Qua thái độ của quần chúng đám đông trên
Lỗ Tấn muốn nói gì với người đọc ?
HS thảo luận rồi cử đại diện nhóm trình bày
ý kiến.
GV nhấn mạnh , nâng cao và chốt.
d. Hình ảnh “ vòng hoa trên mộ Hạ Du”
GV dẫn dắt nêu vấn đề thảo luận:
Khi con người ta đã đi vào cõi vĩnh hằng,
thì người còn sống thường phúng viếng
người chết bằng vòng hoa, thể hiện niềm
- Nghĩa mắt cá chép : tước được cái
áo của tử tù.
- Nhà ông Hoa : mua được “thuốc”
chữa bệnh lao.
- Cậu Năm gù : cho rằng Hạ Du là
“thằng khốn nạn”, là “điên”
Qua thái độ, suy nghĩ, hành động của
đám đông trên, nhà văn muốn nói :
• Đối với cách mạng: cách mạng còn
xa rời quần chúng, khiến cho quần chúng
không hiểu họ , coi họ như giặc , thậm chí
khinh ghét họ như kẻ điên.
• Đối với quần chúng: họ hoàn toàn
không hiểu gì về cách mạng, vô cản , tìm
mọi cách để hưởng lợi từ cái chết của
người cách mạng. Thậm chí họ còn khinh
bỉ, giễu cợt . Đó là một đám đông u muội
u mê .
d. Hình ảnh “ vòng hoa trên mộ Hạ Du”
Giáo viên : Lê Thị Hường - 15 - Bộ Môn: Ngữ Văn
thương tiếc , kính trọng Ở cuối tác phẩm
Thuốc có chi tiết “vòng hoa ” xuất hiện trên
mộ Hạ Du bất ngờ. Người đọc không rõ ai
là người đặt nó trên mộ của Hạ Du . Theo
các em thì ai đặt vòng hoa đó ? Và hình ảnh
ấy có ý nghĩa như thế nào?
HS bàn bạc , trao đổi ý kiến . Sau đó cử đại
diện nhóm phát biểu .
GV bổ sung , nhấn mạnh.
GV : Như trên đã nói , vòng hoa trên mộ có
ý nghĩa như thế , nhưng tại sao bà mẹ Hạ
Du khi thấy nó lại kinh ngạc ? Tại sao tác
giả lại đặt ra câu hỏi “Thế này là thế nào ?”.
Ý kiến của các em ?
HS trình bày ý kiến cá nhân.
GV nhận xét và chốt lại vấn đề.
- Hình ảnh vòng hoa xuất hiện trên
mộ Hạ Du là sự khâm phục, thương tiêc,
kính trọng của một số ít người dân Trung
Hoa đối với người cách mạng Hạ Du. Họ
hiểu và cảm phục tinh thần dũng cảm hi
sinh vì nghĩa lớn của anh.
- Hơn thế vòng hoa trên mộ Hạ Du,
cho ta thấy một điều rằng những người
như anh không thể chết vô nghĩa được và
khi đã bị hi sinh thì có người hiểu và tiếp
bước anh để đấu tranh đến cùng.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 16 - Bộ Môn: Ngữ Văn
e. Thuốc - một kết cấu độc đáo.
GV dẫn dắt và nêu vấn đề : Kết cấu là một
trong những hình thức của tác phẩm văn
học. Xây dựng kết cấu thành côngcũng tạo
nên giá trị, sức hấp dẫn của văn học. Như
thế truyện thuốc được sắp xếp theo một kết
cấu độc đáo.Vậy kết cấu ấy là gì ? hãy
chứng minh ?
HS trả lời .
GV nhận xét, nhấn mạnh.
Mẹ Hạ Du kinh ngạc trước mộ con
mình vì có những cánh “hoa trắng hoa
hồng xếp thành vòng tròn” và hỏi di hỏi
lại “Thé này là thế nào ?” Nó như một điệp
khúc gợi nhiều day dứt . Câu hỏi của bà
chính là sự bế tắc khi không thể hiểu được
hết được việc làm của cậu con trai , cũng
như ý nghĩa cao đẹp của vòng hoa.
- Việc tác giả đặt câu hỏi ở phần cuối
truyện khi mọi sự gần như lắng xuống, là
muốn người đọc suy ngẫm để hiểu ý nghĩa
cái chết của Hạ Du. Đồng thời nhà văn
cũngmuốn gửi gắm sự day dứt về mối
quan hệ gắn bó giữa quần chúng và cách
mạng.
e . Thuốc - một kết cấu độc đáo
- Thuốc có kết cấu độc đáo, chia thành
Giáo viên : Lê Thị Hường - 17 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV hỏi : em hãy nhận xét hình ảnh quán
trà ?
GV nêu vấn đề : Không gian của nghĩa địa
nói chung và hình ảnh “con đường mòn”
nói riêng trong đoạn văn trên có ý nghĩa
như thế nào?
HS suy nghĩ và trả lời.
GV nhận xét và bổ sung
bốn cảnh, mỗi cảnh có thời gian và
không gian cụ thể
• Ba cảnh đầu kế tiếp nhau
+ Thời gian: mùa thu tàn tạ, héo úa
+ Không gian : sự việc chủ yếu diễn ra
ở quán trà cũ kĩ nhà lão Hoa
Đó là một nơi tù hãm, ẩm mốc, bế
tắc.
• Cảnh bốn :
+ Thời gian : vào mùa xuân cảnh vật
thay đổi , sự sống như được hồi sinh.
+ Không gian : diễn ra ở nghĩa địa “
Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa
Tây vốn là đất công. Ở giữa có con đường
mòn nhỏ hẹp cong queo do những người
hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng
lại là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa
những người chết chém hoặc chết tù, ở
phía tay trái, và nghĩa địa những người
nghèo ở về phía tay phải ”
Khung cảnh nơi nghĩa địa mang nhiều ý
Giáo viên : Lê Thị Hường - 18 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV mở rộng và nâng cao.
HS nghe .
Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm
ẩm mốc , tối tăm nhưng thời gian lại có sự
tiến triển từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa
xuân thanh minh . Đặt câu chuyện vào thời
gian hai mùa : một mùa có tính chất tàn tạ
và khép lại ; còn một mùa có tính chất hồi
sinh Tác giả dường như muốn gửi gắm
vào đó một niềm hi vọng : sự hồi sinh về
một cuộc sống mới cho những số phận tối
tăm , đau khổ
nghĩa sâu sắc.
- Thứ nhất : không hề có sự phân biệt
giữa những người làm cách mạng với
những kẻ trộm cướp ,giết người. Từ
đó ta cũng thấy người chiến sĩ cách mạng
cũng giống như bọn xấu xa kia.
- Thứ hai : số người bị chết chém chết
tù cũng nhiều như số người bị chết nghèo
đói Gợi lên sự tàn bạo đen tối của đất
nước Trung Hoa .
- Thứ ba : hình ảnh con đường mòn
xuất hiện nơi nghĩa địa để phân cách hai
khu Đó là sự chia rẽ của người dân
Trung Hoa . Đó cũng chính là danh giới
vô hình của lòng người , của những định
kiến xã hội Qua đây nhà văn Lỗ Tấn
muốn xoá bỏ con đường của sự lạc hậu
cổ hủ ấy.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 19 - Bộ Môn: Ngữ Văn
GV chốt lại vấn đề.
HS nghe và ghi.
III. Tổng kết.
GV hỏi : Qua bài học em hãy đánh giá
những nét chính về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm ?
HS khái quát lại vấn đề trên và trả lời .
GV đánh giá , nhận xét và chốt lại vấn đề.
Xây dựng kết cấu thời gian và không
gian như trên , truyện ngắn Thuốc xứng
đáng được coi là truyện hiện đại độc đáo
của Lỗ Tấn .
III. Tổng kết.
1- Nội dung .
- Thuốc vừa là tiếng “Gào thét” để
“trợ uy cho những dũng sĩ đang bôn ba
trong chốn quạnh hiu”, vừa là sự bộc
bạch tâm huyết của một ngòi bút lạc quan
, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách
mạng
- Từ tác phẩm Thuốc , người đọc hiểu
sâu hơn về tấm lòng yêu nước nồng nàn
của một nhà văn từng được tôn vinh là
“linh hồn dân tộc ” của đất nước Trung
Hoa
2- Nghệ thuật .
Cốt truyện dung dị đơn giản mà sâu sắc
- Cách lựa chọn tình tiết sắp xếp thời
gian không gian nghệ thuật độc đáo
thành công.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 20 - Bộ Môn: Ngữ Văn
IV . Luyện tập, củng cố
1. Ở lớp.
Bài tập số 1.
GV phát đề trắc nghiệm.
Câu hỏi: Sự biến đổi về thời gian từ mùa
thu sang mùa xuân có ý nghĩa gì trong việc
thể hiện chủ đề tác phẩm ?
A- Thể hiện qui luật biến đổi của thời gian
B- Thể hiện mạch suy tư , tin tưởng lạc
quan của tác giả.
C- Thể hiện sự biến đổi của cảnh vật
Bài tập số 2 (dành cho học sinh khá và giỏi)
Câu hỏi : Từ hình ảnh hai bà mẹ họ Hoa và
họ Hạ gặp nhau ở nghĩa địa nhà văn Lỗ Tấn
muốn nói gì về bi kịch của đất nước Trung
Hoa cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 ?
HS dựa vào bài soạn và kiến thức lịch sử
liên quan tới bài học, suy nghĩ và trả lời.
GV tích hợp vói kiến thức lịch sử bổ sung,
nhấn mạnh.
- Sử dụng ngôn ngữ có tính đa nghĩa
và xây dựng
- thành công những hình tượng nghệ
thuật có ý nghĩa.
IV. Luyện tập, củng cố.
1. Ở lớp.
Bài tập số 1.
- Đáp án : B
Bài tập số 2.
Hai bà mẹ họ Hoa và họ Hạ găp nhau ở
nghĩa địa thể hiện bi kịch của người Trung
Quốc. Mọi người đều biết : Hoa Hạ là tên
gọi của nước Trung Hoa cổ xưa. Tên gọi
Giáo viên : Lê Thị Hường - 21 - Bộ Môn: Ngữ Văn
2. Bài tập ở nhà :
GV hướng dẫn h/s :
Học bài cũ.
- Viết một đoạn văn ngắn : Nêu ý
nghĩa của nhan đề tác phẩm và nhận
xét nghệ thuật viết truyện của Lỗ
Tấn ?
- Soạn bài : Rèn luyện kĩ năng
mở bài, kết bài trong bài văn nghị
luận.
thống nhất ấy bỗng chia rẽ thành hai nửa
không hiểu nhau, máu của Hạ dùng làm
thuốc chữa bệnh lao. Cả Hoa và Hạ đều bị
tổn hại. Sự chia rẽ Hoa - Hạ chỉ có lợi cho
thế lực thống trị mà thôi. Đây cũng chính
là dụng ý nghệ thuật khi Lỗ Tấn viết
Thuốc.
2. Bài tập ở nhà .
- Học bài.
- Làm bài tập.
- Soạn bài : Rèn luyện kĩ năng viết mở
bài , kết bài trong bài văn nghị luận.
Giáo viên : Lê Thị Hường - 22 - Bộ Môn: Ngữ Văn
PHẦN III. KẾT QUẢ ĐỐI CHIẾU SAU KHI ÁP DỤNG GIÁO ÁN TRÊN
Sau 3 năm áp dụng bài soạn Thuốc của Lỗ Tấn theo phương pháp “Tích hợp,
nêu vấn đề, trao đổi thảo luận” ở một số lớp 12 của trường THPT Mỹ Đức A. Tôi
đã thu được một số kết quả đáng khích lệ :
Xin nêu con số thống kê qua một đề khảo sát chung cho tất cả các lớp, thời
gian 15 phút.
Đề bài : Từ truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn, em hiểu gì về đất nước Trung
Hoa cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 ?
Đề bài yêu cầu học sinh phải nắm được nội dung tư tưởng của truyện ngắn
Thuốc, qua đó thấy được bức tranh chân thực của xã hội đất nước Trung Hoa trong
giai đoạn này : là một đất nước chìm đắm trong u mê, tăm tối, ngu muội. Nó giống
như một cái “nhà hộp bàng sắt không có cửa sổ”
Đây là một tác phẩm đưa vào trong chương trình giảng dạy từ nhiều năm nay
và có nhiều tài liệu tham khảo. Nhưng với cách ra đề trên, đòi hỏi học sinh phải có
sự chuẩn bị kĩ lưỡng bài học ở nhà. Đồng thời ở lớp phải có sự tư duy, sáng tạo để
tiếp thu kiến thức trọng tâm của bài học thì mới đáp ứng được yêu cầu của đề bài.
KẾT QUẢ THU ĐƯỢC:
* Ở những lớp chưa áp dụng :
Lớp, năm học, sĩ số học
sinh
Số bài lạc đền
và để giấy
trắng
Số bài viết lan
man
Số bài viết dúng
yêu cầu của đề
12A4(2006-2007),52h/s 40bài =76,9 % 8 bài =15,3 % 4 bài = 7,8 %
12A6(2007-2008)50h/s 38 bài = 76 % 5 bài = 10 % 7 bài = 14 %
12A9(2008-2009)52h/s 42 bài = 80,8% 6 bài = 11,5% 4bài = 7,7%
Giáo viên : Lê Thị Hường - 23 - Bộ Môn: Ngữ Văn
* Ở những lớp áp dụng giáo án này.
Lớp, năm học, sĩ số
học sinh
Số bài lạc đề và
để giấy trắng
Số bài viết lan man
Số bài viết đúng
yêu cầu của đề
12A11(2006-2007),51h/s 5 bài = 9,8% 2 bài = 3,9 % 44 bài = 86,3 %
12 K1(2007-2008)58h/s 7 bài = 12 % 1 bài = 1,8 % 50 bài = 86,2 %
12A14(2008-2009)52h/s 2 bài = 3,9 % 1 bài = 1,9 % 49 bài = 94,2 %
Trên đây là một trong những giáo án được tôi thiết kế theo phương pháp mới
với phương châm tích hợp, nêu vấn đề, trao đổi thảo luận, được áp dụng trong ba
năm liên tục và được đông đảo đồng nghiệp thử nghiệm trong nhà trường. Đặc biệt
năm học 2008-2009 giáo án này đã được tổ chuyên môn nhất trí đưa vào dạy đại trà
tại các lớp 12 ban cơ bản Trường THPT Mỹ Đức A.
Để thiết kế được giáo án này một phần là sự tìm tòi, cải tiến sau nhiều năm
giảng dạy, một phần lớn là tôi tiếp thu ý kiến đóng góp của các thầy cô trong tổ
chuyên môn cùng áp dụng, cùng rút kinh nghiệm. Vì thế tôi không cho rằng đây là
sáng kiến của riêng cá nhân mà là kết quả của cả tập thể. Chỉ có điều nó được được
tôi tích luỹ và thiết kế lại, với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ vào quá
trình dạy Ngữ Văn trong nhà trường hiện nay. Cũng như muốn được góp một tiếng
nói “Chống gian lận trong thi cử”. “Dạy và học thực chất” mà Bộ giáo dục đang
phát động trong toàn ngành. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của các
thầy cô giáo, cũng như của các bạn đồng nghiệp.
Mỹ Đức, tháng 5 năm 2009
Ý KIẾN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN Người viết
Giáo viên : Lê Thị Hường - 24 - Bộ Môn: Ngữ Văn
Lê Thị Hường
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ
Giáo viên : Lê Thị Hường - 25 - Bộ Môn: Ngữ Văn