Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Năng lực cạnh tranh quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.02 KB, 14 trang )

Năng lực cạnh tranh quốc gia
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia:
-Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của môt nền kinh tế và nâng cao đời
sống dân cư. Đó là việc xây dựng một môi trường kinh tế chung đảm bảo phân bổ
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh, lựa chọn
của các chủ thể kinh tế theo các tín hiệu của thị trường.
Khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia đã được hình thành như là một khái niệm
phức hợp, dựa trên một chùm (cluster) các yếu tố khác nhau. Trong các yếu tố
chưa xét đến một số yếu tố quan trọng như độ lớn của nền kinh tế; sức mua thực tế;
mức độ ổn định chính trị-kinh tế, trật tự an toàn xã hội; truyền thống lịch sử, văn
hoá; tài nguyên thiên nhiên. Song, những yếu tố này có hệ số tương quan thấp với
tăng trưởng nên khó đưa vào mô hình.
2. các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh quốc gia:
- Các nhân tố trong nước:
• Nhân tố môi trường chính trị - pháp lý
• Các chính sách- chiến lược kinh tế của Nhà nước
• Các xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nước
• Dân số (nguồn nhân lực) - Nhân tố văn hoá xã hội
• Năng lực tài chính của quốc gia
- Các nhân tố bên ngoài (trên thế giới)
• Đối thủ cạnh tranh (những nước có cùng lợi thế cạnh tranh với nước ta như:
Ấn Độ, Philippin… họ cũng giống chúng ta là có thị trường lớn với dân số đông và
nguồn nhân công giá rẻ … để thu hút các nhà đầu tư )
• Các xu hướng phát triển trên thế giới có ảnh hưởng đến thu hút đầu tư của 1
quốc gia (xu hướng phát triển các ngành công nghệ cao, đầu tư vào những lĩnh vực
cần lao động có trình độ…)
Các nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh quốc gia:
Khi nói đến “năng lực cạnh tranh” của một quốc gia, người ta thường hay dựa vào
“Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp GCI ” (The Global Competitiveness Index )
của Diễn đàn kinh tế thế giới. Chỉ số GCI lần đầu tiên được công bố trong Báo cáo
năng lực cạnh tranh toàn cầu 2004-2005 và hiện nay được Diễn đàn Kinh tế thế


giới sử dụng làm chỉ số chính đo lường năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo diễn
đàn kinh tế WEF:Các chỉ tiêu được tổ chức thành 12 cột chỉ số, với mỗi cột trụ đại
diện cho một khu vực được coi như là một nhân tố quyết định của khả năng cạnh
tranh. 12 cột chỉ số này được xếp thành 3 nhóm:
-Nhóm chỉ số về các yêu cầu cơ bản: 1. Thể chế (25%); 2. Cơ sở hạ tầng (25%); 3.
Ổn định kinh tế vĩ mô (25%); 4. Y tế và giáo dục tiểu học (25%)
-Nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả: 5. Đào tạo và giáo dục bậc cao hơn (17%) ; 6.
Hiệu quả của thị trường hàng hoá (17%);7. Hiệu quả của thị trường lao động
(17%); 8. Sự phát triển của thị trường tài chính (17%); 9. Công nghệ tiên tiến
(17%); 10. Quy mô thị trường (17%)
Nhóm chỉ số về sư đổi mới và phát triển: 11. Sự phát triển của hệ thống kinh doanh
(50%); 12. Đổi mới công nghệ (50%)
Việc xếp hạng năng lực cạnh tranh cạnh tranh toàn cầu báo cáo được dựa
trên năng lực cạnh tranh toàn cầu Index (GCI), được phát triển cho Diễn đàn Kinh
tế Thế giới bằng Sala-i-Martin và giới thiệu vào năm 2004. Việc xếp hạng theo
GCI bắt đầu từ năm 1997 và trong năm này Việt Nam xếp thứ 49/ 53 nước, năm
1998: 39/53, năm 1999: 48/59, năm 2000: 53/59, năm 2001: 60/75, năm 2002:
65/80 năm 2009: 75/134. Nếu so với những năm cuối của thế kỷ XX, năng lực
cạnh tranh của nước ta đã có những tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp và không vững
chắc và tụt hạng. Điều này cũng thường xẩy ra ở các nước đang phát triển bởi vì có
những nước điểm GCI tăng nhanh hơn và số lượng các nước được tính toán tăng
thêm. Có 4 quốc gia đứng dưới Việt Nam trong năm 2007 nhưng đến năm 2008 đã
vượt lên trên, đó là Botswana (từ hạng 76 lên 56), Braxin (từ 72 lên 64),
Montenegro (từ 82 lên 65), và Rumani (từ 74 lên 68).Trong khi đó, cũng có 2
quốc gia đứng trên Việt Nam trong năm 2007 nhưng đến năm nay đã tụt xuống
dưới, đó là El Salvador (từ 67 xuống 79) và Ma rốc (từ 64 xuống 73).
Để thấy mặt mạnh và yếu của Việt Nam trong cạnh tranh, chúng ta cần xem xét
các yếu tố của GCI được xếp hạng như thế nào.
Bảng thứ hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam một số năm gần đây:
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010

GCI 74/111 77/122 68/131 70/134 75/133 59/139
So sánh thứ hạng một số chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2008 với
2009.
Chỉ tiêu 2008 2009
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp 70/134 75/133
Thể chế 71 63
Cơ sở hạ tầng 93 94
Ổn định kinh tế vĩ mô 70 112
Y tế và giáo dục cơ bản 84 76
Giáo dục bậc cao 98 92
Hiệu quả thị trường hàng hóa 70 67
Hiệu quả thị trường lao động 47 38
Trình độ thị trường tài chính 80 82
Sẵn sàng công nghệ 79 73
Quy mô thị trường 40 38
Trình độ kinh doanh 84 70
Đổi mới 57 44
Nhận xét:
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp 2009 của Việt Nam chưa được cải thiện và
giảm 5 bậc so với 2008, chủ yếu do chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô bị đánh tụt từ
hạng 70 xuống 112 làm tác động mạnh tới nền kinh tế và khả năng cạnh tranh.
Vấn đề thiếu ổn định kinh tế vĩ mô là thâm hụt thương mại tăng, nền kinh tế phát
triển quá nóng là một biểu hiện rõ nét nhất; rồi đến việc đồng tiền mất giá làm
giảm niềm tin của giới đầu tư.
Yếu kém chậm khắc phục như cơ sở hạ tầng (hạng 94), trình độ thị truờng tài chính
(hạng 82), giáo dục bậc cao (hạng 92), sẵn sàng công nghệ (hạng 73)
Về cơ sở hạ tầng, Việt Nam có tiến bộ lớn về viễn thông (hạng 37), nhưng yếu kém
về chất lượng hạ tầng điện, đường bộ, cảng biển (đề xếp hạng trên 100). Về giáo
dục, Việt Nam còn yếu hầu hết chỉ số cơ bản như chất lượng giáo dục (hạng 120),
số lượng sinh viên (hạng 106) và chi phí giáo dục (hạng 100). Đáng lưu ý, Diễn

đàn Kinh tế đánh giá khá cao về chỉ số đổi mới của Việt Nam, trong đó có nhiều
chỉ tiêu được xếp hạng tương đối cao như năng lực đổi mới (hạng 41), chỉ tiêu của
Chính phủ cho khoa học công nghệ (hạng 21)…
Năm 2010
Khi đánh giá các yếu tố trong từng trụ cột, WEF xếp Việt Nam ở các vị trí khá cao
ở các yếu tố như: tiền lương và năng suất (hạng 4/139), mức độ tin tưởng của dân
chúng vào các chính trị gia (32), mức độ đáng tin cậy của lực lượng cảnh sát (41),
hệ thống điện thoại cố định (35), sự phủ sóng Internet tại trường học (49), tỷ lệ tiết
kiệm quốc gia (17), trình độ của người tiêu dùng (45), mức độ tham gia của phụ nữ
vào lực lượng lao động (20), khả năng huy động vốn qua thị trường chứng khoán
(35), FDI và chuyển giao công nghệ (31), quy mô thị trường nội địa (39), quy mô
thị trường nước ngoài (29)…
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều những yếu tố mà Việt Nam gần ở cuối
bảng như: mức độ bảo vệ các nhà đầu tư (133), gánh nặng thủ tục hành chính
(120), năng lực kiểm toán và tiêu chuẩn báo cáo (119), chất lượng cơ sở hạ tầng
nói chung (123), cân bằng ngân sách chính phủ (126), thời gian thành lập doanh
nghiệp (118), quyền sở hữu của nước ngoài (114), mức độ sẵn có của công nghệ
tân tiến nhất (102)…
Chính mức độ bảo vệ nhà đầu tư cũng là một yếu tố khiến Việt Nam bị giảm điểm
trong xếp hạng môi trường kinh doanh (Best countries for business) do tạp chí
Forbes công bố mới đây. Ở yếu tố đánh giá này trong xếp hạng của Forbes, Việt
Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo. Vị trí của Việt Nam trong
đánh giá môi trường kinh doanh của Forbes là 118.
WEF cũng liệt kê những yếu tố gây cản trở nhiều nhất đối với hoạt động kinh
doanh tại các quốc gia được xếp hạng trong báo cáo. Đối với Việt Nam, 5 rào cản
hàng đầu bao gồm khả năng tiếp cận vốn, lạm phát, mức độ ổn định thấp của chính
sách, lực lượng lao động chưa được đào tạo đầy đủ, và cơ sở hạ tầng hạn chế.
Tuy thăng hạng so với báo cáo năm ngoái, nhưng năng lực cạnh tranh của Việt
Nam theo WEF vẫn thấp hơn so với hầu hết các quốc gia khác trong khu vực Đông
Nam Á như Singapore (5,5 điểm/hạng 3), Malaysia (4,9 điểm/hạng 26), Brunei

(4,8 điểm/hạng 28), Thái Lan (4,5 điểm/hạng 38), Indonesia (4,4 điểm/hạng 44).
3.1 . Thể chế chính trị:
- Mức ổn định chính trị cao: Việt Nam được xếp hạng ổn định chính trị cao theo
xếp hạng của chỉ số GCI của WEF và chỉ số điều hành toàn cầu của WB. Việt Nam
là một nước ổn định hơn nhiều so với các nước có cùng mức độ phát triển trong
khu vực, đó là lợi thế để Việt Nam thu hút và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của
mình.
- Mức độ phân cấp cao là một trong những nguyên nhân dẫn đến phân tán quyền
lực giữa các cơ quan chính phủ, địa phương và tình trạng áp dụng chính sách và
quy định không nhất quán giữa các cấp và các địa phương. Đây cũng là điểm yếu
của Việt Nam, có thể tác động không tốt đến cải thiện các chỉ số năng lực cạnh
tranh vĩ mô.
Một ví dụ về việc thực hiện không thống nhất các quy định pháp luật là việc đưa ra
các quy định khuyến khích ưu đãi đầu tư của địa phương vượt ra ngoài các quy
định của nhà nước về thu hút đầu tư nước ngoài.
Hệ thống pháp luật:
Chất lượng của các văn bản pháp luật tương đối tốt so với trình độ phát triển hiện
nay, nhưng hiệu quả và hiệu lực của hệ thống pháp luật còn thấp.
Năm 2009, Việt Nam đã có sự tăng bậc về chỉ số qui định pháp luật và đứng thứ 73
về chỉ số này. Hoàn thiện khung pháp luật, cải cách hành chính, thúc đẩy phát triển
thị trường hàng hóa, đảm bảo an sinh xã hội là những lĩnh vực được ưu tiên.
Từ năm 2002, nhiều văn bản pháp quy đã được ban hành và thực thi. Chất lượng
của các qui định pháp luật có tiến bộ, thể hiện qua chỉ số hiệu lực của khung luật
pháp xếp thứ 53. Tuy nhiên các văn bản này chưa đồng bộ và thiếu nhất quán,
năng lực tổ chức thực hiện chính sách của các bộ, ngành, địa phương chưa chuyên
nghiệp, người dân và doanh nghiệp chưa kịp tiếp thu nội dung của luật.

×