m
BỘ YTẾ
TRUỜNG ĐAI HOC DUOC HÀ NỒI
Trịnh Thuc Anh
BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG cơ sở DỮ LIỆU, PHẦN MỀM PHÂN LOẠI
VÀ TRA cúu THUỐC, PHỤC vụ CONG TÁC QUẢN LÝ Dược
(KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Dược sĩ KHÓA 1998-2003)
Người hướng dẫn : TS. LÊ VIẾT HÙNG
ThS. NGUYỄN TUẤN ANH
Nơi thực hiện : BỘ MÔN QUẢN LÝ VÀ KINH TẾ Dược
Thời gian thực hiện: 03 - 05/2003
Hà Nội 5/2003
m
N 2 U ,< Ì
Lời cảm ơn
Sau quá trình tiến hành nghiên cứu và thực hiện, đến này khoá
luận đã được hoàn thành. Tôi xỉn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
PGS. TS. Lê Viết Hùng, phó chủ nhiệm Bộ môn Quản lỷ và Kinh tế
Dược, Đại học Dược Hà Nội.
ThS. Nguyễn Tuấn Anh, giảng viên bộ môn Quản lỷ và Kinh tế
Dược, Đại học Dược Hà Nội.
là những người thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và chu đảo
cho tỏi trong quả trình thực hiện khoá luận.
Kỹ sư Phan Thái Trung, người bạn đã giúp đỡ và hỗ trợ tôi rất
nhiều để thực hiện đề tài.
Các thầy cô giảo bộ môn Quản lỷ và Kinh tế Dược, trường Đại
học Dược Hà Nội.
Tôi xin gửi tặng khóa luận này tới bộ môn Quản lý và Kinh tế
Dược, các thầy cồ giáo trường Đại học Dược Hà Nội, những người tôi
vô cùng kính trọng.
tới bổ mẹ, chị Chỉ và anh Trung, những người đã dành cho tôi
tình cảm và nguồn động viên to lớn.
tới các bạn bè của tôi.
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2003
Sinh viên
Trịnh Thục Anh
CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT
TĐ : Thuốc độc
TGN : Thuốc gây nghiện
THTT : Thuốc hướng tâm thần
ATC : Anatomical therapeutic chemical classification.
DDD : Defined daily doses
WHO : Tổ chức Y tế Thế giới
CSDL: Cơ sở dữ liệu.
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
PHẢN 1 -TỔNG QUAN
1. Hệ thống phân loại ATC/DDD 3
1.1. Lịch sử hệ thống phân loại ATC/DDD 3
1.2. Mục đích của hệ thống ATC/DDD 5
1.3. Cấu trúc và danh pháp 5
1.4. Nguyên tắc phân loại 6
1.5. Đơn vị đo lường và sử dụng thuốc DDD 8
1.6. Vài nét về tình hình ứng dụng hệ thống ATC/DDD trên thế giới và
Việt N am 9
2. Các thuốc có yêu cầu quản lý đặc biệt 11
2.1. Thuật ngữ, khái niệm 11
2.2. Các quy chế quản lý thuốc độc, gây nghiện, hướng tâm thần
12
2.3. Công tác quản lý thuốc độc, gây nghiện, hướng tâm thần trên thế
giới và Việt N am 14
3. Vài nét về chương trình CSDL thuốc 15
PHẦN 2 - PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
1. Phương tiện nghiên cứu và công nghệ ứng dụng 20
1.1. Phương tiện nghiên cứu
20
1.2. Công nghệ ứng dụng 20
2. Phương pháp nghiên cứu 21
PHẦN 3 - THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ
1. Giới thiệu về chương trình 23
2. Các bước xây dựng chương trình 24
2.1. Dịch nội dung hệ thống ATC/DDD 24
2.2. Tra cứu, phân loại thuốc quản lý đặc biệt 25
2.3. Xây dựng cơ sở dữ liệu 26
2.4. Thiết lập thuật toán xây dựng chương trình
30
3. Hướng dẫn sử dụng chương trình 30
3.1. Hướng dẫn cài đặt 30
3.2. Hướng dẫn sử dụng chương trình 32
3.3. Tham chiếu 44
3.4. Kết quả minh hoạ
.
49
PHẦN 4 - KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
.
52
1.1. Xây dựng hệ thống CSDL 52
1.2. Xây dựng phần mềm phân loại và tra cứu thuốc 52
2. Đề xuất 53
2.1. Đề xuất cho phiên bản mới 53
2.2. Các hướng mở của đề tài 54
2.3. Đề xuất khác 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
ĐẶT VẤN ĐÈ
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, lĩnh vực nghiên cứu sử dụng thuốc
đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng thế giới. Ở Việt Nam hiện nay,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội, chủng loại và số lượng
thuốc cũng ngày càng gia tăng nhanh chóng. Do vậy, hơn bao giờ hết, công
tác nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc, cũng như quản lý thuốc nhằm nâng
cao tính hiệu quả, an toàn và hợp lý đang ngày càng được đề cao.
Để nghiên cứu tình hình tiêu thụ và sử dụng thuốc, cần phải dựa trên một
hệ thống phân loại thuốc hoàn chỉnh và được quốc tế chuẩn hóa. Trên thế
giới, hệ thống phân loại thuốc ATC (Anatomical therapeutic chemical
classification) đã được Tổ chức Y té thế giới (WHO) khuyến cáo sử dụng từ
năm 1981 như một tiêu chuẩn quốc tế cho những nghiên cứu việc sử dụng
thuốc. Thực tế cho đến nay đã có nhiều quốc gia sử dụng hệ thống phân loại
này, đặc biệt là trong công tác giám sát tiêu thụ thuốc.
Bên cạnh đó, trong công tác quản lý dược ở nước ta, Bộ Y tế đã ra nhiều
văn bản, trong đó có các quy chế về thuốc có yêu cầu quản lý đặc biệt như:
các thuốc độc (TĐ), thuốc gây nghiện (TGN) và thuốc hướng tâm thần
(THTT). Đây là những nhóm thuốc cần phải được quản lý rất chặt chẽ và
nghiêm ngặt, nếu không sẽ gây ra những tai họa khôn lường. Tuy nhiên, với
số lượng chủng loại thuốc ngày càng phong phú đa dạng như hiện nay, việc
thực hiện quy chế cũng như việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện gặp nhiều
khó khăn, đặc biệt là khi xem xét một thuốc có thuộc diện quản lý đặc biệt
hay không. Do vậy, những giải pháp để có thể đơn giản hóa việc tra cứu TĐ,
TGN, THTT cho các dược sĩ bán thuốc và những người hoạt động trong lĩnh
vực dược, giảm bớt gánh nặng cho công tác phân loại, quản lý thuốc là rất cần
thiết.
1
Trước tình hình đó, ngành Dược Việt Nam cần phải xây dựng một hệ
thống cơ sở dữ liệu (CSDL) thuốc phục vụ cho công tác quản lý, hệ thống này
phải được tổ chức trên cơ sở của: hệ thống phân loại ATC/DDD và các quy
chế quản lý thuốc đặc biệt. Thực tế đã có một vài nghiên cứu bước đầu xây
dựng hệ thống CSDL theo mục đích trên, và đã đạt được những bước khai phá
rất thành công, tuy nhiên sản phẩm chưa thể đưa vào ứng dụng trong thực tế
bởi thiếu tính đồng bộ. Từ những phân tích trên, khóa luận “Bước đầu xây
dựng cơ sở dữ liệu, phần mềm phân loại và tra cứu thuốc, phục vụ công
tác quản lý dược” được thực hiện với những mục tiêu sau:
Bước đầu xây dựng cơ sở dữ liệu về các thuốc và biệt dược,
dựa trên hệ thống phân loại ATC 2003 của WHO và quy chế quản lỷ các
TGN, THTT, TĐ do Bộ Ytế ban hành.
Bước đầu xây dựng phần mềm phân loại và tra cứu thuốc (viết
tắt là “VNpharmacy”), phục vụ cho công tác quản lý và sử dụng thuốc.
2
Phần 1:
TỔNG QUAN
1/ HỆ THỐNG PHÂN LOẠI ATC/DDD:
1.1 LỊCH SỬ HỆ THÓNG PHÂN LOẠI ATC/DDD:
Ke từ khi ra đời vào những năm 1960, lĩnh vực nghiên cứu sử dụng
thuốc đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng thế giới. Kết quả nghiên
cứu trong thời gian 1966-1967 của Tổ chức Y Tế thế giới tại Châu Âu cho
thấy có sự khác biệt rất lớn trong vấn đề sử dụng thuốc giữa các nhóm dân cư
ở 6 nước Châu Âu. Năm 1969,* hội nghị chuyên đề về “Sự tiêu dùng thuốc” đã
được tổ chức tại Oslo. Hội nghị đã thống nhất cần phải có một hệ thống phân
loại thuốc sử dụng cho các nghiên cứu về tiêu dùng thuốc và để áp dụng trên
toàn thế giới. Cũng tại hội nghị này, nhóm Nghiên cứu sử dụng thuốc
(DURG) được thành lập với nhiệm vụ xây dựng và phát triển các phương
pháp nghiên cứu sử dụng thuốc hợp lý có thể áp dụng được toàn cầu.
Khoảng đầu những năm 70, trung tâm phát triển thuốc Nauy (NMD) đã
xây dựng hệ thống phân loại ATC (Anatomic Therapeutic Chemical
classification system) bằng cách mở rộng và sửa đổi hệ thống phân loại thuốc
của Hiệp hội nghiên cứu thị trường dược Châu Âu (EPhMRA). [8]
Tuy nhiên, để đánh giá việc sử dụng thuốc, hệ thống phân loại cần phải
được gắn với một đơn vị đo lường đánh giá. NMD đã đưa ra một đơn vị đo
lường để sử dụng trong nghiên cứu sử dụng thuốc được gọi là liều xác định
theo n gày D DD (Defined D aily D oses). H ệ thống ATC/DDD này được sử
dụng ở Nauy từ những năm 70 khi đưa ra những dữ liệu về vấn đề tiêu dùng
thuốc. [1]
3
Năm 1975, Hội đồng thuốc Bắc Ầu được thành lập phối hợp với NMD
để phát triển hệ thống phân loại ATC/DDD. Năm 1976, hội đồng đã sử dụng
phương pháp phân loại ATC/DDD để đưa ra những số liệu thống kê về sử
dụng thuốc ở Bắc Âu. Ke từ đó, hệ thống phân loại ATC/DDD được sủ dụng
rộng rãi cho hầu hết các loại thuốc trên thị trường Bắc Âu.
Năm 1981, Trụ sở WHO tại Châu Âu đã giới thiệu hệ thống phân loại
ATC/DDD trước cộng đồng quốc tế cho các nghiên cứu về sử dụng thuốc.
Để phổ biến và áp dụng hệ thống phân loại ATC/DDD một cách rộng rãi hơn,
năm 1982, Trung tâm hợp tác của WHO về phương pháp thống kê thuốc -
“WHO Collaborating Centre for Drug Statistics Methodology ” (WCCDSM)
đã được thành lập ở Nauy với nhiệm vụ phối họp sử dụng phương pháp phân
loại này.
Năm 1996, WHO thấy rằng phát triển, phổ biến việc sử dụng hệ thống
phân loại ATC/DDD như một tiêu chuẩn quốc tế cho các nghiên cứu sử dụng
thuốc là thực sự cần thiết. Do đó, cùng với nỗ lực phối hợp chặt chẽ hơn với
các nghiên cứu về sử dụng thuốc và tiếp cận trực tiếp với thông tin về các
thuốc cần thiết, WHO đã chính thức đưa ra quyết định áp dụng toàn cầu hệ
thống phân loại ATC/DDD. Cũng trong năm đó, nhóm công tác quốc tế về
phương pháp thống kê thuốc của WHO đã được thành lập, với nhiệm vụ tư
vấn chuyên môn về hệ thống ATC/DDD cho WCCDSM. [8] Hàng năm,
nhóm công tác quốc tế này tổ chức các khóa đào tạo quốc tế về hệ thống
ATC, và cuộc họp thường niên để xem xét các đề nghị thay đổi và duyệt lại
hệ thống ATC và liều DDD nếu thấy cần thiết. Đầu năm 2003, khóa tập huấn
quốc tế về ATC/DDD đã diễn ra vào ngày 7, 8 tháng 4 tại Ecuado, và 26, 27
tháng 5 tại trụ sở của Nhóm công tác của WHO. Cuộc họp thường niên của
năm 2003 sẽ được tổ chức vào 2 ngày 16,17 tháng 11 tại Olso, Nauy. [13]
4
1.2 MỤC ĐÍCH CỦA HỆ THÓNG ATC/DDD: [1]
Mục đích của hệ thống phân loại ATC/DDD là cung cấp một công cụ
cho các nghiên cứu về tình hình sử dụng thuốc, nhằm cải thiện chất lượng của
việc sử dụng thuốc. Nó được WHO coi là một tiêu chuẩn quốc tế cho các
nghiên cứu về lĩnh vực này. Ngoài ra còn là để trình bày và so sánh các số
liệu thống kê về việc tiêu thụ thuốc ở mức độ quốc tế và các mức độ khác.
DDD là một đon vị đo lường kỹ thuật về sử dụng thuốc, có ý nghĩa để
theo dõi, giám sát đánh giá về tình hình tiêu thụ thuốc và sử dụng hợp lý hay
không, nó không phản ánh liều dùng thực tế.
Sự phân loại một chất trong hệ thống ATC/DDD không phải là một
khuyến cáo sử dụng thuốc, cũng không nhằm đánh giá chất lượng của một
thuốc hay một nhóm thuốc.
1.3 CẤU TRÚC VÀ DANH PHÁP:
Danh pháp:
Tên hoạt chất dùng trong hệ thông phân loại ATC được ghi theo tên
quốc tế (INN). Nếu không có tên quốc tế thì chọn theo tên được chấp nhận ở
Mỹ (United States Approved Name) hoặc tên được chấp nhận ở Anh (British
Approved Name).
Cẩu trúc:
Hệ thống phân loại ATC được xây dựng dựa trên cơ sở ba yếu tố:
• Bộ phận cơ thể mà thuốc tác động vào (Anatomical)
• Tác dụng điều trị của thuốc (Therapeutic)
• Các đặc trưng hóa học của thuốc (Chemical)
Trong hệ thống phân loại này, mỗi thuốc sẽ có ít nhất một mã bao gồm
năm bậc phân loại được ký hiệu dưới dạng những nhóm chữ và số khác nhau.
5
Bảng 1: Cấu trúc hệ thống phân loại ATC/ĐDD
Bậc Ký hiệu
- - - - - ị
1
01 chữ cái
Chỉ bộ phận giải phâu của cơ thê là nơi mà
thuốc tác động vào. Bậc 1 được chia thành 14
nhóm nhỏ tương ứng với 14 chữ cái.
2
02 ký tự số
Chỉ tác dụng điêu trị chính có liên quan đên bộ
phận giải phẫu cơ thể mà thuốc tác động vào.
3 01 chữ cái
Chỉ nhóm điêu trị cụ thê.
4
01 chữ cái
Chỉ rĩhỗm hoai học cỗ liền qũãn đễn tac dụng ị
dược ỉý 1
5
02 ký tự sô
Chỉ nhóm chức hoá học cụ thê của thuôc. 1
Ví dụ: Cafein có mã ATC là N.06.B.C.01, trong đó:
Bậc 1: N chỉ nơi tác dụng của thuốc: hệ thần kinh.
Bậc 2: N.06 chỉ tác dụng điều trị chính: hưng thần
Bậc 3: N.06.B chỉ nhóm tác dụng dược lý cụ thể: các thuốc chống loạn
thần và thuốc tăng trí nhớ.
Bậc 4: N.06.B.C chỉ nhóm chức hóa học có liên quan đến tác dụng: các
dẫn chất của Xanthine
Bậc 5: N.06.B.C.01 để chỉ đích danh tên hoạt chất là Caffein.
1.4 NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI:
1.4.1 Nguyên tắc chung:
■ xếp theo tác dụng điều trị chủ yếu để mỗi thuốc có ít nhất một mã
số xếp loại. Nhưng thuốc cũng có thể có nhiều mã phân loại nếu có
các tác dụng điều trị khác hẳn nhau một cách rõ rệt.
6
■ Thuốc có nhiều chỉ định điều trị chủ yếu hoặc được dùng để điều trị
các bệnh khác nhau ở một số nước, thì cũng xếp một mã và chú
thích thêm ở mục tra cứu.
■ Mã đề nghị cho một thuốc mới phải do hội đồng của WHO thông
qua và ban hành. Thay đổi mã thuốc cũng phải theo trình tự như
vậy.
■ Tên thuốc trong phân loại ATC phải theo danh pháp INN
1.4.2 Phân loại chế phẩm: [1]
Chế phẩm đơn thành phần là c hế phẩm chỉ chứa một loại hoạt chất
chính (kể cả hỗn họp đồng phân lập thể), có thể có thêm thành phần khác có
tác dụng phụ trợ.
Ví dụ:
■ Kháng sinh + chất gây tê nơi tiêm.
■ Aspirin + NaHCƠ3 Giảm kính ứng niêm mạc đường tiêu hoá.
■ Hoạt chất chính + tác nhân làm bền vững chế phẩm.
Các chế phẩm hỗn hợp là chế phẩm có chứa 2 hay nhiều hoạt chất
chính được xếp loại theo nguyên tắc sau:
■ Hai hay nhiều thành phần hoạt chất thuộc cùng nhóm tác dụng điều
trị hỗn hợp thì được xếp thứ 20 hoặc 30 ở bậc phân loại thứ 5. Ví
dụ: N01BB02 Lidocaine/N01BB04 Prilocaine -» N01BB20 là dạng
phối hợp của Lidocaine và Prilocaine.
■ Hai hay nhiều thành phần hoạt chất không cùng nhóm, nhưng tác
dụng điều trị như nhau thì xếp cùng một mã nhưng xếp sau số 50. Ví
dụ: Chế phẩm Acetyl salicylic acid có thêm một thành phần khác là
codein hoặc cafein nhưng có cùng tác dụng giảm đau thì đều được
xép vào mã N02BA51. Các dạng thuốc phối hợp có cùng hoạt chất
thì thường có cùng mã ATC.
7
■ Các dạng phối hợp có chứa chất hướng tâm thần mà không phân
loại theo mã N05 hoặc N06 thì phân loại theo bậc 5 có mã từ 70 trở
lên. Ví dụ : N02BA71 là acid acetyl salicylic kết hợp với các chất
hướng thần.
1.5 ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG VÀ sử DỤNG THUÓC DDD: [8]
Đơn vị DDD (Liều xác định theo ngày) của mỗi thuốc được ra đời và
phát triển đồng thời với hệ thống phân loại ÁTC. DDD là liều tổng cộng trung
bình của một thuốc dùng cho một ngày cho một chỉ định ở người trưởng
thành.
Khái niệm này được đưa ra nghiên cứu cùng với phân loại ATC và
người ta đã sử dụng liều DDD làm đơn vị đo lường sử dụng thuốc. Thuốc sử
dụng có nhiều hình thức đo lường như giá trị thương phẩm trên thị trường,
khối lượng nhưng các đơn vị này không đánh giá được tình hình tiêu thụ
thuốc và sử dụng có hợp lý hay không.
DDD có giá frị quan trọng trong đánh giá dữ liệu kê đơn, phác đồ
chuẩn và xác định nhu cầu thuốc.
DDD không phản ánh liều dùng thực tế vì thuốc được chỉ định trong
từng trường hợp cụ thể với liều khác nhau. Liều điều trị cho những bệnh nhân
và nhóm bệnh nhân riêng lẻ thường khác DDD và tất yếu phải dựa vào nhưng
đặc trưng riêng như: tuổi, trọng lượng và các xem xét về dược động học.
Đơn vị đo lường sử dụng thuốc D DD c hỉ được áp dụng cho những
thuốc đã được xếp loại theo mã ATC.
Một số thuốc không thể dùng DDD để theo dõi như: Dịch truyền,
vaccin, thuốc gây mê, thuốc ngoài da, thuốc cản quang
Đơn vị: Với chế phẩm đơn: g, mg, mcg, mmol E (đon vị), TE (nghìn
đơn vị), ME (triệu đơn vị) Với chế phẩm hỗn hợp: tính theo đơn vị liều ED
( viện đạn, gói bột uống )
8
1.6 VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG HỆ THÓNG
ATC/DDD TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM:
•
Phát huy đúng chức năng của hệ thống phân loại ATC, hiện nay trên
thế giới đã có nhiều nước tiên tiến sử dụng hệ thống này trong lĩnh vực quản
lý và nghiên cứu sử dụng thuốc.
Theo đánh giá, tại các nước Bắc Ầu và nhiều nước khác thuộc Đông
Ầu, hệ thống ATC/DDD đã được coi như một chuẩn quốc gia, được sử dụng
rộng rãi bởi các nhà sản xuất, nhà phân phối sản phẩm, nhà thuốc, và là một
chuẩn để nhận biết mỗi một hoạt chất.
Hệ thống ATC/DDD cũng được Hiệp hội nghiên cứu thị trường Dược
châu Ầu EPhMRA sử dụng trong các tài liệu chuyên môn chi tiết. Tại Thuỵ
Điển, Netherlands, các cơ quan của WHO đang sử dụng và hỗ trợ hệ thống
này. [11]
Tại Pháp, một trong những nước có ngành Dược phát triển hàng đầu
thế giới, Trung tâm thông tin quốc gia về thuốc (CNHIM) đưa hệ thống phân
loại ATC/DDD như một phương pháp chính thức để tìm kiếm, phân loại
thuốc. Cơ quan nghiên cứu kinh tế Y học, Trung tâm bảo vệ các sản phẩm y
tế Pháp cũng sử dụng hệ thống ATC để phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ
thuốc tại các bệnh viện và hiệu thuốc. [12] Cụ thể: để khảo sát đánh giá tình
hình tiêu thụ thuốc từ năm 1998 đến năm 2000, người ta đã tiến hành đánh giá
những loại thuốc nào có xu hướng bán chạy, loại thuốc nào có sức bán giảm,
phân tích tìm hiểu nguyên nhân nó để từ đó có phương án tác động quản lý
phù hợp. Các loại thuốc được phân chia theo hai bậc đầu tiên của hệ thống
phân loại ATC, phân tích theo số lượng sản phẩm và giá trị của chúng, việc
nghiên cứu được tiến hành riêng cho thị trường bán lẻ tại quầy thuốc và trong
các bệnh viện. Để minh hoạ rõ nét hơn, khoá luận xin trình bày 1 phần báo
9
cáo này về tình hình tiêu thụ các thuốc trong nhóm Hệ tim mạch (Mã C) tại
các quầy thuốc, tính theo giá trị:
“Thực tế, tính theo giá trị, trong khỉ sự tiêu thụ các chất giảm lipỉd
huyết tương (CIO) đã tăng với nhịp điệu trung bình hàng năm gần 20%, thì
của các thuốc giãn mạch ngoại biên (C4) đã giảm bớt trung bình 4,8% một
năm. Tỉnh theo sổ lượng đơn vị được bán, sự chênh lệch hẳn là yếu hơn
nhimg vẫn có ý nghĩa (+8,3% cho các chất giảm lỉpid huyết tương, -4,8% cho
các thuốc giãn mạch ngoại biên). Sự tăng cao của chất giảm lipid huyết
tương cỏ nguyên nhân chủ yếu là do sự xuất hiện mới của một phân loại con
(một thuốc mới) vào năm 1989, phân loại Statin (C10AA), mà thể hiện rõ nhất
là trong năm 2000 con sổ giao dịch của phân loại này chiếm hơn 76% sàn
giao dịch chung. Những kết quả khảo sát thu được khỉ được thể hiện trên biểu
đồ đã cho thấy sự khác nhau rõ rệt:
Hệ thống tim mạch (Mã C) - Biểu đồ theo chỉ sổ mua bán tại quầy
thuốc theo giả trị
Còn ở Việt Nam thì sao?
10
Hệ thống phân loại ATC/DDD đã được biết đến từ lâu trong các công
tác nghiên cứu, quản lý Dược và đặc biệt là trong lĩnh vực y tế cộng đồng.
Tuy nhiên nắm được vai trò quan trọng của hệ thống này, cũng như việc áp
dụng nó ra sao cho đến nay vẫn còn khá mới mẻ với hầu hết các cán bộ công
tác trong lĩnh vực Dược, các nhà sản xuất, nhà phân phối, các hiệu thuốc
Với mong muốn đưa hệ thống ATC/DDD trở nên phổ biến và được áp dụng
tốt hơn tại Việt Nam, gần đây đã có một số công trình nghiên cứu khoa học và
ứng dụng được thực hiện và đã thành công như việc đưa hệ thống phân loại
ATC/DDD vào hệ thống bài giảng cho sinh viên của bộ môn Quản lý và Kinh
tế dược, trường ĐH Dược HN (2002), đề tài khoa học của nhóm dược sĩ
Phạm Vũ Khiêm (3/2002) Với cùng một mong muốn trên, hy vọng sau khi
được hoàn thiện hon nữa, sản phẩm của khóa luận này cũng sẽ góp một phần
nhỏ bé làm thành cầu nối giúp ngành Dược Việt Nam hội nhập nhanh hơn với
Thế giới.
2/ CÁC THUÓC CÓ YÊU CAU QUÀN LÝ ĐẶC BIỆT:
2.1 CÁC THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM:
• 7 •
■ Thuốc độc: là những thuốc có nguồn gốc tự nhiên, tổng hợp, hay bán
tổng hợp được sử dụng với mục đích phòng bệnh, chữa bệnh, có độc
tính cao có thể gây nguy hiểm tới sức khoẻ và tính mạng người bệnh.
[2]
■ Thuốc gây nghiện: là những thuốc có nguồn gốc tự nhiên, tổng hợp,
hay bán tổng hợp được sử dụng với mục đích phòng bệnh, chữa bệnh.
Thuốc gây nghiện, nếu bị lạm dụng có thể dẫn tới nghiện - một tình
trạng phụ thuộc về thể chất hay tâm thần. [3]
■ Thuốc hướng tâm thần: là những thuốc có nguồn gốc tự nhiên, tổng
hợp hay bán tổng hợp có tác dụng trên thần kinh trung ương gây nên
11
tình trạng kích thích hoặc ức chế được sử dụng với mục đích phòng
bệnh, chữa bệnh. Thuốc hướng tâm thần, nếu sử dụng không hợp lý có
thể gây nên rối loạn chức năng vận động tư duy, hành vi, nhận thức
hoặc gây ảo giác hoặc có khả năng lệ thuộc thuốc. [4]
■ Tiền chất dùng làm thuốc: là chất được sử dụng làm thuốc, có thể
được dùng để tổng hợp, bán tổng hợp ra các chất hướng tâm thần, chất
gây nghiện. [4]
2.2 CÁC QUY CHẾ QUẢN LÝ THUỐC ĐỘC, GÂY NGHIỆN,
HƯỚNG TÂM THẦN:
2.2.1 Quy chế quản lý thuốc độc: [2]
Do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo Quyết định số 2032/1999/QĐ-BYT
ngày 9 tháng 7 năm 1999. Song song với việc ban hành Quy chế, Bộ Y tế
cũng ban hành các Danh mục thuốc độc bảng A, bảng B và Danh mục thuốc
giảm độc. Ngày 12 tháng 7 năm 2001, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Danh mục
thuốc độc bổ sung và Danh mục thuốc giảm độc bổ sung theo quyết định số :
3046/2001/QĐ-BYT.
Đối tượng áp dụng của quy chế : các thuốc có tên trong Danh mục
thuốc độc bảng A, thuốc độc bảng B và Danh mục thuốc độc bổ sung bảng A,
bảng B.
Các thuốc miễn quản lý bao gồm:
• Thuốc thành phẩm dùng ngoài da, nhỏ mũi, nhỏ tai có chứa dược
chất độc được bào chế theo công thức đã có trong các tài liệu trong
nước hoặc quốc tế.
• Thuốc thành phẩm chứa dược chất độc bảng A, bảng B có hàm
lượng hoặc nồng độ nhỏ hơn hoặc bằng hàm lượng hoặc nồng độ
quy định trong Danh mục thuốc giảm độc và Danh mục thuốc giảm
độc bổ sung, trừ trường hợp xuất nhập khẩu.
12
• Hoá chất độc, thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Quy chế này.
2.2.2 Quy chế quản lý thuốc gây nghiện: [3]
Do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo quyết định số: 2033/1999/QĐ-BYT
ngày 9 tháng 7 năm 1999. Song song với việc ban hành Quy chế, Bộ Y tế
cũng ban hành Danh mục thuốc gây nghiện và Danh mục thuốc gây nghiện ở
dạng phổi hợp.
Đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh của quy chế:
• Quy chế quản lý thuốc gây nghiện được áp dụng đối với thuốc gây
nghiện quy định tại Danh mục thuốc gây nghiện.
• Những thuốc có công thức gồm nhiều hoạt chất, trong đó thuốc gây
nghiện tham gia với hàm lượng nhỏ hơn hoặc bằng hàm lượng quy
định trong Danh mục thuốc gây nghiện ở dạng phối hợp, được miễn
quản lý theo quy chế này, trừ trường hợp xuất nhập khẩu.
2.2.3 Quy chế quản lý thuốc hướng tâm thần: [4]
Do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo quyết định số 3047/2001/QĐ-BYT
ngày 12 tháng 7 năm 2001. Song song với việc ban hành Quy chế, Bộ Y tế
cũng ban hành Danh mục thuốc hướng tâm thần, tiền chất dùng làm thuốc và
Danh mục thuốc hưởng tâm thần, tiền chất ở dạng phổi hợp.
Đối tượng áp dụng của quy chế: thuốc hướng tâm thần quy định tại
Danh mục thuốc hướng tâm thần, và tiền chất dùng làm thuốc quy định tại
Danh mục tiền chất.
Các thuốc được miễn quản lý gồm:
• Thuốc thành phẩm nhỏ mũi có chứa tiền chất dùng làm thuốc.
• Thuốc thành phẩm mà công thức gồm nhiều hoạt chất trong đó
thuốc hướng tâm thần, tiền chất dùng làm thuốc tham gia với hàm
lượng nhỏ hơn hoặc bằng hàm lượng quy định tại Danh mục thuốc
13
hướng tâm thần ở dạng phối hợp và Danh mục tiền chất ở dạng
phổi hợp, trừ trường hợp xuất nhập khẩu.
2.3 CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUÓC ĐỘC, GÂY NGHIỆN, HƯỚNG
TÂM THẦN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM.
Hiện nay, trên thế giới và trong nước, việc lạm dụng chất gây nghiện,
chất hướng tâm thần ngày c àng n ghiêm ứọng. Nhằm quản lý sử dụng các
TGN, THTT có hiệu quả, hợp lý và an toàn, năm 1971 Liên Hiệp Quốc đã
thông qua Công ước quốc tế về chất hướng tâm thần, được thực thi từ
16/8/1976 trong đó có quy định các vấn đề sử dụng các THTT và gây nghiện.
Kèm theo Công ước, LHQ ban hành danh mục các chất thuộc vào tầm kiểm
soát của Công ước, được xếp vào 4 bảng tùy theo mức độ nguy hiểm của sự
lạm dụng và thường xuyên được xem xét, bổ sung, sửa chữa qua các năm. [6]
Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là một trong số các nước trên thế giới
đã tham gia rất sớm vào công ước này (năm 1974). Năm 1975 nước này đã
ban hành một đạo luật về chất hướng tâm thần, trong đó các chất hướng tâm
thần được chia làm 4 bảng, mỗi bảng không chỉ khác nhau ở đặc tính dược
học và tác động lên tâm thần của các thuốc mà còn giới hạn về phạm vi kiểm
soát.
Ở Việt Nam, công tác quản lý TĐ, TGN và THTT cũng được ngành Y tế
rất quan tâm. Từ ngày 7/10/1998, nước ta đã gia nhập các Công ước Quốc tế
về các chất hướng tâm thần và chất gây nghiện. [8]
Đồng thời, Thanh tra Bộ Y tế và Cục cảnh sát Bộ Công An thường xuyên
phối hợp chỉ đạo và tiến hành kiểm tra việc thực hiện các quy chế quản lý TĐ,
TGN, THTT ở các đơn vị, cơ sở trên địa bàn cả nước. Kết quả cho thấy tình
hình quản lý các nhóm thuốc này đã được quản lý một cách chặt chẽ. Việc
thực hiện các quy định này ngày càng nghiêm túc hơn kể cả trong hệ thống
bệnh viện, cơ sở cai nghiện ma túy và các cơ sở kinh doanh được phép hoạt
14
động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên vẫn còn một số những sai phạm không
nhỏ. Theo báo cáo năm 2002 của Bộ Y tế về công tác thanh tra dược trên 57
tỉnh, thành phố, tính đến ngày 16/12/2002: trong tổng số 10.436 cơ sở được
thanh tra, có 1.663 cơ sở vi phạm (15,93%), một trong những nội dung vi
phạm chủ yếu là thực hiện chưa đúng quy chế chuyên môn dược đặc biệt là
quy chế quản lý TĐ, TGN, THTT. Còn theo báo cáo thanh tra về tình hình
quản lý, sử dụng TGN, THTT tính đến ngày 25/12/2002, tổ chức thanh tra 16
đơn vị, số đơn vị còn sai sót về thủ tục hành chính trong quá trình thực hiện
cần rút kinh nghiệm: khoảng 20%. [5]
Những báo cáo ưên cho thấy, công tác quản lý và thực hiện các quy chế
về thuốc yêu cầu quản lý đặc biệt còn gặp khó khăn. Nếu có thể đon giản hóa
việc tra cứu, phân loại nhóm thuốc này, chắc chắn sẽ góp phần giúp cho việc
thực hiện các quy chế quản lý tốt hơn.
3 / VÀI NẾT vẩ CHƯƠNG TRÌNH CSDL THUốC
(khóa luận tốt nghiệp Ds năm 2002 của tác giả Phạm Vũ Khiêm).
Trước đây đã có một vài nghiên cứu bước đầu xây dựng hệ thống CSDL
này, và gần đây nhất là đề tài khoá luận tốt nghiệp của dược sĩ Phạm Vũ Khiêm
(3/2002): “Thiết kế và xây dựng CSDL quản lý các thuốc gây nghiện, thuốc
độc, thuốc hướng tâm thần”, chương trình được đặt tên là “Cơ sở dữ liệu
thuốc”. Là những người đi trước và “khai phá” trong việc xây dựng chương
trình phân loại thuốc trên máy tính, nhóm xây dựng chương trình đã mở ra một
ý tưởng mới rất sáng tạo và thực tế về lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin
vào ngành Dược, mở ra những hướng đi khả quan và là tài liệu rất đáng tham
khảo cho những người tiếp tục thực hiện, về thành quả thực nghiệm, tác giả đã
rất thành công trong việc xây dựng và chứng minh thuật toán, đem lại những
kết quả khả quan là:
15
• Xây dựng cấu trúc danh mục thuốc có yêu cầu quản lý đặc biệt, cấu
trúc phân loại ATC và các Hoạt chất.
• Thiết lập mô hình dữ liệu Biệt dược phục vụ cho quản lý đặc biệt.
Tuy nhiên, vì thời gian thực hiện chưa cho phép, chương trình chưa thể
đưa vào thực tiễn phục vụ người dùng, vì như chính tác giả đã viết “chương
trình nhằm mục đích chứng minh thuật toán nhiều hơn là quan tâm đến người
dùng” [7], do vậy còn thiếu tính đồng bộ. Căn cứ vào những bàn luận và đề
xuất của tác giả, cùng với sự tham khảo trong quá trình tiến hành thực nghiệm,
nhóm thực hiện khoá luận này xin được đưa ra những nguyên nhân đó là:
• Chương trình “Cơ sở dữ liệu thuốc” chưa có CSDL biệt dược đầy đủ để
sử dụng.
Để có thể xem xét một thuốc thành phẩm có nằm trong diện thuốc có yêu
cầu quản lý đặc biệt hay không, hoặc tra mã ATC của nó, trước tiên người
thực hiện sẽ phải tra cứu xem trong thuốc đó chứa những hoạt chất nào, rồi
mới tiến hành phân loại diện quản lý trong các quy chế quản lý. Khi các thông
tin về thuốc được lưu trữ rải rác ở nhiều tài liệu như hiện nay, công việc này
(ưa cứu hoạt chất trong biệt dược) làm mất nhiều thời gian và công sức cho
người làm công tác nghiên cứu, nhất là khi phải tra cứu một số lượng lớn
thuốc. Do vậy việc xây dựng CSDL các biệt dược đã và đang được lưu hành
trên thị trường cả nước là rất cần thiết.
• Còn thiếu thuộc tính DDD.
Một trong những tác dụng của hệ thống phân loại ATC là giám sát tiêu
thụ và sử dụng thuốc. Song để giám sát tiêu thụ và sử dụng thuốc thì hệ thống
ATC phải được gắn với một đơn vị “đo lường” về sử dụng thuốc, đó là đơn vị
DDD, tạo thành hệ thống ATC/DDD. Do vậy, để có thể đưa vào thực tiễn
16
nhằm hỗ trợ tốt công tác phân loại thuốc trên máy tính, hệ thống CSDL của
phần mềm cần phải có cả hai thuộc tính dữ liệu trên.
• Do chưa phân biệt được dạng bào chế khi xem xét các thuốc có yêu cầu
quản lý đặc biệt, thuật toán chưa giải quyết được vấn đề phân loại “thuốc
giảm độc”, “thuốc gây nghiện dạng phối hợp”, “thuốc HTT dạng phối hợp”
• Chưa có sự tra cứu nhiều chiều giữa: cấu trúc ATC, chỉ tiêu DDD với
hoạt chất, biệt dược, danh mục các thuốc cần quản lý đặc biệt.
Tên biệt dược, hoạt chất thành phần, mã ATC - liều DDD và kết quả
phân loại về diện quản lý đặc biệt, là những khái niệm liên quan đến nhau của
một chất. Do vậy, để thuận tiện cho người dùng, chương trình nên cho phép
thực hiện được chức năng tra cứu nhiều chiều giữa các thuộc tính này:
Danh mục quản lý đặc biệt
o o
ATC o Hoạt chất <=> Biệt dược
o
Chỉ tiêu DDD
• CSDL được xây dựng dựa trên tài liệu “ATC index with DDDs” năm
2000.
Hiện nay WHO đã ban hành hệ thống phân loại ATC/DDD của năm
2003, so với nội dung năm 2000, cập nhật và thay đổi 188 mã ATC/DDD
mới, đồng thời có 13 mã được dỡ bỏ.
• Chương trình chưa có sự tham chiếu tương ứng với các ngôn ngữ quốc
tế thông dụng bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, do đó không ứa cứu được các
hoạt chất và tên thuốc theo nguyên bản (tiếng Anh) và các thứ tiếng khác
(tiếng Pháp )
Trong số thuốc đang lưu hành trên thị trường cả nước hiện nay, các thuốc
nhập khẩu chiếm tỷ lệ khá lớn, 41% tính đến hết ngày 31/12/2003. Do vậy
đây sẽ là hạn chế không nhỏ, hơn nữa nếu có tính năng tra cứu đa ngôn ngữ
trên, chương trĩnh cònm ở rộng được đối tượng sử dụng, cho phép những
người có khả năng chuyên môn và ngoại ngữ hoặc người nước ngoài hoạt
động trong lĩnh vực dược tại Việt Nam có thể dùng trực tiếp nội dung
ATC/DDD nguyên gốc, kiểm chứng lại thông tin Việt hóa do chương trình
cung cấp, qua đó góp phần hoàn thiện CSDL tiếng Việt.
Từ những phân tích trên, khoá luận xin đưa ra những giải pháp sau:
Giải pháp chuyên môn:
• Xây dựng CSDL biệt dược đang lưu hành trên thị trường dựa trên tài liệu
do Cục Quản lý Dược Việt Nam cung cấp.
• Xây dựng CSDL các biệt dược cần quản lý đặc biệt dựa trên các quy chế
về TĐ, TGN, THTT của Bộ Y tế.
• Dịch sang tiếng Việt 188 bậc và mã ATC mới hoặc thay đổi so với
phiên bản 2000, đường dùng và liều DDD cho tất cả các hoạt chất từ sự tổng
hợp dữ liệu tiếng Anh và tiếng Pháp.
• Đe đảm bảo tính chính xác và cập nhật cho kết quả tra cứu ATC: Xây
dựng CSDL hệ thống ATC/DDD năm 2003, bản tiếng Việt được dịch từ tài
liệu “ATC/DDD index 2003” của Tổ chức Y tế Thế Giới ( www.who.int và
www.whocc.no ), tham khảo thêm bản dữ liệu tiếng Pháp của Trung tâm
thông tin Quốc gia về Dược Cộng hoà Pháp (CNHIM) www.cnhim.ors, đồng
thời vẫn sử dụng nguyên bản bằng 2 thứ tiếng trên. Những phần dữ liệu ATC
đã được dịch trong kết quả của khoá luận trước sẽ được kiểm tra lại và sử
dụng nhằm tạo được một CSDL thuật ngữ tiếng Việt của chương trình mới
có độ chính xác cao nhất.
18
Giải pháp kỹ thuât công nghệ thông tin:
• Xây dựng cơ sở dữ liệu theo chuẩn Microsoft Access 2002 có đáp ứng
được nhu cầu cập nhật thông tin bằng các công cụ thông dụng và có cơ chế
lưu giữ văn bản dạng Unicode 16bit phục vụ cho giải pháp tiếng Việt. Đồng
thời là định dạng cơ sở dữ liệu để tra cứu trên Internet sau này.
• Viết chương trình ứng dụng Visual Studio 6.0 trên nền các hệ điều hành
Windows 98, ME, Windows 2000, Windows XP và Windows .NET Server.
Cấu hình tối thiểu: Hệ điều hành Windows 98 với trình duyệt I.E.4.0, màn
hình phân giải 800x600x256 màu trở lên, phần cứng bộ nhớ RAM 64MB, tốc
độ xử lý 300Mhz, dung lượng ổ cứng còn ưống 10MB.
19
Phân 2:
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1/ PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN cứu VÀ CÔNG NGHỆ ỨNG DỤNG:
1.1 PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN CỨU:
Đe tiến hành nghiên cứu và đi vào thực hiện xây dựng phần mềm chương
ừình, chúng tôi đã sử dụng:
• Trang thiết bị: Máy vi tính cá nhân, máy quét hình ảnh, máy ảnh số,
máy in, mạng Internet.
• Công cụ phần mềm:
- Hệ soạn thảo MS Word XP, Access, Excel, Frontpage.
Công cụ lập trình: MS Visual Basic 6.0, Visual C++, Access,
Frontpage.
Những hệ điều hành Windows98, ME, 2000, XP, .NET Server
phục vụ cho việc chạy thử chương trình.
1.2 CÔNG NGHỆ ỬNG DỤNG:
ứng dụng những công nghệ tiên tiến của Microsoft trong thiết kế phần mềm
Tin học.
Các ngôn ngữ lâp trình đã sử duns:
> Chương trình giao diện được viết bằng ngôn ngữ lập trình Microsoft
Visual Basic phiên bản 6.0.
20