ĐỀ TÀI: Pháp Luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý
1
I. Khái quát chung về bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý
1.1.1. Theo pháp luật quốc tế
Chỉ dẫn địa lý (Geographical indications): được coi là một thuật ngữ có cội nguồn
từ hai thuật ngữ: chỉ dẫn nguồn gốc (Indications of source) và tên gọi xuất xứ
(Appllations of origin), hai thuật ngữ này thuộc nội hàm của chỉ dẫn địa lý. Nhưng để
làm rõ về mối liên quan và sự khác nhau giữa các thuật ngữ này thì cần hiểu sơ qua chỉ
dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ trước khi đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý.
Chỉ dẫn nguồn gốc: được đề cập lần đầu tiên trong Công ước Paris (1883) về
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Sau đó chỉ dẫn nguồn gốc được quy định tại Điều 1
Thỏa ước Madrid (1891), cụ thể là:
“Bất kỳ sản phẩm nào mang chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối mà qua đó, một
trong số các quốc gia thành viên của Thỏa ước Madrid hoặc một địa điểm tại nước đó
được chỉ dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp là nước hoặc địa điểm xuất xứ thì hàng nhập khẩu
vào bất kỳ quốc gia thành viên nào của Thỏa ước Madrid đều bị tịch thu”
Thỏa ước này kế thừa và phát triển từ Công ước Paris, chỉ dẫn nguồn gốc quy
định các dấu hiệu chỉ dẫn chính xác về một quốc gia hoặc một địa điểm trong một quốc
gia mà tại đó hàng hóa được tạo ra. Các dấu hiệu này có thể chỉ đơn thuần mang chức
năng xác định người tạo ra sản phẩm đó, có thể còn bao hàm cả chức năng xác định nơi
mà sản phẩm đó được tạo ra. Một hoặc cả hai chức năng này đều ảnh hưởng đến quyết
định lựa chọn sản phẩm của khách hàng và vì vậy đã dẫn đến tình trạng các chủ thể khác
gắn tên gọi đó lên sản phẩm của mình để lợi dụng danh tiếng của các sản phẩm có nguồn
gốc đích thực từ các vùng địa lý đó.
2
Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh này cần phải có sự can thiệp bằng pháp luật nội
địa của các quốc gia cũng như pháp luật quốc tế.
Công ước Paris 1883 và Thỏa ước Madrid 1891 đều không nhắc đến thuật ngữ
chỉ dẫn địa lý. Đến 1958, Thỏa ước Lisbon về bảo hộ và đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ
của hàng hóa ra đời lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tên gọi xuất xứ hàng hóa. Theo qui
định tại khoản 1 Điều 2 của Thỏa ước này thì: “Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý
của nước, khu vực hoặc vùng lãnh thổ dùng để chỉ dẫn cho một sản phẩm bắt nguồn từ
khu vực đó, có chất lượng hoặc những tính chất đặc thù, riêng biệt xuất phát từ môi
trường địa lý, bao gồm cả yếu tố tự nhiên và con người”. Như vậy tên gọi xuất xứ hàng
hóa phải đáp ứng các điều kiện: tên gọi xuất xứ hàng hóa phải là tên gọi của một khu vực
địa lý hoặc một quốc gia cụ thể; tên gọi xuất xứ hàng hóa phải có chức năng chỉ dẫn về
nguồn gốc của hàng hóa; hàng hóa mang tên gọi xuất xứ phải có tính chất, chất lượng
khác hẳn với hàng hóa được sản xuất từ nơi khác; chất lượng và tính chất đặc thù của
hàng hóa mang tên gọi xuất xứ hàng hóa phải có mối liên hệ với yếu tố tự nhiên như: khí
hậu, thủy văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác và yếu tố về con
người như: kỹ năng, tay nghề của người sản xuất kết hợp với quy trình sản xuất truyền
thống của địa phương, của quốc gia đã được chỉ dẫn quyết định.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động
thương mại phát triển và không ngừng tăng lên, các quốc gia trên thế giới đã nhận thức
được tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lý và chỉ dẫn địa lý ngày càng được sử dụng khá phổ
biến. Chính vì vậy đòi hỏi phải có một quy định mang tính quốc tế điều chỉnh những vấn
đề liên quan đến chỉ dẫn địa lý. Hiệp định TRIPS 1994 về bảo hộ các khía cạnh thương
mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đã ra đời nhằm thiết lập và xây dựng các tiêu
chuẩn quy định về bảo hộ và thực thi sở hữu trí tuệ quốc tế. Tại khoản 1 điều 22 Hiệp
định này đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý như sau: “chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về
3
hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên.hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc
lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết
định”.
Theo khái niệm này có thể thấy chỉ dẫn địa lý là các dấu hiệu bất kỳ (có thể là từ
ngữ, hình ảnh) được sử dụng trên sản phẩm để chỉ ra thông tin về nguồn gốc địa lý nơi
sản phẩm đó được tạo ra. Các dấu hiệu để chỉ dẫn về hàng hóa phải liên quan đến một
quốc gia cụ thể, một địa phương hoặc một khu vực của một quốc gia cụ thể. Nhờ sự thể
hiện này trên hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng có thể nhận biết và lựa chọn các chỉ
dẫn phù hợp với thị hiếu của mình và nhận biết được hàng hóa bắt nguồn từ đâu. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc mang lại lợi nhuận cho nhà sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ.
Cũng chính vì khả năng phân biệt, tính truyền dẫn thông tin và giá trị thương mại mà chỉ
dẫn địa lý cũng như tên gọi xuất xứ hàng hóa đòi hỏi phải được bảo hộ ở cấp độ quốc gia
và quốc tế nhằm đảm bảo tính trung thực trong việc sử dụng các thông tin chỉ dẫn.
1.1.2. Theo pháp luật của Việt Nam
Tên gọi xuất xứ hàng hóa lần đầu tiên được xác định trong Pháp lệnh bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp (1989) của Việt Nam, có thể coi là nước có bước đi sớm
trong khu vực Đông Nam Á về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Sau đó nội dung khái niệm về tên
gọi xuất xứ hàng hóa được đưa vào Bộ luật Dân sự 1995 (qui định tại Điều 786):
“Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất
xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính
chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố
tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó”
Theo Bộ luật Dân sự năm 1995 thì tên gọi xuất xứ hàng hóa chỉ được bảo hộ
nếu đáp ứng được bốn điều kiện: “Thứ nhất: phải là tên chính thức và đang được sử
4
dụng tại một quốc gia, một địa phương được xác định trên bản đồ địa lý. Thứ hai: mặt
hàng mang tên gọi xuất xứ hàng hóa phải có xuất xứ từ nước, địa phương đã được xác
định trong tên gọi xuất xứ hàng hóa đó. Thứ ba: mặt hàng mang tên gọi xuất xứ phải có
tính chất, chất lượng đặc thù. Thứ tư: chất lượng và tính chất đặc thù của hàng hóa mang
tên gọi xuất xứ hàng hóa phải có mối liên hệ với điều kiện địa lý tại nơi mà tên gọi xuất
xứ hàng hóa đã xác định”. Khái niệm này tương đối phù hợp với khái niệm được nêu
trong Thỏa ước Lisbon năm 1958, dấu hiệu về tính chất, chất lượng đặc thù của mặt
hàng mang tên gọi xuất xứ hàng hóa được tạo thành bao gồm yếu tố tự nhiên và con
người. Nhưng khái niệm ở Điều 786 Bộ luật Dân sự năm 1995 đã mở rộng hơn là các
dấu hiệu đó có thể là sự kết hợp cả hai yếu tố tự nhiên và con người, không chỉ dừng lại ở
yếu tố tự nhiên mà không cần đến yếu tố con người hoặc chỉ dừng lại ở yếu tố con người
mà không cần đến yếu tố tự nhiên như Điều 2 Thỏa ước Lisbon năm 1958. Từ đó cho
thấy quy định của pháp luật Việt Nam thoáng hơn và có bước tiến bộ hơn.
Việc bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý được quy định đầu tiên tại Nghị định số
54/2000/CP-NĐ ngày 03 tháng 10 năm 2000 của Chính phủ về Bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Nghị định số
54/2000/NĐ-CP quy định như sau:
“1. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hóa đáp ứng đủ
các điều kiện sau đây:
Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ một
quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;
Thể hiện trên hàng hóa, bao bì hàng hóa hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán
hàng hóa nhằm chỉ dẫn rằng hàng hóa nói trên có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ
5
hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác
của loại hàng hóa này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên.
2. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hóa thì việc bảo hộ được thực hiện theo quy
định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hóa”.
Theo quy định tại khoản 2 của Nghị định này thì chỉ dẫn địa lý có thể là tên gọi xuất xứ
hàng hóa, có thể không phải là tên gọi xuất xứ hàng hóa và việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý
không cần phải thông qua thủ tục đăng ký dẫn đến khó phân biệt đâu là tên gọi xuất xứ
hàng hóa, đâu là chỉ dẫn địa lý. Đến Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ra đời đã loại bỏ thuật
ngữ tên gọi xuất xứ hàng hóa và thống nhất sử dụng thuật ngữ là chỉ dẫn địa lý.
Khái niệm chỉ dẫn địa lý được quy định tại khoản 16 Điều 4 LSHTT như sau: “Chỉ dẫn
địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh
thổ hay quốc gia cụ thể”. Như vậy có thể thấy khái niệm này ngắn gọn hơn nhiều so với
khái niệm trong Nghị định 54/2000/NĐ- CP. Khái niệm chỉ quy định đơn giản về chỉ
dẫn địa lý mà chưa đề cập đến chất lượng, uy tín hoặc đặc tính của hàng hóa do nguồn
gốc địa lý tạo nên. Khái niệm chỉ dẫn địa lý của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam không bao
gồm quy định về điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý mà chỉ quy định chung chung, khó xác
định được hình ảnh nào chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực hay địa phương, hình ảnh
nào để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ lãnh thổ hay từ quốc gia dẫn đến dễ gây nhầm lẫn.
Từ những vấn đề đã được đề cập trên có thể đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý như sau:
chỉ dẫn địa lý là những từ ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh để chỉ sản
phẩm có nguồn gốc từ khu vực hoặc địa phương, vùng lãnh thổ hay một quốc gia cụ thể
mà tại đó có các yếu tố địa lý quyết định đến tính chất, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu
của sản phẩm.
6
1.2. Khái niệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Bảo hộ có nghĩa là quyền ngăn cấm những người không có thẩm quyền sử dụng
chỉ dẫn địa lý, hoặc đối với những sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý đã
nêu, hoặc không tuân theo những tiêu chuẩn đã định về chất lượng. Thứ hai liên quan đến
vấn đề bảo hộ là bảo hộ chỉ dẫn địa lý để chúng không trở thành một tên gọi chung.
Trước khi đưa ra khái niệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý thì cần phân biệt giữa chỉ dẫn địa lý và
nhãn hiệu để tránh sự nhầm lẫn.
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức khác
nhau. Như vậy nhãn hiệu có thể là chữ cái hoặc chữ số, hình ảnh hoặc hình vẽ, hình khối
hoặc kết hợp các yếu tố này lại với nhau. Các dấu hiệu được bảo hộ dưới hình thức nhãn
hiệu chủ yếu để phân biệt hàng hóa dịch vụ của cá nhân, tổ chức khác nhau trên thị
trường. Nó không có sự bảo đảm về chất lượng hay đặc tính cơ bản của sản phẩm gắn
liền với nơi xuất xứ, chỉ có một pháp nhân hay cá nhân có quyền sở hữu nhãn hiệu. Chính
điều này đã khác hẳn so với chỉ dẫn địa lý vì đối chỉ dẫn địa lý thì những nhà sản xuất
trong khu vực hay địa phương đều có quyền sử dụng nó nếu như họ đáp ứng các điều
kiện quy định.
Đối với nhãn hiệu có thể được hình thành một cách tự do trong khi đó chỉ dẫn địa
lý thì liên quan đến tên gọi địa lý hoặc truyền thống của địa phương và cách gọi tên
thường dựa theo địa danh nơi sản phẩm ra đời. Ví dụ như một doanh nghiệp tại Phan
Thiết không thể sử dụng tên gọi xuất xứ Phú Quốc cho sản phẩm nước mắm của mình vì
nước mắm sản xuất tại Phan Thiết có các đặc tính về chất lượng không giống với nước
mắm sản xuất ở Kiên Giang. Vì vậy mà chỉ dẫn địa lý không thể chuyển nhượng được
trong khi đó thì hàng ngày chúng ta vẫn đang sử dụng các sản phẩm mang nhãn hiệu
được li- xăng.
7
Quyền đối với nhãn hiệu được chuyển nhượng, và được hưởng bảo hộ trên toàn
lãnh thổ quốc gia hay hay quốc tế tùy theo hình thức đăng ký bảo hộ. Bảo hộ nhãn hiệu là
bảo hộ có có thời hạn, nhãn hiệu được bảo hộ kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng
ký đến hết mười năm thì phải đi đăng ký lại (qui định tại khoản 6 Điều 93 LSHTT).
Nhưng khi đó chỉ dẫn địa lý là quyền sở hữu tập thể và được bảo hộ là vô thời hạn (qui
định tại khoản 7 Điều 93 LSHTT), không thể chuyển nhượng hoặc chia tách nên có khả
năng ngăn ngừa mọi sự chiếm đoạt quyền sở hữu (qui định tại khoản 2 Điều 139
LSHTT).
Ngoài ra việc bảo hộ nhãn hiệu tương đối đơn giản hơn so với bảo hộ chỉ dẫn địa
lý vì nhãn hiệu hàng hóa thường liên quan đến sản xuất riêng rẽ trong khi đó chỉ dẫn địa
lý lại liên quan đến việc sản xuất tập thể. Đối với chỉ dẫn địa lý thì vai trò của Nhà nước
quan trọng hơn so với nhãn hiệu vì chỉ dẫn địa lý là tài sản của quốc gia, nó mang lại
nhiều lợi ích cho những nhà sản xuất mang chỉ dẫn địa lý.
Bảng 1.1. Phân biệt chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu
Tiêu chí Chỉ dấn địa lý Nhãn hiệu
Khái niệm Là dấu hiệu dùng để chỉ
sản phẩm có nguồn gốc
từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ hay quốc
gia cụ thể. Các dấu hiệu
này là các dấu hiệu từ ngữ
và dấu hiệu từ ngữ có thể
sử dụng làm chỉ dẫn địa lý
nếu nó chỉ dẫn đến một
khu vực địa lý nhất định
Là dấu hiệu dùng để phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân khác
nhau. Các dấu hiệu này là
những từ ngữ bất kỳ, kể
cả những từ không có
nghĩa và nó ít có khả năng
chỉ dẫn đến một khu vực
địa lý nhất định cũng như
giúp người tiêu dùng nhận
biết một cách chắc chắn về
xuất xứ của sản phẩm
Chức năng Dấu hiệu giúp xác định
chất lượng chủ yếu của sản
Dấu hiệu giúp xác định
một sản phẩm của một
8
phẩm gắn liền với xuất
xứ của nó. Dấu hiệu được
Nhà nước bảo đảm
doanh nghiệp. Dấu hiệu
này chỉ được duy nhất
chủ sở hữu của nhãn hiệu
bảo đảm.
Điều kiện bảo hộ - Sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý phải có nguồn gốc
địa lý từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ
hoặc nước tương ứng với
chỉ dẫn địa lý đó.
Sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý phải có danh tiếng,
chất lượng, đặc tính chủ
yếu do điều kiện địa lý của
khu vực, địa phương, vùng
lãnh thổ hoặc nước tương
ứng quyết định
Ở đây, nội dung khái niệm
cũng là điều kiện để nhãn
hiệu được bảo hộ là dấu
hiệu phải nhìn thấy được
và phải có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ
của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hóa, dịch vụ của
chủ thể khác.
Đối với nhãn hiệu thì danh
tiếng, chất lượng, đặc tính
chủ yếu của hàng hóa, dịch
vụ không là điều kiện để
được bảo hộ.
Chủ sở hữu Chỉ dẫn địa lý không thuộc
quyền tư hữu của riêng cá
nhân, tổ chức nào mà
thuộc sở hữu Nhà nước.
Đối với nhãn hiệu, chủ sở
hữu là tổ chức, cá nhân
được cơ quan có thẩm
quyền cấp văn bằng bảo hộ
Chuyển giao quyền sở
hữu
Không thể chuyển giao (kể
cả chuyển nhượng và
chuyển quyền sử dụng).
Có thể chuyển giao
Thời hạn bảo hộ Bảo hộ liên tục, không có
thời hạn với điều kiện sản
phẩm vẫn đáp ứng được
những đặc tính theo yêu
cầu
Bảo hộ có hạn
định,được bảo hộ từ ngày
cấp văn bằng bảo hộ đến
hết 10 năm kể từ ngày nộp
đơn, có thể gia hạn nhiều
lần liên tiếp, mỗi lần là 10
năm.
9
Những nhãn hiệu có sử dụng chỉ dẫn địa lý có tính chất lừa dối công chúng về địa điểm
xuất xứ thật phải bị từ chối đăng ký hoặc hủy bỏ hiệu lực đăng ký (Điều 22.3 Hiệp định
TRIPS). Chỉ dẫn địa lý chính là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, mà đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ chính là quyền sở hữu công nghiệp nên cũng cần tìm hiểu qua
khái niệm về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là việc pháp luật bảo đảm các điều kiện để chủ sở hữu
có thể thực thi các quyền của mình, đồng thời ngăn chặn, xử lý mọi hành vi sử dụng
quyền nói trên do người thứ ba thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu quyền.Ta
thấy, bảo hộ chỉ dẫn địa lý chính là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật quy định
những điều kiện để được bảo hộ chỉ dẫn địa lý và những chủ thể đáp ứng được các điều
kiện này thì được đảm bảo quyền lợi của mình và được bảo vệ, được ngăn chặn khi có
các hành vi xâm phạm.
Qua nghiên cứu các khái niệm trên có thể xem xét bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới góc độ như
sau:
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý là hệ thống các quy định của pháp luật do nhà nước ban
hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập, công nhận và thực hiện các quyền đối với chỉ
dẫn địa lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền chống lại hành vi
xâm phạm.
1.3. Hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý
1.3.1. Trong phạm vi quốc tế
1.3.1.1. Bảo hộ thông qua các điều ước quốc tế đa phương
• Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp:
10
Việt Nam gia nhập công ước Paris về sở hữu công nghiệp kể từ ngày 08/3/1949. Công
ước này được ký kết vào ngày 20/3/1883 tại Paris. Đây là một trong những Công ước
quốc tế quan trọng về sở hữu công nghiệp. Công ước Paris gồm 30 Điều, Công ước Paris
áp dụng cho sở hữu công nghiệp bao gồm: sáng chế, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn
địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh.
Nguyên tắc cơ bản của Công ước Paris là:
+ Nguyên tắc đối xử quốc gia, mỗi nước thành viên phải dành cho công dân của các nước
thành viên khác sự bảo hộ tương tự như sự bảo hộ dành cho công dân của mình.
+ Quyền ưu tiên, có nghĩa là trên cơ sở của đơn yêu cầu hợp lệ đầu tiên nộp tại một trong
số các nước thành viên của Công ước, người yêu cầu có thể yêu cầu bảo vệ tại bất cứ
quốc gia thành viên nào của Công ước trong một thời hạn nhất định.
+ Tiêu chuẩn quy định tối thiểu của Công ước đó là các tiêu chuẩn bảo hộ chung mà tất
cả các nước thành viên phải tuân theo, cụ thể: Chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng
hóa là hai trong số các đối tượng của sở hữu công nghiệp được bảo hộ theo Điều 1 Công
ước Paris. Cả hai đối tượng này có thể được đề cập dưới một khái niệm rộng hơn là chỉ
dẫn địa lý. Các thành viên phải có biện pháp pháp lý để chống lại việc sử dụng trực tiếp
hoặc gián tiếp các chỉ dẫn nguồn gốc mang tính chất lừa dối đối với các hàng hóa hoặc
đặc điểm phân biệt của nhà sản xuất hoặc kinh doanh thương mại khác. Các nước phải
tịch thu hàng hóa mang chỉ dẫn lừa dối hoặc cấm nhập khẩu những hàng hóa đó hoặc áp
dụng bất cứ biện pháp nào khác để ngăn ngừa hoặc chấm dứt việc sử dụng những chỉ
dẫn như vậy. Tuy nhiên, nghĩa vụ tịch thu hàng hóa khi nhập khẩu chỉ áp dụng khi
biện pháp đó được quy định trong luật quốc gia. Nghĩa vụ bảo hộ chỉ dẫn nguồn gốc
được quy định chi tiết tại Điều 10. Những quy định về hình phạt được áp dụng và đề ra
11
nguyên tắc là phải quy định hình thức tịch thu hàng nhập khẩu, hay tối thiểu là cấm nhập
khẩu hoặc tịch thu ở trong nước (Điều 9).
Công ước Paris quy định ngoài những điều khoản bắt buộc trong Công ước, các nước
thành viên được quyền xây dựng và áp dụng quy định theo Luật Sở hữu công nghiệp của
nước mình nhưng với điều kiện không được vi phạm những điều khoản chung của Công
ước.
• Thỏa ước Madrid về hạn chế những chỉ dẫn sai lệch về nguồn gốc hàng hóa.
Thỏa ước Madrid được ban hành lần đầu tiên vào năm 1891 để giúp bảo hộ các nhãn
hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ đã được chứng nhận. Thỏa ước quy định rằng bất kỳ
sản phẩm nào mang chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối đều bị tich thu khi hàng hóa đó vào một
trong các quốc gia là thành viên của Thỏa ước (Điều 1). Đây là Thỏa ước quan trọng,
mục đích của Thỏa ước là nhằm ngăn chặn không chỉ những chỉ dẫn nguồn gốc sai lệch
mà còn những chỉ dẫn giả mạo.
• Thỏa ước Lisbon về bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa và đăng ký quốc tế về tên
gọi xuất xứ hàng hóa.
Thỏa ước được ký kết 1958, quy định những nước tham gia vào Thỏa ước thực hiện
việc bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ của mình. Nêu định nghĩa về tên gọi xuất xứ hàng hóa
và nước xuất xứ hàng hóa. Theo Điều 3 của Thỏa ước thì nội dung bảo hộ đối với tên gọi
xuất xứ đã đăng ký theo Thỏa ước rất rộng, bất kỳ hành vi sử dụng trái phép hoặc bắt
chước tên gọi đó đều bị cấm.
Một tên gọi đã được cấp bảo hộ thì không thể bị coi là tên gọi chung, miễn là tên gọi
đó được bảo hộ dưới dạng tên gọi xuất xứ hàng hóa tại nước xuất xứ. Việc bảo hộ có
được từ đăng ký quốc tế không bị giới hạn về mặt thời gian, không cần phải gia hạn và
12
chỉ phải trả một khoản lệ phí chung (Điều 6, Điều 7) và việc đăng ký được thực hiện tại
Văn phòng Quốc tế WIPO.
• Hiệp định TRIPS - Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ.
Hiệp định TRIPS được ký kết ngày 15- 4- 1994 và bắt đầu có hiệu lực ngày 01- 01-
1995 cùng với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 1995 và trở thành
các quy tắc về sở hữu trí tuệ trong hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế của WTO.
Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên đề cập đến khái niệm chỉ dẫn địa lý, đồng thời là
văn bản quy định đầy đủ và chi tiết nhất về chỉ dẫn địa lý như quy định các điều kiện bảo
hộ chỉ dẫn địa lý: hàng hóa phải bắt nguồn từ lãnh thổ của một Thành viên hoặc từ khu
vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định
(Điều 22).
Các mục tiêu tổng quát của Hiệp định là giảm sự lệch lạc và trở ngại trong thương
mại quốc tế, thúc đẩy sự bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và đảm bảo
các biện pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ không trở thành rào cản đối với hoạt động
thương hợp pháp. Hiệp định TRIPS đã mang lại những thay đổi cơ bản trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ. Các nước thành viên WTO phải điều chỉnh pháp luật của nước mình sao cho
phù hợp với Hiệp định TRIPS. Hiệp định này được các nước lấy làm chuẩn mực trong
các Hiệp định song phương và khu vực về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Hiệp định đưa ra ngoại lệ trong việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý là trao quyền cho các
thành viên của WTO cho phép bất kỳ công dân hoặc cư dân nước mình được tiếp tục sử
dụng hoặc sử dụng theo cách thức tương tự một chỉ dẫn địa lý (Khoản 4 Điều 24); quyền
đối với nhãn hiệu hàng hóa có được từ việc sử dụng trước (Khoản 5 Điều 24). Ngoài ra
13
Hiệp định TRIPS còn đưa ra quy tắc bảo hộ chung với nội dung các nước thành viên phải
quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa:
Việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hóa nhằm chỉ
dẫn hoặc gợi ý rằng hàng hóa đó bắt nguồn từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thực,
với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hóa;
Bất kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
• Hiệp định khung về sở hữu trí tuệ của tổ chức ASEAN
Điều ước được ký kết ngày 15/12/1995 tại Băng Cốc (Thái Lan), với 7 nước tham
gia bao gồm: Brunây, Indonexia, Malayxia, Philipin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Hiệp định đặc nền tảng cho việc bảo hộ quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ.
Hiệp định tập trung chủ yếu vào các vấn đề về: xác định đối tượng của quyền sở hữu
trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu
dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, thông tin bí mật và thiết kế bố trí mạch tích hợp. Các
biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dựa trên nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nguyên tắc
tối huệ quốc. Cùng nhau trao đổi thông tin về hệ sở hữu trí tuệ nhằm mục đích đơn giản
hóa các hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ trong khu vực ASEAN. Thành lập hệ thống đăng
ký sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa của khu vực ASEAN nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ.
1.3.1.2. Bảo hộ thông qua điều ước quốc tế song phương
Thêm một khả năng bảo hộ quốc tế các chỉ dẫn địa lý là việc ký kết các hiệp ước song
phương giữa hai quốc gia nhằm để xây dựng một giải pháp hoàn thiện pháp luật của nước
14
mình và cũng tạo điều kiện thúc đẩy sự hợp tác giữa các nước với nhau, cùng nhau phát
triển và nâng cao hiệu quả trong hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Với mong muốn bảo hộ một cách có hiệu quả đối với quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm các
đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp Việt Nam đã ký kết một số điều ước quốc tế
song phương như Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ liên bang Thụy Sỹ về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ, được ký vào ngày 07/7/1999, các điều khoản trong Hiệp định nhằm mục đích
ngăn chặn sự sai lệch trong thương mại do việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không thỏa
đáng và việc bảo hộ sở hữu trí tuệ được thực hiện đối với chỉ dẫn địa lý gồm cả tên gọi
xuất xứ (Khoản 2, Điều 1).
Ngoài ra, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết Hiệp định thương mại song phương, Hiệp định
này được ký kết tại Washington ngày 13-7-2000. Thượng viện Hoa Kỳ thông qua ngày 4-
10-2001 và Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 28-11-2001. Đây là một điều ước quốc tế
quy định về nhiều lĩnh vực khác nhau như: Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở
hữu trí tuệ… trong đó quyền sở hữu trí tuệ là vấn đề trọng tâm được quy định tại chương
II của Hiệp định; gồm 18 điều quy định một loạt các vấn đề trong sở hữu trí tuệ ở khía
cạnh quan hệ thương mại và kinh tế giữa Việt Nam – Hoa Kỳ. Theo Hiệp định mỗi bên
dành cho công dân của bên kia sự bảo hộ và thực thi đầy đủ và có hiệu quả đối với quyền
sở hữu trí tuệ trong lãnh thổ mình. Hiệp định quy định nguyên tắc đối xử quốc gia và
phạm vi điều chỉnh là các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định quy định về việc
thực thi các quyền sở hữu trí tuệ và các nghĩa vụ quy định trong hiệp định này phù hợp
với các yêu cầu của Hiệp định TRIPS (Điều 11).
15
1.3.2. Trong phạm vi quốc gia
1.3.2.1. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý bằng pháp luật riêng
Pháp ban hành đạo luật ngày 06/5/1919 ghi nhận sự tồn tại của tên gọi xuất xứ hàng
hóa và để ra các điều kiện bảo hộ. Để đảm bảo rằng các sản phẩm có được chất lượng đặc
biệt, các cơ quan có thẩm quyền đã thiết lập một cơ chế kiểm soát để thường xuyên tiến
hành kiểm tra chất lượng của sản phẩm được bảo hộ. Cộng hòa Pháp là nước điển hình
trong việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý bằng một luật riêng. Và sự thành công của đạo luật về tên
gọi xuất xứ tại Pháp, các nước khác cũng đưa ra khái niệm tương tự hoặc giống như vậy
Trong xu thế hiện nay, có nhiều quốc gia lựa chọn xây dựng hệ thống bảo hộ riêng
chỉ dẫn địa lý với nhiều lý do:
- Việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý có những ưu thế riêng như được bảo hộ vô thời hạn, sản
phẩm mang chỉ dẫn địa lý đồng nghĩa với việc sản phẩm đực ghi nhận là có chất lượng
cao, chỉ dẫn địa lý là tài sản chung của tất cả những người sản xuất sản phẩm ở khu vực
địa lý tương ứng.
- Các quốc gia có ưu thế về các sản phẩm nông nghiệp như Trung Quốc, Việt Nam,
Thái Lan… nên nhu cầu bảo hộ cho các sản phẩm quốc gia là thế mạnh của mình đã lựa
chọn hệ thống bảo hộ riêng cho chỉ dẫn địa lý để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh
cho sản phẩm.
- Để hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ trong nước sao cho phù hợp với Hiệp định
TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh thương mại).
Từ những lý do trên, Việt Nam cũng như những quốc gia đang phát triển trên thế giới đã
lựa chọn xây dựng hệ thống riêng để bảo hộ chỉ dẫn địa lý một cách có hiệu quả, tạo
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng như quốc gia. Cụ thể chỉ
16
dẫn địa lý được quy định riêng tại phần thứ ba, chương VII, mục 6. Và được quy định ở
chương VIII, chương IX, ngoài ra còn ở phần thứ nhất của LSHTT.
1.3.2.2. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý bằng pháp luật về nhãn hiệu
Nhãn hiệu là dấu hiệu có khả năng nhận biết hàng hóa, dịch vụ do một doanh
nghiệp sản xuất hoặc cung cấp với hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp khác.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp luật về nhãn hiệu, chủ yếu là nhãn hiệu tập thể và
nhãn hiệu chứng nhận là sự lựa chọn của các nước có truyền thống luật Anh- Mỹ như
Mỹ, Anh, Đan Mạch, Thụy Điển… Các quốc gia có nhiều lý do dẫn đến sự lựa chọn này
có thể là do họ không có nhiều chỉ dẫn địa lý nên không tìm thấy lợi ích từ việc bảo hộ
chỉ dẫn địa lý hoặc các quốc gia đã có một hệ thống bảo hộ nhãn hiệu từ lâu đời và họ
cho rằng chỉ dẫn địa lý có chức năng giống với nhãn hiệu để phân biệt nguồn gốc sản
phẩm, do đó hoàn toàn có thể được bảo hộ theo hệ thống nhãn hiệu.
Nhãn hiệu tập thể: là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành
viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của tổ chức đó (qui định tại khoản 17 Điều 4 LSHTT). Nhãn
hiệu tập thể là nhãn hiệu của một tập thể các nhà sản xuất, thường là một hiệp hội, hợp
tác xã, tổng công ty… trong đó, chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể có trách nhiệm bảo đảm sự
tuân thủ theo các yêu cầu nhất định của các thành viên (thường được quy định trong quy
chế liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu tập thể như: các chỉ tiêu về chất lượng, nguồn
gốc, phương pháp sản xuất…). Do đó, chức năng của nhãn hiệu tập thể là chỉ dẫn cho
công chúng về những đặc tính cụ thể nhất định của sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể.
Nhãn hiệu tập thể thường được sử dụng để khuếch trương các sản phẩm, dịch vụ của một
nhóm doanh nghiệp. Ví dụ như nhãn hiệu nước mắm Phú Yên, chè Thái Nguyên, gạo
Bao thai Chợ Đồn…
17
Các quy chế về sử dụng nhãn hiệu tập thể thường phải có trong đơn đăng ký nhãn
hiệu tập thể và bất kỳ thay đổi nào về quy chế này điều phải thông báo với cơ quan có
thẩm quyền. Một số quốc gia như Cộng hòa liên bang Đức, Phần Lan, Na Uy… đăng ký
nhãn hiệu tập thể có thể bị hủy bỏ nếu nhãn hiệu đó được sử dụng trái với quy chế hoặc
theo cách thức làm cho công chúng hiểu sai lệch hay nhầm lẫn.
Ở Việt Nam, nhãn hiệu tập thể được bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và được
Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký. Nếu trong trường hợp có nghi ngờ về
tính xác thực của các thông tin nêu trong đơn, Cục Sở hữu trí tuệ có thể yêu cầu người
nộp đơn trong thời hạn một tháng phải cung cấp thông tin cần thiết để làm rõ hoặc khẳng
định các nội dung nêu trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể.(qui định điểm 37.3.e
Thông tư 01/2007/TT- BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị đinh 103/2006/NĐ - CP qui
định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của LSHTT).
Nhãn hiệu chứng nhận: là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các
đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung
cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa,
dịch vụ mang nhãn hiệu (qui định tại khoản 18 điều 4 LSHTT). Sự khác biệt giữa nhãn
hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu tập thể chỉ do các thành viên của tổ
chức tập thể sử dụng, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng cho bất kỳ
thành viên nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định của chủ sở hữu. Hiện nay, ở Việt Nam có
khoảng hơn 20 nhãn hiệu chứng nhận được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ như
Chè Ba Vì, Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao, Cá thính Lập Thạch… Theo yêu cầu đối
với tờ khai trong đơn đăng ký nhãn hiệu chứng nhận thì người nộp đơn phải chỉ rõ trong
tờ khai mục đích, nội dung và phương thức của việc chứng nhận đó (chứng nhận cái gì:
chất lượng, xuất xứ, nguồn gốc địa lý hay kết hợp giữa các mục đích đó; nội dung chứng
18
nhận: các điều kiện cụ thể về chủ thể, hàng hóa, dịch vụ; chứng nhận như thế nào: trình
tự, thủ tục cấp phép chứng nhận, cách thức kiểm tra, duy trì mục đích và nội dung chứng
nhận).(qui định tại Điểm 37.4. của Thông tư 01/2007/TT – BKHCN).
1.3.2.3. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý bằng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Việc sử dụng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm hoặc dịch vụ không có nguồn gốc từ
những khu vực địa lý tương ứng có thể gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng. Hơn
thế nữa, việc sử dụng như vậy có thể coi là hành vi chiếm đoạt danh tiếng gây thiệt hại
đến uy tín của người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý đó.
Theo LSHTT quy định, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp. Tại khoản 1 Điều 130 của Luật này đã chỉ rõ các hành vi
được xem là cạnh tranh không lành mạnh trong đó có hành vi sử dụng chỉ dẫn địa lý
gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ
gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm
khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Khi một tổ chức, cá
nhân bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của LSHTT
như: buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện
nghĩa vụ dân sự… và các biện pháp về hành chính và hình sự.
1.4. Ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế như hiện nay, nó có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội:
Là công cụ pháp lý giúp nhà sản xuất chống lại các hành vi xâm phạm, bảo vệ
danh tiếng và uy tín cho sản phẩm, nâng cao giá trị cũng như vị thế cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường. Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý
19
hay bị giả mạo, ví dụ như nước mắm Phú Quốc, hiệp hội sản xuất nước mắm Phú Quốc
khẳng định mỗi năm toàn đảo Phú Quốc chỉ có thể sản xuất từ 25 đến 30 triệu lít trên
năm. Trong khi đó, trên thị trường tiêu thụ lại lên đến 200 triệu lít nước mắm mang
thương hiệu Phú Quốc mỗi năm (số liệu truy cập từ
o/2014/01/phan-biet-nuoc-mam-phu-quoc-that-
gia.html .) . Như vậy, số lượng hàng giả trên thị trường quá lớn so với thực tế. Khi chỉ
dẫn địa lý được bảo hộ một cách hiệu quả thì hành vi làm hàng giả sẽ giảm đi một cách
đáng kể, đảm bảo lợi ích chính đáng cho các nhà sản xuất. Nhờ được bảo hộ, những nhà
sản xuất có thể bán những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý với giá cao.
Là công cụ để xúc tiến thương mại, đặc biệt là xuất khẩu. Sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý thường có sự nhận biết tốt trên thị trường do chúng mang những đặc tính riêng biệt.
Một sản phẩm được công nhận chỉ dẫn địa lý cũng đồng nghĩa với sự công nhận về chất
lượng, uy tín của sản phẩm. Trong thời đại hiện nay, mức sống của người dân được
nâng lên, đòi hỏi của họ cũng ngày càng cao nên các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý ngày
càng được ưa chuộng.
Bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng với mong muốn được sử dụng những sản
phẩm có chất lượng bảo đảm, nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy. Chỉ dẫn địa lý giúp cho họ
có thể nhận biết và mua được những sản phẩm có chất lượng, không phải lo lắng về vấn
đề vệ sinh an toàn thực phẩm khi sử dụng và hạn chế việc tiêu dùng hàng giả, hàng nhái.
Đặc biệt việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát
triển kinh tế nông thôn. Vì việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm sẽ giúp
cho nhà sản xuất duy trì và phát triển sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất, thu hút nguồn
lao động, tạo việc làm cho người dân địa phương, mang lại thu nhập, nâng cao và cải
thiện đời sống. Về phía nhà sản xuất cũng thu được nhiều lợi nhuận. Ngoài ra còn thu hút
20
khách du lịch đến tham quan các làng nghề, các khu vực sản xuất mang chỉ dẫn địa lý,
góp phần giới thiệu những nét văn hóa truyền thống về đất nước và con người Việt Nam
với bạn bè quốc tế, tạo điều kiện phát triển văn hóa xã hội, hợp tác giao lưu và hội nhập
kinh tế quốc tế.
II. Chế độ pháp lý về bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
2.1 Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tức là bảo hộ độc quyền của cư dân thuộc một vùng sử
dụng chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm có nguồn gốc từ vùng đó. Trong LSHTT không
quy định thế nào là bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhưng đã quy định điều kiện bảo hộ đối với chỉ
dẫn địa lý tại điều 79
2.1.1 Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh
thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý
Đây là điều kiện rất quan trọng khi xem xét khả năng bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng
như điều kiện cho người sử dụng chỉ dẫn địa lý. Yếu tố quan trọng là sản phẩm mang chỉ
dẫn địa lý phải liên quan đến một khu vực địa lý đặc biệt mà nếu sản phẩm được sản xuất
tại một khu vực địa lý khác sẽ không bảo đảm được chất lượng, uy tín của sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý ban đầu.
Ở đây ta thấy có hai vấn đề được đặt ra:
Một sản phẩm được coi là có nguồn gốc từ khu vực địa lý được hiểu là sản phẩm phải
được sản xuất, gia công, chế biến từ vùng địa lý đó. Một sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có
nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn
địa lý nếu như sản phẩm đó được sản xuất từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc
21
nước đó. Như thế có nghĩa là tất cả các khâu tạo nên sản phẩm đều phải được thực hiện
tại nơi mà sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Chẳng hạn như đối với sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý tạo ra từ ngành nghề truyền thống mà không phải là lương thực thực phẩm ví dụ
như gốm Bát Tràng… Chất lượng, đặc tính riêng biệt của sản phẩm gốm Bát Tràng
không những được tạo nên bởi nguyên liệu của địa phương, mà còn cả kĩ thuật, quy trình
chế tạo của người dân địa phương đó. Nên dù có mang nguyên liệu từ làng Bát Tràng đi
nơi khác sản xuất thì sản phẩm cũng không đạt được chất lượng như sản xuất tại làng Bát
Tràng. Vì thế sản phẩm chỉ được coi là gốm Bát Tràng khi tất cả các công đoạn làm ra
sản phẩm diễn ra ở Bát Tràng. Với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề
truyền thống mà không phải là lương thực thực phẩm thì sản phẩm chỉ mang chỉ dẫn địa
lý khi mà tất cả các công đoạn làm nên sản phẩm được thực hiện ở nơi sản phẩm mang
chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, có những sản phẩm mà nguyên liệu dùng để chế biến, sản xuất
rất đặc biệt, nên không thể thay thế bằng nguyên liệu khai thác từ các vùng khác như đối
với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề truyền thống là lương thực thực
phẩm ví dụ nước mắm Phú Quốc… Nếu nguyên liệu là cá cơm được người dân đảo Phú
Quốc đánh bắt bằng phương pháp truyền thống, quy trình chế biến ra nước mắm đều
được thực hiện bởi người dân trên đảo Phú Quốc theo đúng quy trình truyền thống thì
cho dù việc đóng chai, dán nhãn được thực hiện ở nơi khác thì sản phẩm vẫn được coi là
nước mắm Phú Quốc. Như vậy, dù một số công đoạn được thực hiện ở nơi khác nhưng
những công đoạn tạo nên đặc tính riêng biệt của sản phẩm được thực hiện ở nơi sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý thì sản phẩm vẫn được xem là có nguồn gốc từ nơi đó.
Tóm lại sản phẩm được coi là có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ
hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý khi toàn bộ hoặc một số công đoạn chính trong
quy trình sản xuất có ảnh hưởng quyết định và quan trọng tạo nên và duy trì tính chất,
chất lượng, danh tiếng của sản phẩm được thực hiện tại khu vực địa lý mà nó chỉ dẫn.
22
2.1.2 Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng, đặc tính do điều kiện địa
lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý
đó quyết định.
Thứ nhất, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải có danh tiếng, chất lượng hoặc
đặc tính chủ yếu.
“Danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng mức độ tín nhiệm của
người tiêu dùng đối với sản phẩm đó thông qua mức độ rộng rãi của người tiêu dùng biết
đến và chọn lựa sản phẩm” (khoản 1, Điều 81 LSHTT). Như vậy, một sản phẩm được
coi là có danh tiếng khi sản phẩm đó gắn liền với ngành nghề truyền thống của địa
phương và xuất hiện lâu đời về mặt lịch sử. Để chứng minh sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý có một danh tiếng nhất định, người nộp đơn đăng ký có thể đưa ra những dẫn chứng
về nguồn gốc của sản phẩm trong lịch sử ví dụ như bằng chứng về sự xuất hiện và
phổ biến của sản phẩm từ giai đoạn nào; quá trình phát triển của nghề làm sản phẩm ở
khu vực địa lý đó cho đến nay… Một sản phẩm có danh tiếng nếu sản phẩm đó được
người tiêu dùng biết đến một cách rộng rãi thông qua việc xác định mức độ nhận biết của
người tiêu dùng đối với sản phẩm dựa trên các cuộc điều tra, khảo sát thị trường ở những
phạm vi khác nhau. Và danh tiếng xuất phát từ đặc tính khác biệt của sản phẩm, nghĩa
là khả năng tự phân biệt của bản thân sản phẩm với sản phẩm khác. “Chất lượng, đặc tính
của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng một hoặc một số chỉ tiêu định tính,
định lượng hoặc cảm quan về vật lý, hóa học, vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng
kiểm tra được bằng các phương tiện kỹ thuật hoặc chuyên gia với phương pháp kiểm tra
phù hợp” (khoản 2, Điều 81 LSHTT). Chất lượng, đặc tính của sản phẩm được xác định
thông qua các chỉ tiêu về vật lý như: khối lượng, hình dáng…các chỉ tiêu hóa học như:
thành phần các chất, tỷ lệ các chất…các chỉ tiêu sinh học như các loại men được sử
dụng, các dạng vi khuẩn…và các chỉ tiêu cảm quan như mùi vị, màu sắc…
23
Thứ hai, phải có mối liên hệ giữa danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính của sản
phẩm với các điều kiện địa lý của khu vực mà sản phẩm mang chỉ dẫn. Điều kiện này đòi
hỏi người nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý phải chứng minh các yếu tố đặc thù của khu
vực địa lý đã ảnh hưởng, tác động như thế nào đến chất lượng, đặc tính hoặc danh tiếng
của sản phẩm. Điều kiện địa lý quy định trong điều 79 LSHTT được hiểu là các yếu tố
tự nhiên như: khí hậu (bao gồm các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm…), thủy văn
(nguồn nước, sông ngòi…), địa chất (đất đá, khoáng chất…), địa hình (đồi núi, trung du,
đồng bằng…). Bên cạnh đó còn có yếu tố về con người bao gồm kỹ năng, kỹ xảo của
người sản xuất, quy trình sản xuất truyền thống của địa phương quyết định đến danh
tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý từ địa phương đó. Việc
chứng minh mối quan hệ giữa các yếu tố địa lý và các đặc tính của sản phẩm là một yêu
cầu rất quan trọng để chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.
2.1.3 Các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa là chỉ dẫn địa lý
Theo quy định tại Điều 80 LSHTT thì những trường hợp không được bảo hộ là chỉ dẫn
địa lý, cụ thể là:
Trường hợp thứ nhất: Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa ở
Việt Nam. Những chỉ dẫn đã được sử dụng để gọi tên cho sản phẩm, đã trở thành tên gọi
chung, mọi người đều có thể sử dụng tên gọi, chỉ dẫn để gọi tên cho hàng hóa của mình
nên việc đăng ký bảo hộ sẽ không mang lại lợi ích gì cho người được bảo hộ vì vậy sẽ
không được bảo hộ là chỉ dẫn địa lý.
Trường hợp thứ hai: Chỉ dẫn địa lý của nước ngoài mà tại nước đó chỉ dẫn địa
lý không được bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn được sử dụng. Đối với
những chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài điều kiện đầu tiên là chỉ dẫn đó phải đang được bảo hộ
24
ở chính quốc gia của mình thì mới được bảo hộ ở Việt Nam. Những chỉ dẫn không còn
tồn tại ở chính quốc gia xuất xứ của chỉ dẫn thì không được bảo hộ. Với quy định này đã
phù hợp với Điều 24, khoản 9 của Hiệp định TRIPS “Thỏa ước này không quy định
nghĩa vụ bảo hộ những chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ hoặc đã bị đình chỉ bảo hộ,
hoặc không còn được sử dụng ở nước xuất xứ của chỉ dẫn địa lý đó”.
Trường hợp thứ ba: Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang
được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện sẽ gây nhầm lẫn về
nguồn gốc của sản phẩm. Trong trường hợp tìm thấy nhãn hiệu đang được bảo hộ trùng
hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo cho chủ sở hữu nhãn hiệu
biết để có ý kiến về việc đăng ký chỉ dẫn địa lý trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ký
thông báo, trong đó có nêu rõ quyền phản đối đăng ký chỉ dẫn địa lý của chủ sở hữu nhãn
hiệu (khoản 45.3 Thông tư 01/2007/TT – BKHCN hướng dẫn thi hành NĐ
103/2006/NĐ - CP).
Trường hợp thứ tư: Chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về
nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Những chỉ dẫn gây ra sự nhận
thức sai lệch, nhầm lẫn của người dân về xuất xứ thật của hàng hóa đó là những sản phẩm
có sử dụng chỉ dẫn không đúng với xuất xứ thực ví dụ như nước mắm được làm ở Phan
Thiết nhưng lại đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý là nước mắm Phú Quốc sẽ gây ra sự nhầm
lẫn cho người tiêu dùng.
2.2 Xác lập quyền của chủ sở hữu đối với chỉ dẫn địa lý.
2.2.1 Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý
Muốn được bảo hộ chỉ dẫn địa lý cần phải đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Quyền
đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước, Nhà nước cho phép tổ chức, cá
nhân sau đây thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý:
25