Tải bản đầy đủ (.pdf) (954 trang)

Xét nghiệm sử dụng trong lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.42 MB, 954 trang )

U
vir
s*'
? * it “ ; 1
• t.
Ĩ 3 i t H 5 '
GS: NGUìYiẺN THÉ KHÁNH
1 ^
DƯƠNG
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
#
ế "Ầ *j&
9
ế Ể
"
* B f
r
, >5 X
•ị . * XT ĩ- . -ỉ
r ■
s
GS. TS NGUYÊN THẼ KHÁNH
GS. TS PHẠM TỬ DƯƠNG
«
XÉT NGHIỆM

SỬ DỤNG TRONG LÂM SÀNG

(Tái bản lần thứ 12 - có bổ sung)
4
I


- . r> , .
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
HÀ NỘI - 2005
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thực tế công tác hàng ngày ở bệnh viện và các cơ
quan nghiên cứu y học, việc sử dụng xét nghiệm là rất cần
thiết; những sách nói về xét nghiệm có khá nhiều, nhưng
những sách viết cho người thầy thuốc sử dụng xét nghiệm
thường ít và theo từng chuyên khoa tùy thuộc sở trường của
mỗi tác giả. Để giải quyết yêu cầu có một tài liệu phân tích
tổng hợp tương đối toàn diện cho các thầy thuốc làm công
tác điều trị, huấn luyện và nghiên cứu y học, từ năm 1956
chúng tôi đã tiến hành biên soạn cuốn sách này. Cho tới nay,
cuốn sách đã được in 12 lần (1956 - 1958 - 1960 - 1968 - 1976 -
1990 - 1991 - 1997 - 1998 - 1999 - 2001 - 2003), qua mỗi lần
in lại, tài liệu đã được bổ sung những kiến thức cập nhật.
Những năm qua, với sự bùng nổ về tiến bộ khoa học kỹ
thuật, nển y học thế giới và trong nước càng phát triển
mạnh, chúng tỏi thấy có thêm một số thông tin mới cần được
đưa vào tài liệu. Theo yêu cầu của nhiều bạn đọc và Nhà
xuất bản Y học; đổng thời cũng là nguyện vọng của chúng
tôi luôn luôn mong muốn tài liệu được cập nhật, cuốn sách
lại được tiếp tục chỉnh lý và bổ sung để tái bản.
Ngoài đối tượng chủ yếu là các thầy thuốc lâm sàng, tài
liệu còn có thể được dùng cho các sinh viên y, dược khoa,
học viên các trường trung học y tế và làm tài liệu tham khảo
cho cán bộ làm công tác xét nghiệm. Với các đối tượng như
vậy, tài liệu được biên soạn nhằm giói thiệu tất cả các xét
nghiêm cẩn thiết cho việc chẩn đoán lâm sàng, nghiên cứu y
học, chủ yếu chú trọng vể cách phân tích các kết quả, cách

sử dụng các xét nghiệm thế nào cho đúng và hợp lý, có đề
3
s ử DỤNG XÉT NGHIỆM TRONG LÂM SÀNG
Đã từ lâu, các xét nghiệm có một vai trò quan trọng
trong nền y học. Càng ngày người ta lại càng thấy rõ vị trí
cần thiết của xét nghiệm: thiếu xét nghiệm, chẩn đoán trở
thanh mò mẫm, thiếu một chỗ dựa chính xác, chắc chắn,
7 • • / ẵ
cấc công trình nghiên cứu thiếu một cơ sở khoa học có giá
trị, thiếu những yếu tố để chứng minh cụ thể hoặc bị hạn
chế không thể phát triển được, chất lượng chẩn đoán và
điều trị bị giảm và dễ có những trường hợp đáng tiếc xảy
ra vì chúng ta không biết trước được. Hiện nay, ở các nước
tiên tiến, do sự phát triển của nhiều ngành khoa học cơ sở,
các xét nghiệm trở nên hết sức tinh vi, phong phú, xét
nghiệm đóng một vai trò hết sức quan trọng cho sự phát
triển của nền y học; trong những năm gần đây, các xét
nghiệm lâm sàng lại ứng dụng nhiều thành tựu mới, hiện
đại nhằm nâng cao không ngừng chất lượng của chẩn đoán
và cho kết quả râ't sớm; các ứng dụng đó đi theo hướng vi
lượng và bán vi lượng hóa, tự động và bán tự động hóa,
ngoài ra còn đi theo hướng xét nghiệm tổng hợp nhiều chỉ
tiêu đồng thời và nhanh (screening), có thể nêu một số ví
dụ:
- Định lượng những chất có nồng độ rất nhỏ trong huyết
thanh bằng phương pháp phóng xạ - miễn dịch, kết quả
tính bằng ng (nanogam), pg (picogam), nmol
- Định lượng bàng phương pháp men học, miễn dịch
huỳnh quang, quang phổ
- Định tính và cả bán định lượng nhanh bằng các giấy

học, vì thê cho nen muon hiểu đươc và vân dụng được xét
• ♦ * • c »
nghiệm một cách chắc chắn và linh hoạt phải nắm vững
được những kiến thức đó.
Xét nghiệm có giá trị quyết định chẩn đoán trong một
số trường hợp (như xét nghiệm trực khuẩn Koch trong
bệnh lao, xét nghiệm ký sinh trùng amib histolytica trong
bệnh lỵ amib, phân lập virus cúm ) cung cấp thêm một số
tài liệu để góp vào chẩn đoán nhiều trường hợp khác (như
đếm bạch cầu trong bệnh viêm ruột thừa cấp tính, đo tốc
độ lắne hồng cầu trong bệnh lao đang tiến triển ), theo
dõi được tiến triển của bệnh tốt hay xấu, định được tiên
• • « / 7 m •
lượng của bệnh (như định lượng urê và creatinin trong
máu trong bệnh viêm thận mạn tính, biến chuyển của số
lượng bạch cầu và công thức bạch cầu trong một bệnh
nhiễm khuẩn )' Các xét nghiệm còn chứng minh được kết
quả của công tác điều trị tốt hay xấu và còn dùng khi giải
phẫu thi thể.
Kết quả xét nghiệm chỉ là những yếu tố khách quan
phản ánh những diễn biến bên trong của cơ thể nên thường
là rất đúng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp kết quả đó
không trung thực vì nhiều nguyên nhân gây nên:
- Lấy bệnh phẩm không đúng quy định: lấy máu để định
lượng bilirubin, kali, dự trữ kiềm ngay tại lâm sàng xa
phòng xét nghiệm; không áp dụng phương pháp vô khuẩn
khi lấy bệnh phẩm để nuôi cấy vào mồi trường
- Không bảo toàn bệnh phẩm sau khi lấy: để nhiễm
khuẩn thứ phát, để bệnh phẩm lên men hủy hoại các tế
bào

- Kỹ thuật của kỹ thuật viên không đảm bảo: tẩy màu
không đúng khi nhuộm Gram; nhầm lẫn kén amib với các
tế bào mỡ; pha kháng nguyên giang mai không đúng làm
7
Á
sai các phản ứne huyẻt thanh
Ngoài ra kết quả còn thay dổi tùy theo:
- Những biến đổi vé sinh lý cùa con người: ví dụ phai
lấy máu để đếm tê bào máu hay làm công thức bạch câu
khi khỏng một nhọc và xa bữa ân Có những bicn đỏi ta
đã nám dược quy luột nhưng cùnc có những bicn đỏi cho
tới nay chưa nắm được mà ta cấn phải nghicn cứu nhiều.
- Sự diễn biến của bệnh theo những làn sóng tiên triển:
trong mọi quá trình tiến triển xâu hay tốt của bộnh, không
phải các kết quả xét nghiệm nhất thiết đều tăng hoặc đểu
giảm trong mọi lúc mà nó diễn biến như những làn sóng
do sự phàn ứng nhịp nhàng cùa cơ thể; vì vậy, có những
lúc kết quả xét nghiệm mảu thuẫn với những nhận xét trên
lâm sàng, tường chừng bệnh đang tăng lại giảm hoặc đang
giảm lại tăng; những lúc này phải xét nghiệm lại.
- Một điểm nữa cần chú ý là có những sai số bắt buộc,
không thể tránh nổi: ví dụ khi đếm hồng cầu, sai sỏ có thể
tới 200.000 hồng cáu trong 1 |il máu; đo huyết sắc tố, ước
lượng bằng mắt sai số có thể tới 5%
Người thầy thuốc khi sử di ng xét nghiệm phải có óc
tổng hợp và phán tích, suy luận trên cơ sở sinh học. Luôn
luôn phải đối chiếu những nhận xét trên lâm sàng với kết
quả cùa kiểm tra bằng những phương tiện khác (xét
nghiêm khác, X quang ) và nhận thức đầy đủ cơ thể là
một khối thống nhất, hoàn chinh, để phân tích kết quả một

cách khoa học và biên chứng. Có nhiều trường hợp xảy ra
mâu thuẫn, người thầy thuốc phải thật thận trọng và dè dặt
trong lúc nhận định: có những trường hợp xét nghiêm chỉ
dẫn cho lâm sàng, định hướng cho lâm sàng, giúp thêm ý
kiến trong việc chẩn đoán bệnh; có những trường hợp chi
là những biến đổi sinh lý làm thay đổi kết quả; có những
8
trường hợp do phạm sai lầm khi lấy bệnh phẩm, hoặc khi bảo toàn
bệnh phẩm, hoặc do kỹ thuật của xét nghiệm viên chưa đảm bảo.
Trước các trường hợp đó, phải làm lại, nhiều khi phải làm thật
nhiều lần, vận dụng được các loại xét nghiệm khác và phương tiện
khác (X quang ) để kiểm tra lại kết quả, phân tích các mâu thuẫn
rồi tổng hợp lại để nhận định.
Vì vậy cho nên:
- Tuyệt đối không ỷ lại, máy móc dựa vào những kết quả của
xét nghiệm để quyết định chẩn đoán một cách nhanh chóng: trước
một trường hợp urê trong máu tăng, chớ vội kết luận là viêm thận,
mà phải loại bỏ tất cả những trường hợp khác cũng gây tăng urê
như do thiếu muối trong cơ thể, do đi đái ít, do ăn chế độ nhiều
thịt quá Cần phải nhớ, một kết quả của xét nghiệm có thể giải
thích được trong nhiều trường hợp sinh lý, bệnh lý, thiếu phân tích
thì chẩn đoán dễ sai, không chính xác.
- Không coi thường xét nghiệm, cho lâm sàng là chính: phải
nhận rõ vai trò của xét nghiệm đối với lâm sàng, những sai lầm về
mặt kỹ thuật chỉ là những phần rất hãn hữu, mà không phải là
không sửa chữa được. Coi thường xét nghiệm để đến định kiến, chủ
quan, bỏ xốt mất nhiều triệu chúng khách quan quan trọng là một điều
hết sức sai lầm. Còn gì chắc chắn bằng khi tìm thấy trực khuẩn Koch
trong đờm bệnh nhân nghi lao phổi, khi tìm thấy ký sinh trùng
Plasmodium Falciparum trong máu bệnh nhân đang lên cơn sốt mê,

khi thấy tế bào ung thư trong dịch vị bệnh nhân ung thư dạ dày.
Trong những trường hợp xét nghiộm chỉ cung cấp tài
liệu để chẩn đoán, những kết quả khách quan này lại càng
quý báu để cho ta hướng của bệnh; ví dụ làm tuỷ đồ, lách
9
dó, hạch đồ đc ch rin đoán một số bệnh vé tẽ bào máu. các
lipoprotein trong bénh vữa xơ độnÍZ mạch, thăm dò dich tá
tràng tính phút đế chân đoán các bệnh rói loạn vận động
túi mật Nếu nghi ngờ, nên tiến hành thử lại dé dói chiêu
kết quà, giúp ý kiên cho kỹ thuát vicn thì tốt hơn.
- Tránh khuynh hướng thử nhiều quá, thừ toàn diện,
khống chú trọng đến khà năng công tác cùa phòng xét
nghiệm: có bệnh nhân vào, chưa kịp nghiên cứu bệnh đã
vội cho thử đồng loạt tất cả các xét nghiệm, sau đó mới
dựa vào kết quà để chẩn đoán. Phải chọn lọc xét nghiệm,
dựa theo hướng chẩn đoán trên lâm sàng, tìm những xét
nghiệm thích hợp và có giá trị; nên xây dựng phác đổ chẩn
đoán sử dụng các xct nghiệm đã được tổng kết, có kinh
nghiệm để có kết quà chắc chắn.
Đê đàm bào cho tác dụng cùa những xét nghiệm, cần
phải:
- Theo đúng những quy định về cách lấy và bảo loàn
bệnh phẩm gửi đi xét nghiệm.
- Khi bệnh nhân mới vào, trước khi ra và trong quá
trình điều trị, thường kỳ phải thử lại để theo dõi sự tiến
triển của bệnh, tác dụng của công tác điều trị Ngoài
việc điểu trị bệnh nhân khỏi, thực ra chúng ta còn có
nhiệm vụ theo dõi cả những biến diễn của xét nghiệm,
thay đổi trong từng trường hợp để góp phần vào việc
nghiên cứu bộnh chính xác, khoa học, cụ thể hơn.

- Nắm được hằng số sinh lý của người bình thường và
những thay đổi trong trường hợp bệnh lý để phân lích
được kết quả.
- Luôn kết hợp với kỹ thuật viên để hiểu những yêu cẩu
của lâm sàng cùng sự giúp đỡ phát hiện vấn đẻ. Rất nhiẻu
10
trường hựp phải nhờ đến sự cồng tác rất chặt chẽ của kỹ
thuật vicn (tìm amib, VI khuẩn ).
- Điếm cuối cùng cần chú ý là phải luỏn luôn nhớ tới
quan điểm bệnh nhán trong mọi trường hợp: khi quyêt
định xct nghiệm, phải cân nhắc xét nghiệm nào có lợi, có
hại, sử dụng bệnh phẩm cho hợp lý dê tiết kiộm máu, dịch
não tủy của bệnh nhân. Phải triệt để lợi dụng những
bệnh phẩm sẩn có hoặc dùng những phương pháp đỡ tốn
bệnh phẩm quý: kết hợp xét nghiệm urê trong dịch não tủy
khi chọc thăm dò; làm vi định lượng khi có thể được.
Như trên đã trình bày, các xét nghiệm có một vai trò rất
quan trọng đôi với lâm sàng, nhưng chi khi nào chúng ta
hiểu được và vận dụng được tốt. Luôn luôn phải nghĩ rằng:
- Những kết quả xét nghiệm chỉ là những yếu tố khách
quan phản ánh những diễn biến trong cơ thể.
- Xét nghiệm không thể thay thế cho lâm sàng.
- Người thầy thuốc có nhiệm vụ phán tích, tổng hợp,
suy xét thật biện chứng và khoa học, không chủ quan, hấp
tấp và máy móc.
11
HỆ ĐƠN VI QUỐC TẾ SI
Hộ đơn vị quốc tế SI (Système international d unítés.
System of international unit) được đé xuất từ 1960, hiện
đươc SỪ dunc ừ háu hết các nước.

• * W
1. Các đơn vị cơ sở:
Oợi luọng
Tên
Kỷ hiệu
Dồ dài
Mét
m
Khối lương
Kilogam
kg
Thòi gian
Giây
s
Cưòng độ dỏng điên
Ampe
A
Nhiệt dò nhiêt đỏng học
Kelvin K
Cường độ ánh sóng
Candela
Cd
Lượng chát
Mol
mol
2. Các đơn vị dấn xuất:
Đợi lượng
Tên
Kỷ hiệu
Diên tích


Mét vuông
m2
Thể tích
Mét khối
m3
Vân tốc

Mét/gỉởy
m/s
Gia tốc
Mét/Cgỉởy)2
m/s2
Nóng độ Gượng Chat)
Mol/mét khối
moỉ/rrr3
Nóng độ (khối lượng) Kilogam/mét khối
kg/nrì1
Một sô đơn vị dẫn xuất còn mang tên riêng, phần lớn là
tên các nhà bác hoc:
12
Dợi lượng
Tên
Ký hiệu
Đơn vị áp suốt
Pascal
Pa
Đơn vị công
Joule
J

Đơn vị nhiêt đỏ
Celsius
°c
Đơn vị gốc phỏng
Radian
rad
Đơn vị góc độc
steradỉan
Sr
3. Một sô đơn vị ngoài SI còn được dùng:
Đợi lượng
Đơn vi

Kỷ hiệu
Giá tri

Thòi gỉan
Phút
min
60s
Giò
K
3.600 s
Nạày
d
86.400 s
Gốc phỏng
Đố

o k/ 180 rad

Phút
1
n/10.800 rad
Giây

71/648,000 rad
Thể tích
Lít
1
1 dm3 = lơ^rri3
Khốỉ lượng
Tốn
t
1000 kg
Đô dàỉ
Angstrom 0
A
lữ*°m
(0,1 nm)
Áp suất
BAR
Khí quyển
atm
100.000 Pa
101.325 Pa
Lực ỉon hốa
Curie Ci
3,7 X 10ioBq
Đỉên tích


Rontgen
r
2,58 X lO^c/kg
Nâng lượng hòp
thụ
Rad
rad hoồc rd

lữ2G y(lữ2J/kg)
(Bq = ký hiệu đơn vị Becquerel, Gy = ký hiệu đơn vị Gray, c =
kỷ hiệu đơn vị Coulomb).
ứng dụng trong lâm sàng
- Về sinh hóa máu: nồng độ các chất sinh hóa trong
4
13
máu nói chung được tính thành mol/l, tuv nhiên:
. Các chất như protein mà trọng lượng mol chưa xác
định thì vẫn giữ mg/dl hoặc g/dl.
ể»
. Về các men, đơn vị mới là kat (katal) là lượng men xúc
tác sự biến đổi i mol cơ chất trong 1 giây và trong những
điều kiện xét nghiệm nhất định. Đơn vị mới chưa được áp
dụng rộng rãi, vẫn còn dùng đơn vị cũ là đơn vị.quôc tê (IU).
- vể các tế bào máu: tính thành sô lượng tế bào máu/1
(ví dụ sô iượng hồng cầu là 4.500.000/|il, tính theo đơn vị
SI là 4,5 X 101VI hay 4,5 T/l).
4. Các tiếp đẩu ngữ:
Các kết quả không được có quá 3 chữ số nghĩa là nếu
lớn hơn đơn vị thì không được quá 999 và nếu nhỏ hơn
đơn vị thì không được dưới 0,01. Nếu lớn hơn hoăc nhỏ

hơn thì dùng các tiếp đầu ngữ sau đây:
Hệ SỐ
Tiếp dâu ngũ
Ký hiệu
1012
tera-
ĩ
109
giga-
G
106
mega -
M
10*
kiỉo-
k
102
hecto-
h
101
#
deca- da
lữ'
deci-
d
102
centỉ-
c
lữ*
mỉlíl- m

10*
micro-
lơ*
nano- n
lữ«
pểco-
p
lữ ,s
femto- f
lơ'8
• atto- *
a
14

CHƯƠNG I
MÁU
Máu là một thành phần tổ chức của cơ thê rất quan
trọng vì máu liên hệ mật thiết với mọi bộ phận, cơ quan
trong cơ thể. Do đó về mặt bệnh lý, máu chịu ảnh hường
của tất cả các bệnh của các tổ chức đó đồng thời những
bệnh riêng của các cơ quan tạo máu (ung thư tủy xương,
bệnh leucemi ).
I. XÉT NGHIỆM VẬT LÝ
Về phương diện vật lý, máu là một tổ chức lỏng lưu động
trong hệ tuần hoàn nhưng luôn luôn có sự trao đổi mật thiết
với các chất dịch gian bào, làm nhiệm vụ vận chuyển các
nguyên liệu dinh dưỡng và các sản phẩm chuyển hóa cho các
tổ chức và cơ quan trong cơ thể. Người ta phân biệt trong
máu 2 thành phần: thành phần lỏng gọi là lìuyết tương là một
loại dung dịch keo bao gồm nước, các muối khoáng đã phân

ly thành ion, các chất glucid, protid, vitamin và hormon;
thành phần đặc, còn gọi là thành phần hữu hình bao gồm các
tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, trong đó
hồng cầu chiếm hơn 95% số lượng và khối lượng.
Xét nghiệm máu vế phương diện vật lý bao gổm việc
phân tích 2 thành phần đó, nghiên cứu áp lực thẩm thấu,
độ quánh, tỷ trọng, phản ứng của máu, sức bềii của hồng
cầu, tốc độ lắng hồng cầu
15
1. Áp lực thẩm thâu của máu
Áp lực thẩm thâu của máu phụ thuộc vào nónc độ cùa
tất cả các phân tử hữu cơ và các ion có trong máu, chủ ycu
là các ion HCOj , c r và Na+.
Có nhiều cách đo áp lực thẩm thấu của máu:
a) Đo trực tiếp: bình thường, áp lực thẩm tháu của huyct
tương thay đổi từ 7,2 đến 8,1 atmosphe ờ 37°c. Phương
pháp này ít được dùng vì cách đo phức tạp.
b) Đo gián tiếp: có thể tính:
-
Độ hạ hănạ điểm của huyết tương hay huyết thanh so
với nước:
Trị số bình thường là -0,56 ± 0,02°c. Cần phải trừ đi từ
giá trị này độ hạ băng điểm của các chất có độ hòa tan rất
lớn như urê, glucose:
. Với urê: cứ 0,03° cho 1 g/1 urê.
. Với glucose: cứ 0,01° cho Ig glucose khi nồng độ chất
này >1 g/1.
Độ hạ băng điểm của huyết tương có sửa chữa là -0,54
đến -0,55°c, trị số này được coi như áp lực thẩm tháu có
hiệu lực.

- Đơn vị osmol (osm) hay đơn vị thẩm thấu: 1 osm là
áp lực thẩm thấu tác động bới 1 phân tử gam hòa tan trong
1 lít nước.
Cách tính đơn vị osm:
. Chia nồng độ mg/1 cho trọng lượng nguyên tố cùa dơn
chất, hoặc trọng lượng phân tử các hợp. chất.
. Hoặc chia nồng độ hạ băng điểm của huyết tương có

16
sửa chữa cho 1,86, ví ch: 0,55/1,86 (một dung dịch có 1
osm hạ đó bãnp điểm của nước được 1,86°C).
Áp lực thẩm thấu bìnn thường cùa máu là 0,295 osm
hay 295 mosm/l H:0. Cũng có thể dùng đơn vị osm/kg
HoO (osmolality) vì nồng độ tính ra cũng xấp xỉ như đơn
vị osm/1 H-,0 (osmolarity).
Áp lực thẩm thấu có hiệu lực tăng trong khi có mất
nước trong tê bào và giảm khi có ứ nước trong tê bào.
2. Độ quánh của máu và huyết tương
a) Độ quá tì lì của máu:
Độ quánh của máu phụ thuộc vào số lượng tế bào máu
và lượng protein trong máu.
Giá trị bình thường: 3,8 - 4,5 so với độ quánh của nước.
Thay đôi bệnh lý:
- Độ quánh của máu tăng cao:
. Khi có tăng hồng cầu
. Bệnh leucemi
. Chứng rối loạn globulin máu .
. Khi máu bị cô đặc như trong sốc chấn thương, sốc do
bỏng, khi cơ thể bị mất nước nhiều do nôn, ỉa chảy, mất
nhiều mồ hôi, ngạt thở, trong bệnh đái tháo đường, khi bị

tắc mật
*
- Độ quánh của máu giảm trong:
. Thiếu máu
. Phù
. Khi nồng
I7-XNS0TLS I 1 7
TRUNGT
. Khi acid uric máu giảm
. Khi glucose máu giảm.
b) Độ quánh của hityêi iươiiíỊ
Độ quánh của huyết tương do lượng protein quyết định.
Giá trị bình thường: 1,64 - 1,69.
Thay đổi sinli lý và bệnh lý:
- Độ quánh của huyết tương tăng trong:
. Thời kỳ có thai
. Khi bị vàng do tắc mật
. Ngạt thờ
. Bệnh viêm khớp dạng thấp
. Khi có tãng globulin máu, bệnh đa u tủy.
- Độ quánh của huyết tương giảm khi bị thiếu máu.
3. Hematocrit
Nếu đem ly tâm máu đã được chống đông bằng calci
oxalat hoặc heparin, ta sẽ tách được 2 phần: phẩn trên
lỏng là huyết tương, phần dưới đặc bao gồm tất cả các tế
bào máu; trong phần này, ở trên cùng lằ một lớp trắng
mỏng, tập trung bạch cầu và tiểu cầu, ở dưới là một lóp đỏ
dày, tập trung hổng cầu.
Để dễ dàng tính toán, các phòng xét nghiệm dùng một
loại ống ly tâm riêng có khắc các vạch từ 0 đến 100 gọi là

ống hematocrit. Sau khi ly tâm, chỉ cần đọc chiểu cao cùa
cột hồng cầu là có thể tính được 2 phần đó, chiểu cao đó
gọi là hematocrit - tỷ lệ phơn trăm giữa khối hổng cấu và
máu toàn phần. '*•«' tV
* .
• x ' •
18
Bình thường, người ta không tính lớp bạch cầu và, tiểu
cầu vì lớp này rất mỏng, không quá 1%, và dọc kết quà
hematocrit căn cứ vào chiều cao cót tế bào máu coi là cột
» *
hổng cáu. Chi trong một số trường hợp bệnh lý khí có tăng
bạch cầu quá nhiều, nhất là trong bệnh leucemi thì mới
cần phân tách riêng rẽ cột hồng cầu, cột bạch cầu và tiểu
cầu, cột huyết tương.
Nom
Nữ
Trẻ so sinh
/ tuổi
Phồn tế bào máu
40 - 45%
38-42% 56% 35%
Phân huyết tuơng
65-60
48-62
44
65
Theo Hằng số sinh học người Việt Nam, thì hematocrit
bình thường như sau:
Nam : 43% ± 3

Nữ : 39% ± 2
Có thể xác định được hematocrit trên các thiết bị phân
tích huyết học tự động, các thiết bị này đếm số lượng
hồng cầu và nhân toàn bộ với thể tích trung bình hồng cầu
(MCV) tính ra hematocrit. Giá trị này chính xác hơn giá
trị hematocrit xác định bằng phương pháp thủ công vì
không có thêm khoảng trống giữa các hồng cầu.
Thay đổi bệnh lý
- Tăng: khi có ứ nước trong tế bào, sốc, bệnh tăng hồng
cầu.
- Giảm: thiếu máu, bệnh leucemi cấp.
Xét nghiệm này rất cần trong cấp cứu mất máu, sốc, khi
phẫu thuật, điều trị thiếu máu cho trả lời nhanh và tương
19
đỏi chính xác vì biết được kịp thời tình hình khói hổn<j
cầu của bệnh nhân để can thiệp.
Chú ỷ.
Với phương pháp thủ công tính hematocrit, niu ỏn thậl
chính xác:
- Phải loại trừ sô huyết tương, tuy chì còn rãt ít, vẫn
đọng quanh hổng cầu, nhất là các khc kẽ. Một sò lác già
đã tính thấy vào khoảng 5% tổng số, vì vậy phai nhân kct
quả với hệ số 0,95.
<00
\^~Ẩ/oo
too
Mỡ vàng
M ỡ đỏ
H uyết tương
50

SO
T ế hào có nhân
Hồng
cáu
Máu Máu Máu Máu Tủy
bình leucemi leucemi bệnh tảng xương
thường tuỷ mạn cấp hồng cầu
Hình 1. Hematocrit bình thường và bệnh lý
- Hematocrit trên đây dùng máu tĩnh mạch thường cao
hơn hematocrit dùng máu động mạch hoặc máu mao mạch.
Một số tác giả đã tính thấy hematocrit thân (tỷ lê giữa thể
tích hồng cầu toàn phần trên thể tích máu toàn phẩn của
20
cơ thể) là 0,91 của hematocrit tĩnh mạch đã sửa chưa.
Nếu tính cả 2 hệ sô 0,95 và 0,91 phải sửa chữa thì he
matocrit thân sẽ như sau:
Hematocrit thân = 0,8ổ4 hematocrit tĩnh mạch
Giá trị Irên đây chỉ áp dụng cho người lớn: đối với trẻ
sơ sinh, 2 hệ số đó là 0,95 và 0,87, hematocrit thân sẽ là
0,826 của hematocrit tĩnh mạch.
4. pH máu
Ở người bình thường, pH máu luôn luôn được hằng định
do có hộ thống đệm rất phong phú trong máu và sự điều
tiết có hiệu lực của phổi, thận Khi nghỉ, không có sự
khác biệt giữa pH máu và pH huyết tương nhưng khi hoạt
động thể lực thì pH huyết tương động mạch hơi kiềm hơn
pH máu động mạch. pH máu mao mạch gần tương tự như
pH máu động mạch. pH huyết tương lấy ở tĩnh mạch ngoại
vi hơi thấp hơn pH huyết tương động mạch.
Trị sô bình thường của pH:

- Máu động mạch: 7,4 (7,38 - 7,43)
- Máu tĩnh mạch: 7,37 (7,35 - 7,40)
Thay dổi bệnh lý:
- pH máu thấp, thể hiện trạng thái nhiễm toan, trong
hôn mê do đái tháo đường, suy thận nặng, suy hô hấp
- pH máu tăng, thể hiện nhiễm kiềm, khi bị tăng thông
khí làm thải nhiều C 02, khi bị nôn mửa nhiều, khi bị mất
nhiều ion cr, H+
pH được coi là một trong những thông số quan trọng để
đánh giá cân bằng kiềm-toan của cơ thể.
21
5. Sức bến hồng cáu
Sức bểir hồng cầu là sức chịu đựng cùa hỏna cáu đói VỚI
tác dụng tan máu của các dung dich muối khi nổng đỏ của
các dung dịch này hạ thấp dần. Sức bẽn hóng càu phu
thuộc vào tính thấm của màng hổng cầu.
Nguyên lý của h lên tượng tan máu là khi các hống cáu
bị đặt vào trong một dung dịch muôi mà áp lực thẩm thấu
nhẹ hơn hay nói một cách khác khi hồng cẩu bị đặt vào
một dung dịch muối nhược (rương thì nước ờ dung dich
muối nhược trương sẽ vào trong hồng cầu đê làm cân bàng
áp lực thẩm thấu trong và ngoài hồng cầu. Nước vào như
vậy làm trương các hồng cầu, nếu dùng các dung dịch
nhược trương nhiều hơn thì lại càng làm trương to thêm và
đến một dung dịch nhược trương nào đó thì hồng cầu bị vỡ.
Có 2 phương pháp đo sức bền hồng cầu:
. Dùng máu toàn bộ.
. Dùng hồng cầu đã rửa sạch hết huyết tương.
Giá trị bình thường của sức bền hồng cầu:
- Sức bền hồng cầu khi dùng máu toàn hộ:

. Bắt đầu vỡ hồng cầu ở dung dịch NaCl 4,6%o.
. Tan hết hồng cầu ở dung dịch NaCl 3,4%o.
■ni.
- Sức bển hồng cầu khi dùng hồng cầu rửa:
. Bắt đầu vỡ hồng cầu ờ dung dịch NaCI 4,8%o.
. Tan hết hồng cầu ở dung dịch NaCl 3,6%o.
Thay đổi bệnh lý:
- Trong các bệnh vàng da nguyên nhân do gan hay vàng
da vì tắc mật, sức bền hồng cáu có thể bình thưởng hay
22
tâng (ví dụ tăng: bắt đầu tan hồng cầu ờ dung dịch 4,2%o).
- Trong bệnh thiếu máu do tan máu tiên phát hay thứ
phát, sức bền hồng cầu giảm: hổng cầu tan ở khoảng các
dung dịch muối 5 - 6%o, có khi ờ các dung dịch có nồng
độ cao hơn nữa.
- Trong bệnh thiếu máu vùng biển (thalassemia), íhiếu
máu do thiếu sắt, thiếu máu có nguyên hồng cầu khổng lồ,
sức bền hồng cầu thường tăng.
* Phát hiện hiện tượng tan máu do sức bền hổng cẩu bị
giảm.
Phương pháp tiến hành: dùng 8 ống nghiệm, trong đó
lần lượt cho máu, huyết tương, huyết thanh hay hồng cầu
của bệnh nhân và của một người chứng cùng loại máu theo
như quy định trong bảng trang bên (máu chống đông bằng
natri citrat hoặc làm mất fibrinogen rồi).
Đọc kết quả sau 6, 12, 18, 36, 48, 60 và 72 giờ.
Kết quả:
- Bình thường sau 72 giờ sẽ xảy ra hiện tượng tan máu.
- Nếu tan máu xảy ra sớm, trong những giò đầu và nhất
là sau 36 giờ; ở các ống số 1,5 và 6: nghĩ đến tan máu do

giảm sức bền hổng cầu bệnh nhân.
- Nếu tan máu sớm ờ ống số 7, nghĩ đến yếu tố tan máu
trong huyết tương hay huyết thanh bệnh nhân.
6. Thể tích máu, huyết tương và tế bào máu
Máu trong cơ thể không phải ở chỗ nào cũng có thành
phần giống nhau; ở các phủ tạng, máu chảy chậm hơn (ví
dụ trong lách), nồng độ tế bào máu tăng hơn trong máu
ngoại vi; hematocrit cũng thay đổi khác nhau tùy theo
23
ỐNG SỐ
Mâu bệnh nhãn
Màu chúng
Huyết tuong hay huyốt thanh bệnh nhân
Ị Huyốt tuang hay huyết thanh chứng
Hổng câu rủa 2 lân của bệnh nhân
Hổng câu rủa 2 lân của chúng
máu lấy ở tĩnh mạch, mao mạch hay động mạch. Vì vậy,
tính thế tích máu toàn phấn, huyết tương và tế bào máu nêu
chỉ căn cứ vào hcmatocrit thì hoàn toàn thiếu chính xác.
a) Tính thể tích tế bào máu trực tiếp
Các phương pháp tính đều dựa vào nguyên tắc đưa vào
trong cơ thê một lượng
tê hào máu đánh dấu đã định sẵn
và sau một thời gian nhất định trích máu tìm lại các tê bào
đó, tính ra độ pha loãng, từ đó tính ra thể tích máu toàn
phần rồi căn cứ vào hematocrit để tính ra thể tích toàn bộ
các tế bào máu.
Người ta hay dùng hồng cầu đánh dấu bằng phospho
phóng xạ (P32), sắt phóng xạ (Fe59) hoặc crôm phóng xạ
(Cr51) hoặc dùng hồng cầu khác loại với hồng cầu trong cơ

thể bệnh nhân được gây ngưng kết phân biột; phương pháp
này được mang tên là phương pháp Ashhy.
Nẹuyên tắc cùa phương pháp Ashby: cho huyết thanh
mẫu tiếp xúc với một lượng nhất định hồng cầu có mang
sẵn kháng nguyên tương ứng và hồng cầu không mang
kháng nguyên đó; kết quả các hồng cầu có mang kháng
nguyên tương ứng sẽ bị ngưng kết và lắng xuống nhanh
dưới đáy ống, còn các hồng cầu không mang kháng
nguyên vẫn lơ lửng trong dung dịch, có thể đếm được.
h) Tính thể tích huyết tương trực tiếp
Muốn tính thể tích huyết tương, người ta tiêm vào trong
cơ thể một loại thuốc màu (hay dùng chất xanh T. 1824
hay xanh Evans, xanh Chicago 6-B, xanh Geigy 536) với
một lượng đã định sẵn, và sau một thời gian nhất định,
trích máu để xem độ pha loãng trong huyết tương; từ đó
tính ra thể tích huyết tương trong cơ thể. Những chất màu
sử dụng đạt yêu cầu là khuếch tán đều trong huyết tương,
25
không bị các tổ chức hấp thu và được đào thài qua nước tiểu
rât chậm, nhưng lại có nhược điểm là có the khuếch tán ra
ngoài thành mạch máu, vì vậy thể tích huyết tươns tính ra
thường lớn hơn thể tích có thật, có khi tới 8 - 12c/c. Gán
đây, một sô tác giả dùng các dung dịch keo như subtosan
hoặc albumin huyết thanh người đánh dấu bằng iod phóng
xạ (I131) có phân tử lớn, tiêu ra ngoài rất chậm đê thay các
chất màu. Phương pháp này chính xác hơn, có giá trị hơn.
c) Tính thể tích máu toàn phần trực tiếp
- Dựa vào phương pháp tính thể tích tế bào máu bằng
P32, Fe59, hoặc Cr5'.
- Dựa vào phương pháp tính thể tích huyết tương và

hematocrit:
„ ,,T> 10°
V = VP X ——
hs
(V = thể tích máu toàn phần; VP = thể tích huyết
tương; hs = hematocrit thán).
- Có một phương pháp đơn giản hơn, dựa trên nguyên
tắc tiêm vào trong cơ thể một lượng định sẵn huyết tương
bình thường, đẳng trương, để pha loãng các tế bào máu;
trước và sau khi tiêm, trích máu ra hoặc đo tỷ trọng (D I và
D2), hoặc tính huyết sắc tố (Hbị và Hb,) hoặc tính hema
tocrit (h, và h2) đồng thời đo tỷ trọng d của huyếl tương
tiêm vào cơ thể. Nếu V là lượng huyết tương tiêm vào, thì
thể tích máu V trước khi tiêm của cơ thể sẽ tính được qu;.
những công thức dưới đầy :
\7 — D 2 — d
V = V -—
-

d , - d 2
*7 _ Hb2
V = V



'
Hb| - Hb2
26
h, -h,
Phương pháp này chưa thật chính xác, cho kêt quả có

sai sỏ tới ±15% nhưng đỡ phức tạp hơn.
d) Tính thể tích máu toàn phần, thể tích tế hào máu gián tiếp.
Phương pháp này đơn giản hơn, hay thực hiện trên lâm
sàng nhưng độ chính xác khá thấp.

hematocrit tĩnh mạch sửa chữa
Hình 2. Bàng tính thể tích máu, tế bào máu và huyết tương
V = đường biểu diễn thể tích máu
VP = đường biểu diễn thề tích huyết tương
VG = đường biểu diễn thể tích tế hào máu
- Với những người có trạng thái tuần hoàn cân bằng,
như ở người bình thường, ở bệnh nhân thiếu máu hoặc
27

×