BẢN SẮC VĂN HOÁ VÀ SỰ TƯƠNG TÁC KHÔNG GIAN
LÃNH THỔ GIỮA CÁC DÂN TỘC VÙNG TRUNG DU
VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ VIỆT NAM
TS. Dương Quỳnh Phương, Thân Thị Huyền
Trường ĐHSP, Đại học Thái Nguyên
Đặt vấn đề
Với hơn 30 dân tộc cư trú đan xen, trung du miền núi Bắc Bộ là một
vùng văn hoá ‑ tộc người vừa đa dạng vừa thống nhất theo không gian
và thời gian. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá riêng của mình, đồng
thời tiếp biến bản sắc văn hoá của các dân tộc anh em cùng cư trú trong
một địa bàn lãnh thổ. Trong quá trình tương tác đó đã hình thành các
không gian lãnh thổ đặc thù theo đai cao, đó là các vùng rẻo cao, rẻo giữa,
rẻo thấp; tương ứng là các đặc trưng văn hoá núi cao (Hmông, Dao), văn
hoá thung lũng (Tày, Thái), văn hoá trung du và vùng gò đồi (người Kinh).
Bản sắc văn hoá và sự tương tác không gian lãnh thổ giữa các dân
tộc ở vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
Trung du và miền núi Bắc Bộ bao gồm 15 tỉnh phân theo đơn vị hành
chính là: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình (thuộc vùng Tây Bắc) và
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên
Quang, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Lào Cao, Yên Bái (thuộc vùng
Đông Bắc). Đây là một vùng địa lí dân tộc học độc đáo, với hơn 30 dân
tộc cư trú xen kẽ lâu đời; một số dân tộc có dân số đông ở vùng Đông
Bắc (Tày, Nùng ) và ở Tây Bắc (Thái, Mường ). Năm 2007, số dân của
vùng đạt 12.194.000 người chiếm 14,3% dân số cả nước. Vùng trung du và
vùng gò đồi là nơi cư trú chủ yếu của người Kinh. Đó là khung cảnh làng
quê quen thuộc với hình tượng cổng làng, nổi bật là không gian chợ làng
với các con đường làng lát gạch nghiêng trên nền cánh đồng lúa chín
thẳng cánh cò bay, cảnh làng quê thanh bình. Dân tộc Kinh có nhiều kinh
nghiệm thâm canh lúa nước, có các nghề thủ công đạt trình độ tinh xảo,
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
397
có truyền thống làm nghề sông biển. Đến với vùng văn hoá thung lũng, nơi
cư trú của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mường, Sán Dìu Đồng bào
thường sinh sống thành các bản dựa theo các địa hình sườn núi có nguồn
nước và đất bằng, dọc theo thung lũng sông suối. Đặc trưng là hình ảnh
chiếc cọn quay, cối giã gạo bằng sức nước, chiếc thuyền độc mộc. Sức
sáng tạo trong điều kiện cư trú thung lũng vốn đã làm nên các giá trị văn
hoá của cư dân cùng với những điệu xoè, điệu khắp hay các làn điệu then
truyền thống. Ngược lên phía Bắc để đến với cư dân vùng núi cao, nơi sinh
sống của đồng bào dân tộc Hmông, Dao, Pà Thẻn, Khơ Mú, Hà Nhì
Các dân tộc này thường sống ở các làng bản có độ cao trên 500m, phân
bố rải rác với các tụ cư dăm ba nóc nhà chênh vênh trên sườn dốc địa
hình núi đất hoặc núi đá, nhất thiết phải có nguồn nước. Cư dân vùng
này sống chủ yếu bằng nghề canh tác nương rẫy, hái lượm, săn bắn. Văn
hoá chợ phiên đã khái quát được phần nào cuộc sống của cư dân nơi đây.
Trong cộng đồng các dân tộc ở vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, các
dân tộc cùng ngữ hệ và cư trú trên những địa bàn tương đối giống nhau
đều có nhiều điểm tương đồng về tập quán sản xuất nông nghiệp. Người
Kinh cư trú trên những địa bàn có điều kiện phát triển sản xuất. Họ có
truyền thống thâm canh, đắp đê, làm thuỷ lợi để trồng lúa nước và hoa
màu lương thực. Ngoài ra, họ còn có những tập quán sử dụng đất hợp lý
ở những vùng đồi, núi có độ dốc nhỏ. Các thành phần cây lấy gỗ, cây ăn
quả và cây công nghiệp được sắp xếp hợp lý theo đường bình độ hoặc kế
tiếp nhau theo thời vụ với các hệ canh tác nông lâm kết hợp, các mô hình
(VAC, RVAC ). Địa bàn cư trú của họ trở thành vùng sản xuất hàng hoá.
Một số dân tộc sống ở vùng trung du thường ở nhà trệt, rải rác trên các
gò đồi, xen kẽ những cánh đồng tương đối bằng phẳng. Mỗi dân tộc, mỗi
tiểu vùng đều có hệ canh tác đặc trưng, biểu thị sự thích ứng và thích nghi
của mỗi dân tộc với điều kiện sống để tồn tại và phát triển.
Xét sự tương tác theo không gian đai cao, miền núi phía Bắc Việt Nam
chia thành 3 tiểu vùng cư trú, canh tác khác nhau theo bậc địa hình. Vùng
rẻo cao là những nơi cao nhất, thường có độ cao tuyệt đối trên 600m.
Đứng ở vị trí tương đối, đây là nơi sâu nhất, xa nhất và kinh tế khó khăn
nhất. Phương thức sử dụng đất tập trung vào cây lương thực nương rẫy
và chăn nuôi đại gia súc. Khoảng 70% sản lượng lương thực có hạt là
ngô và lúa nương; mỗi hộ thường nuôi ít nhất 1 con trâu, 1 con bò hoặc
1 con ngựa. Đó là địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc Hmông, Dao. Vùng
398
Dương Quỳnh Phương, Thân Thị Huyền
rẻo giữa là vùng có tính chất chuyển tiếp và pha trộn của vùng rẻo cao
và vùng rẻo thấp. Đồng bào vừa trồng ruộng nước, vừa canh tác trên
những sườn dốc có khi tới 45
o
và đa dạng hoá phương thức sử dụng đất
bằng cách trồng lúa nước ở những nơi đất thấp ven sông suối, thung
lũng và trồng cây lương thực trên nương rẫy. Vùng rẻo thấp là những nơi
gần đường giao thông, địa hình thấp có độ cao trung bình dưới 300m,
gần sông suối. Địa bàn này chủ yếu là nơi dân tộc Kinh cư trú. Họ có
điều kiện sống thuận lợi hơn nên nền nông nghiệp đã định canh từ lâu
đời. Phương thức canh tác tập trung vào lúa nước. Như vậy, để thích
ứng với điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng của khu vực
miền núi, đồng bào các dân tộc đã có những phương thức canh tác khác
nhau, nền kinh tế dựa vào trồng trọt là chủ yếu.
Xét sự tương tác theo đai ngang (tức là sự tương tác giữa các nhóm dân tộc
sinh sống trong cùng một độ cao nhất định), đối với đồng bào dân tộc Hmông,
tập quán sinh sống trên các vùng núi cao, cuộc sống dựa chủ yếu vào sản
xuất nông nghiệp, trong đó canh tác trên đất dốc là phương thức sản xuất
chính. Do vậy, việc triển khai thành công mô hình canh tác trên đất nương
rẫy theo hướng bền vững kết hợp nông, lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia
súc đã thực sự góp phần cải thiện đời sống đồng bào, ngăn chặn tình
trạng du canh du cư đốt rừng làm nương rẫy; đặc biệt là hướng dẫn đồng
bào biết cách làm ăn, sản xuất trên mảnh đất quê hương. Cùng với địa
bàn cư trú của đồng bào dân tộc Hmông còn có người Dao. Nhà ở của
người Dao thường bố trí thấp hơn nguồn nước để tiện việc dẫn nước sinh
hoạt. Mỗi bản có một lãnh thổ riêng, ranh giới thường là dòng suối, đỉnh
núi, mỏm đá. Làng bản của người Dao thường nhỏ và tách biệt nhau. Có
thể nhận thấy, người Dao còn duy trì tín ngưỡng đa thần và mọi lĩnh vực
của đời sống chịu sự chi phối của tín ngưỡng đó.
Trong sự tương tác của nhóm dân tộc sinh sống ở vùng thung lũng, dân
tộc Tày và dân tộc Nùng là điển hình. Đa số người Tày vẫn ở nhà sàn. Nó
vừa phản ánh vừa là hệ quả sự tác động của cảnh quan địa lí tự nhiên
và sự diễn biến lịch sử của các loại hình kinh tế, văn hoá của cư dân.
Nhà sàn là loại nhà tổng hợp, từ sàn gác đồ, mặt sàn đến gầm sàn đều
đựơc sử dụng khá hợp lý trong sinh hoạt và sản xuất. Dân tộc Nùng sống
tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc
Giang, Tuyên Quang. Người Nùng gồm có các nhóm: Xuồng, Giang,
Nùng An, Nùng Lòi, Phàn Sinh, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng
Bản sắc văn hóa và sự tương tác không gian lãnh thổ giữa các dân tộc vùng
399
Dín, Khen Lài. Tiếng nói của người Nùng rất gần với tiếng Tày và thuộc
nhóm ngôn ngữ Thái‑Kadai. Tiếng Nùng có văn tự là chữ Nôm Nùng
xuất hiện từ thế kỷ XVII. Đồng bào Nùng sống thành từng bản trên các
sườn đồi thờ tổ tiên là chính. Thông thường trước bản là ruộng nước,
sau bản là nương và vườn cây ăn quả. Đồng bào ở nhà sàn làm bằng gỗ
tốt, lợp ngói máng hoặc lợp tranh. Đồng bào Nùng mặc quần áo chàm.
Tấm áo chàm của người Nùng đã từng che chở cho Bác Hồ khi Bác từ
nước ngoài về sống và hoạt động cách mạng ở Pắc Bó (1941).
Còn đối với dân tộc cư trú ở rẻo thấp chủ yếu là người Kinh thì nghề trồng
lúa nước là nghề chủ yếu. Làng xã là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn. Tiến
trình lịch sử đã khiến cho làng xã trở thành một tiểu xã hội trồng lúa nước.
Sự gắn bó trong cộng đồng đồng thời là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh,
chuẩn mực xã hội, đạo đức với những hương ước khá chặt chẽ. Đây là địa
bàn chịu ảnh hưởng của quá trình tiếp biến văn hoá “nhạy cảm” nhất.
Có thể nói, giá trị nhất trong sự tương tác giữa hai dân tộc Hmông –
Dao là hoạt động sản xuất theo phương thức canh tác nương rẫy và chăn
nuôi đại gia súc, biết kết hợp mô hình trồng ngô trên hốc đá với mô hình
canh tác trên đất dốc, sử dụng tài nguyên rừng. Còn đối với hai dân tộc
Tày, Nùng, cư trú ở vùng thung lũng thì đó là kĩ thuật, làm ruộng nước,
làm nương bãi để trồng lúa, ngô, khoai lang, khoai sọ, sắn, đậu, lạc, chè,
vừng, ngô trồng xen với đỗ Đặc biệt trong việc sắp xếp lịch thời vụ,
lựa chọn giống cây, cơ cấu xen canh. Và đối với đồng bào Kinh cốt lõi
nhất vẫn là nghề thâm canh lúa nước đã trở thành nền văn minh với tên
gọi “văn minh lúa nước”. Lễ hội của người Kinh là môi trường cộng cảm,
văn hoá cộng mệnh về mặt tâm linh. Tính cộng đồng trong sự tương tác
giữa các nhóm dân tộc rất chặt chẽ.
Xét sự tương tác theo không gian đông – tây, tây bắc ‑ đông nam, Tây Bắc
‑ vùng văn hoá ba con sông ‑ vùng văn hóa hoa ban là địa bàn cư trú của các
dân tộc Thái, Hmông, La Ha, Xinh Mun, Khơ Mú cùng với một bộ
phận người Kinh vốn là hậu duệ nghĩa binh Hoàng Công Chất đã sống
lâu đời nơi đây và một bộ phận người Hoa vốn là dòng dõi của tàn quân
Lưu Vĩnh Phúc. Ngược dòng lịch sử, chỉ cần chạm đến đầu Công
Nguyên là đã bắt gặp cái cơ tầng văn hoá của miền đất này. Thuở ấy, cư
dân Tây Bắc là bộ phận của nền văn minh đồng thau Đông Sơn với trống
đồng và công cụ bằng đồng, những thứ mà ngày nay trở thành vật
thiêng, chỉ dùng trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Những nét đặc trưng
400
Dương Quỳnh Phương, Thân Thị Huyền
như trống đồng, thuyền độc mộc, nhạc cụ tre nứa, tục xăm mình đều
như phảng phất những gì đã từng được sách chữ Hán cũng như các
truyền thuyết nói về xứ sở Vua Hùng. Điều này được thể hiện khá rõ
trong các cư dân Kháng, La Ha, Mảng Người Thái ở mức độ phát triển
cao hơn, đã thiên di đến vùng đất này, bắt đầu quá trình hỗn dung và
tiếp biến văn hoá, tạo nên sắc thái vùng văn hoá Tây Bắc thông qua văn
hoá Thái là chủ thể. Biểu hiện văn hoá vật thể của người Thái là văn hoá
nông nghiệp thung lũng. Câu ngạn ngữ Thái đã nói: “Xá ăn theo lửa ‑
Thái ăn theo nước ‑ Hmông ăn theo sương mù”. Người Thái làm ruộng nước
trong các thung lũng, các vùng lòng chảo. Văn hoá nông nghiệp Thái
nổi tiếng với hệ thống tưới tiêu, được gói gọn trong bốn từ “Mương –
Phai – Lai ‑ Lịn”, đúng ra là “Phai – Mương – Lai ‑ Lịn”. Lợi dụng độ
dốc của dòng chảy người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao đó là
cái “phai”. Phía trên “phai” xẻ một đường chảy lớn dẫn nước vào cánh
đồng đó là “mương”. Từ “mương” xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó
là “lai”. Còn “lịn” là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao dẫn về ruộng,
về nhà bằng thân cây tre đục rỗng, nối liền nhau, có khi dài hàng cây số.
Khác với Tây Bắc, không gian văn hoá vùng Đông Bắc với đặc trưng
môi trường tự nhiên là địa hình có cấu trúc các dãy núi hình cánh cung,
chụm lại ở Tam Đảo mở ra ở phía Bắc và phần hướng lồi quay ra biển.
Hầu hết lãnh thổ vùng là lưu vực của hệ thống sông Hồng và sông Thái
Bình. Đây là vùng có nguồn tài nguyên “lạnh” rõ nét của nước ta. Cư
dân chủ yếu của vùng là người Tày và người Nùng. Thực ra, người Tày
và người Nùng là những tộc người có chung một nguồn gốc lịch sử,
thuộc khối Bách Việt. Tên gọi Tày có thể xuất hiện vào cuối thiên niên
kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Thời đại Vua Hùng, liên minh giữa người
Âu Việt ‑ tổ tiên của người Tày với người Việt ‑ những cư dân Lạc Việt
là có thực. Thời nước Âu Lạc, liên minh ấy càng bền chặt gắn bó với sự
phát triển của nhà nước Đại Việt. Trong diễn trình lịch sử, chủ yếu là cư
dân Tày – Nùng, cùng gắn bó với các dân tộc vùng xuôi. Thời phong
kiến, các vương triều Việt Nam đều có ý thức vun đắp sự gắn bó này.
Người Tày – Nùng có hai loại nhà chính là nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn
là dạng phổ biến nhất. Trang phục của người Tày – Nùng có tính thống
nhất, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi và theo địa phương.
Về văn hoá ẩm thực, tuỳ theo địa phương, tuỳ theo từng dân tộc mà
cách thức chế biến và khẩu vị có sắc thái riêng. Trong chế biến món ăn
có sự tiếp thu kỹ thuật của người Hoa, người Việt.
Bản sắc văn hóa và sự tương tác không gian lãnh thổ giữa các dân tộc vùng
401
Sự tương tác giữa các nhóm dân tộc theo không gian đai cao, đai ngang và
không gian đông ‑ tây trong trồng trọt, chăn nuôi, quản lý rừng và tài
nguyên cộng đồng, dinh dưỡng và sức khoẻ con người, tổ chức cộng đồng
và truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu đã tạo nên hệ thống kinh nghiệm,
thông tin, kĩ thuật, công cụ, nguyên liệu, nguồn sinh học, tín ngưỡng vững
chắc cho các dân tộc trong lề lối ứng xử với môi trường tự nhiên và sinh hoạt hàng
ngày. Tài nguyên môi trường là điều kiện cốt lõi đảm bảo sự phát triển bền
vững của các quốc gia – dân tộc, là cơ sở vật chất khách quan tác động tới
các dân tộc sinh tụ và phát triển trong môi trường đó. Mỗi dân tộc tuỳ theo
trình độ phát triển, tập quán sản xuất và văn hoá mà tác động khác nhau
tới môi trường và cũng sử dụng tài nguyên theo cách riêng của mình.
Theo thời gian, kiến thức đó được biến cải ngày càng hoàn thiện hơn, thích
ứng với môi trường và xã hội. Rõ ràng, kiến thức bản địa có giá trị cao
trong lĩnh vực xây dựng các mô hình nông thôn bền vững. Cần phải phối
hợp những ưu điểm của kiến thức bản địa với mặt mạnh của khoa học
kĩ thuật hiện đại để đạt được hiệu quả cao, bền vững và phù hợp về văn
hoá của cộng đồng các dân tộc thiểu số rất đa dạng và phức tạp ở khu
vực miền núi. Trong quá trình hội nhập hiện nay, sự mở rộng giao lưu
văn hoá giữa các tộc người để tăng cường sự hiểu biết, nâng cao ý thức
tự giác bảo tồn, phát huy vốn di sản văn hoá của các dân tộc. Lãnh thổ
như một điều kiện vật chất cơ bản để hình thành các cộng đồng dân tộc.
Để giao dịch được, con người phải sống gần nhau, thậm chí các nhóm
người khác nhau về ngôn ngữ, về xuất xứ nếu sinh sống cùng nhau trong
một vùng lãnh thổ, họ sẽ tạo thành một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Trong thời đại của sự giao thoa giữa các nền văn hoá, quá trình tương
tác và tiếp biến văn hoá giữa các nhóm dân tộc cũng diễn ra mạnh mẽ.
Khi xem xét chúng ở mức độ nhóm thì quá trình này bao gồm quá trình
hoà nhập văn hoá và quá trình xã hội hoá, góp phần tăng cường tính độc
đáo của dân tộc mình. Các cấp độ truyền văn hoá như sau: Truyền văn
hoá theo chiều dọc: Trong đó có việc học văn hoá chung nhờ cha mẹ (là quá
trình trong đó các giá trị văn hoá, kỹ năng và niềm tin được truyền từ bố
mẹ sang con cái)… và quá trình xã hội hoá riêng biệt hoặc nhóm thân
thuộc nhất, là quá trình cá nhân hoà nhập vào xã hội hoặc vào nhóm của
họ thông qua việc học các chuẩn mực và giá trị của từng nhóm xã hội.
Truyền văn hoá theo chiều ngang: Đó là quá trình học văn hoá chung và quá
trình tiếp biến văn hoá chung thông qua những người cùng tuổi (trẻ em
402
Dương Quỳnh Phương, Thân Thị Huyền
lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và truyền thống văn hoá trong quá trình giao
tiếp với bạn cùng lứa). Truyền chéo: Thông qua những người lớn khác,
bao gồm của nhóm mình (học văn hoá chung; xã hội hoá riêng biệt) và
của nhóm khác (tiếp biến văn hoá chung; tái hoà nhập xã hội riêng biệt).
Thường đây là cấp độ truyền văn hoá gián tiếp (cá nhân được dạy dỗ
trong các tổ chức xã hội hoá chuyên biệt như trường phổ thông, đại học…
và cả trong cuộc sống ‑ từ những người xung quanh, ngoài bố mẹ ra như
họ hàng, những người lớn tuổi trong cộng đồng, hàng xóm…).
Tiếp biến văn hóa là dòng chảy tự nhiên của lịch sử loài người từ
hàng ngàn đời nay, bất chấp các rào cản về kinh tế, xã hội và ngôn ngữ.
Tuy nhiên, dòng chảy đó không phải lúc nào cũng trơn tru, thẳng tuột,
mà nhiều khi nó cũng ngoằn nghèo, uốn khúc, trầm lắng hay ào ạt, khi
lở, khi bồi, phụ thuộc vào mức độ đồng thuận của đôi bờ. Tiếp biến có
nghĩa là sự tiếp tục, tiếp nhận trong xu hướng biến đổi không ngừng.
Hay nói một cách khác là bản thân văn hóa cũng luôn có nhu cầu giao
lưu, trao đổi, hội nhập và xu hướng tự làm mới mình, nhưng không bao
giờ được đánh mất bản sắc riêng, nhất là trong thời đại mà quá trình
toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng đang diễn ra một cách tất yếu và mau
lẹ không thể nào cưỡng lại được. Một dân tộc nếu đánh mất bản sắc văn
hóa của mình cũng có nghĩa là đánh mất tất cả.
Văn hóa của các dân tộc bao giờ cũng có cách tiếp biến riêng của nó, vừa
nghiêm ngặt vừa cởi mở, vừa tự nhiên lại vừa mang tính áp đặt, nếu ai
cố tình không hiểu điều đó có nghĩa là người đó đứng ngoài sân chơi
chung của các thực thể văn hóa. Trong thời đại hiện nay, công nghệ
thông tin nói riêng và khoa học kỹ thuật nói chung dường như đã nối
dài cánh tay cho con người xích lại gần nhau hơn. Thế nhưng, mọi mô
thức văn hóa du nhập từ bên ngoài vào (ngoại lai) không phải tất cả đều
được thừa nhận và phát huy hiệu quả ngay như là những yếu tố đã được
tích tụ hàng ngàn năm (nội sinh). Như vậy, chúng ta có thể thấy sự tiếp biến
văn hóa bao giờ cũng đi theo đường vòng và diễn ra hết sức chậm chạp.
Kết luận
Nếu ví vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ như một “ngôi nhà
chung” với “mái nhà” là đỉnh Phan Si Păng cao 3.143m, thì trong “ngôi
nhà” ấy có một nền văn hoá dân gian đa dạng, đặc sắc. Tầng 1 của ngôi
nhà (vùng thấp) là địa bàn cư trú chính của dân tộc Kinh. Tầng 2
Bản sắc văn hóa và sự tương tác không gian lãnh thổ giữa các dân tộc vùng
403
(vùng thung lũng) là nơi cộng cư chính của các dân tộc Thái, Lào, Lự,
Kháng với g ương mặt tiêu biểu là dân tộc Thái. Trong khi đó tầng 3
của ngôi nhà (vùng cao) là nơi cư trú lâu đời của các dân tộc Hmông,
Dao, La Hủ, Hà Nhì, Si La, với gương mặt văn hoá đại diện là dân tộc
Hmông. Thật không hề đơn giản chút nào khi nói về văn hoá của cả một
vùng rộng lớn, với mấy chục tộc người vừa đa dạng vừa thống nhất.
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản: dân tộc,
hiện đại, nhân văn là nhiệm vụ rất quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Một trong những nội dung trọng tâm của nền văn hoá ấy là xây dựng
con người Việt Nam XHCN. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng
định: “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế ‑ xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Trọng Cúc (Chủ biên), (2001), Vùng núi phía Bắc Việt Nam: Một số vấn
đề về môi trường và kinh tế xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Thân Thị Huyền, (2008), Mối quan hệ giữa giảm nghèo và rừng qua thực tế
cuộc sống của đồng bào các dân tộc huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, Đề tài
đoạt giải khuyến khích SVNCKH toàn quốc năm 2008, CBHD: TS.
Dương Quỳnh Phương.
[3] Dương Quỳnh Phương, (2007), Cộng đồng các dân tộc với việc sử dụng tài
nguyên đất và rừng ở tỉnh Thái Nguyên ‑ hướng tới mục tiêu phát triển bền
vững, Luận án Tiến sĩ Địa lí, Hà Nội.
[4] Viện nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững ‑ Viện KHXH
Việt Nam & Trường Đại học TN&XH (2007), Những vấn đề về môi
trường và phát triển bền vững vùng Đông Bắc, Hội thảo khoa học quốc
gia, Thái Nguyên.
[5] Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam (2001), Kiến thức bản địa của đồng
bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
404
Dương Quỳnh Phương, Thân Thị Huyền