Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

tác động của biến đổi khí hậu đến trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.75 KB, 7 trang )

4 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tác động của biến đổi khí hậu
tới sức khỏe trẻ em
Phan Thùy Linh (*), Lê Thò Thanh Hương (*)
Biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Theo Chương trình
Mục tiêu Quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, trẻ em nằm trong nhóm đối tượng dễ bò tổn thương
bởi biến đổi khí hậu như sự gia tăng nhiệt độ, nước biển dâng, lũ lụt, các hiện tượng thời tiết cực
đoan, v.v… Trong nội dung của bài tổng quan, nhóm tác giả sẽ đề cập những tác động của biến đổi
khí hậu đến nhóm đối tượng dễ bò tổn thương là trẻ em, và đưa ra một số đề xuất nhằm giảm thiểu
những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới nhóm đối tượng này.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, trẻ em, sức khỏe, dễ bò tổn thương.
Impacts of climate change on child health
Phan Thuy Linh (*), Le Thi Thanh Huong (*)
Human health has been affected by climate change. As stated in the National Target Program of
Climate Change Response, children are included in the most vulnerable group due to climate change
effects such as rising temperature, rising sea level, flood, extreme weather events, etc. In this article,
the authors review impacts of climate change on child health and propose some measures in order
to mitigate such impacts on this group.
Key words: Climate change, children, health, vulnerable
Các tác giả:
(*): Trường Đại học Y tế Công cộng:
- CN. Phan Thùy Linh, Bộ môn Sức khỏe Môi trường, Trường Đại học Y tế Công cộng.
Đòa chỉ: 138 Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội. Email:
- Ths. Lê Thò Thanh Hương, Phó trưởng Bộ môn Sức khỏe Môi trường, Trường Đại học Y tế Công cộng.
Đòa chỉ: 138 Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội. Email:
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 5
1. Đặt vấn đề
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tác động
trực tiếp của thiên tai cùng với biến đổi khí hậu


(BĐKH) bao gồm các sự kiện thời tiết cực đoan như
lũ lụt, bão, hạn hán, sóng nhiệt có thể dẫn đến các
hậu quả sức khỏe nghiêm trọng [31]. Tiếp cận với
nước sạch và chất lượng nước cũng bò đe dọa bởi sự
thay đổi môi trường. BĐKH ảnh hưởng tới sản lượng
cây trồng, an ninh lương thực và tình trạng suy dinh
dưỡng ở tất cả các đối tượng, trong đó trẻ em được
coi là đối tượng dễ bò tổn thương. Trẻ em còn dễ
mắc các bệnh lây truyền qua thực phẩm/nước uống,
nhạy cảm với điều kiện thời tiết. Các chất gây ô
nhiễm trong không khí còn có thể dẫn tới các bệnh
đường hô hấp mà trẻ em dễ bò tổn thương như bệnh
hen suyễn [4, 6]. BĐKH còn ảnh hưởng tới sự phân
bố và số lượng các loài vật chủ, từ đó ảnh hưởng tới
số lượng vector và sự lây truyền bệnh sốt rét, sốt
xuất huyết [21]. Thiên tai, lũ lụt và hạn hán khiến
người dân phải thay đổi chỗ ở, gây ra những khó
khăn trong việc tiếp cận dòch vụ y tế [27]. Do sự
phát triển nhanh chóng cả về thể chất và nhận thức
nên trẻ em dễ bò tổn thương bởi những nguy cơ sinh
học, hóa học và vật lý từ môi trường do BĐKH hơn
là người trưởng thành [4].
Bài viết này sẽ trình bày sơ bộ tổng quan về
BĐKH và các hậu quả của BĐKH tới sức khỏe trẻ em.
2. Phương pháp nghiên cứu
Tài liệu sử dụng cho bài tổng quan được tìm
kiếm trên cơ sở dữ liệu PubMed, trang web của Ủy
ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), Bộ
Y tế, Bộ Tài Nguyên và Môi trường. Các tài liệu
được phát hành từ năm 2000 đến tháng 4 năm 2012.

Từ khóa được dùng để tìm kiếm tài liệu là "climate
change", "child health", "biến đổi khí hậu". Các tài
liệu được ưu tiên chọn là các bài báo tổng quan. Các
tài liệu cung cấp thông tin về tác động của biến đổi
khí hậu đến sức khỏe trẻ em và một số biện pháp
ứng phó với biến đổi khí hậu. Các tài liệu đều được
sử dụng dưới dạng bản đầy đủ (full - text). Các nội
dung trong bài báo này chỉ sử dụng 31 tài liệu tham
khảo đã được giới hạn nội dung về biến đổi khí hậu
(5 tài liệu), tác động của biến đổi khí hậu đến sức
khỏe trẻ em (21 tài liệu) và các biện pháp ứng phó
với biến đổi khí hậu (5 tài liệu).
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Tổng quan về biến đổi khí hậu
Theo IPCC (2007), các hoạt động của con
người, chủ yếu là việc đốt cháy các nguyên liệu
hóa thạch, phá rừng đã làm tăng nồng độ khí CO
2
trong khí quyển lên hơn 30% kể từ cuộc cách mạng
công nghiệp từ thế kỷ XIX [19]. Thực vậy, nồng độ
khí CO
2
trong khí quyển đã tăng từ 230 ppm từ thời
cách mạng công nghiệp lên khoảng 380 ppm vào
năm 2005, và hiện nay nồng độ khí CO
2
được xem
là cao hơn các mức trong suốt giai đoạn 650.000
năm gần đây [18]. Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường
Hoa Kỳ (EPA, 2009), tính trên toàn cầu, lượng khí

thải nhà kính vào khí quyển do hoạt động của con
người tăng 26% trong giai đoạn từ 1990 - 2005 [15].
Nhiệt độ bề mặt trái đất đã tăng xấp xỉ 0,6
0
C, trong
đó khoảng 2/3 sự nóng lên bắt đầu từ năm 1975
[30]. Các nhà khoa học dự đoán rằng hiện tượng
nóng lên còn xảy ra mạnh hơn nữa, kéo theo đó là
sự thay đổi về lượng mưa và khí hậu của trái đất
trong thế kỷ 21 [19].
Theo IPCC (2007), mực nước biển toàn cầu đã
tăng ngày càng cao trong thế kỷ 20. Số liệu quan
trắc mực nước biển trong giai đoạn 1961 - 2003 đã
cho thấy mực nước biển tăng trung bình từ 1,8 ± 0,5
mm/năm. Số liệu đo đạc từ vệ tinh
TOPEX/POSEIDON trong giai đoạn 1993 - 2003
cho thấy tốc độ tăng của mực nước biển trung bình
toàn cầu là 3,1 ± 0,7 mm/năm, nhanh hơn đáng kể
so với thời kỳ 1961 - 2003. Theo dự đoán của IPCC,
đến giữa những năm 2090 mực nước biển sẽ tăng
với tốc độ khoảng 4mm/năm, tùy thuộc vào từng
khu vực đòa lý [18].
Người ta đã quan sát thấy những thay đổi có
biên độ rộng của các điều kiện nhiệt độ cực đoan
hay nhiệt độ khắc nghiệt (extreme temperatures)
trên phạm vi toàn thế giới trong vòng 50 năm qua.
Những ngày lạnh, đêm lạnh và những ngày có băng,
tuyết ít xuất hiện hơn, trong khi những ngày nóng,
đêm nóng và các đợt sóng nhiệt xuất hiện thường
xuyên hơn [10, 14]. Các điều kiện thời tiết cực đoan

do BĐKH gây ra thường liên quan đến thiên tai như
bão, lũ lụt, hạn hán và những vụ cháy rừng lớn.
BĐKH đã góp phần làm tăng tần suất xuất hiện của
các thiên tai nói trên [18].
3.2. Tác động của biến đổi khí hậu tới sức
khỏe trẻ em
3.2.1. Những chấn thương về thể chất
Đuối nước
Hiệu ứng nhà kính làm cho nhiệt độ trong không
6 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
khí ấm lên, dẫn tới độ ẩm trong không khí tăng và
nước bốc hơi nhanh hơn, làm tăng tần suất của các
cơn bão và những trận lũ lụt, gây ra những ảnh
hưởng đến trẻ em [4, 24]. Trong một trận lũ lụt ở
quận Sarlahi của Nepal, tỷ lệ tử vong liên quan đến
lũ lụt của trẻ em cao gấp 6 lần tỷ lệ tử vong của
người dân trong khu vực một năm trước khi trận lũ
lụt diễn ra. Tỷ lệ tử vong trong nhóm dân số được
ghi lại là 13,3/1000 đối với trẻ nữ và 9,4/1000 đối
với trẻ nam. Trong đó, trẻ em từ 2 - 9 tuổi có khả
năng bò tử vong cao gấp 2 lần so với bố hoặc mẹ
[28]. Trẻ em sống ở vùng đồng bằng ngập lũ có
nguy cơ cao bò đuối nước, do trẻ em không biết bơi
và còn phụ thuộc vào người lớn trong trường hợp
khẩn cấp. Đợt điều tra y tế và tai nạn thương tích ở
Bangladesh năm 2003 với hơn 171.000 hộ gia đình
tham gia đã cho thấy rằng đuối nước là nguyên nhân
hàng đầu dẫn tới tử vong ở trẻ em độ tuổi từ 1 - 18.
Cũng theo điều tra này thì gần 17.000 trẻ em ở

Bangladesh bò đuối nước mỗi năm [28].
Nguy cơ ảnh hưởng do các áp lực về nhiệt (sóng
nhiệt/sóng lạnh)
BĐKH làm tăng cả về tần suất và cường độ của
các đợt sóng nhiệt, dẫn tới tỷ lệ tử vong và mắc các
bệnh nghiêm trọng tăng lên, đặc biệt ở trẻ em. Trẻ
em khó có thể kiểm soát được nhiệt độ của bản
thân, đặc biệt nếu một đợt sóng nhiệt diễn ra đột
ngột và nghiêm trọng [27]. Một nghiên cứu của
Knowlton và cộng sự đã chỉ ra rằng trong đợt sóng
nhiệt năm 2006 ở California, số trẻ em từ 0 - 4 tuổi
phải tới phòng khám cấp cứu do mất cân bằng điện
giải tăng lên so với những giai đoạn không có sóng
nhiệt [26]. Tác động của các điều kiện nhiệt độ cực
đoan tới sức khỏe của trẻ em chưa được nghiên cứu
một cách đầy đủ, đặc biệt ở những quốc gia đang
phát triển [5].
3.2.2. Nước sạch và các bệnh lây truyền
qua nước
Nước sạch và chất lượng nước
BĐKH làm giảm sự tiếp cận của con người với
nước sạch và các hệ thống vệ sinh, gây ra những hậu
quả nghiêm trọng tới sức khỏe của trẻ em [13].
Theo nghiên cứu của Bates và cộng sự, tác động của
BĐKH theo khu vực sẽ làm cho một nửa dân số
toàn cầu sống gần lưu vực sông bò khan hiếm nước
vào năm 2050 [7]. Thiếu nước sẽ dẫn tới hạn hán
kéo dài làm giảm cả về số lượng và chất lượng của
các nguồn cung cấp nước, từ đó dẫn tới tử vong, suy
dinh dưỡng, các bệnh truyền nhiễm và bệnh đường

hô hấp [13]. Lũ lụt còn có thể dẫn tới nguồn nước
bò ô nhiễm do các kim loại nặng, hoặc các chất độc
hại khác từ các bình chứa hoặc các hóa chất đã tồn
tại trong môi trường như thuốc trừ sâu. Các kim loại
nặng trong đó có chì có thể gây ảnh hưởng lớn tới
sức khỏe trẻ em. Các kim loại nặng và một số chất
độc khác có thể qua nhau thai và còn đi vào sữa mẹ,
làm ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và sự phát triển
của trẻ. Khi trẻ cai sữa mẹ, trẻ có nguy cơ phơi
nhiễm với các chất ô nhiễm có thể có mặt trong sữa
ngoài, nước uống và thực phẩm [20].
Các bệnh lây truyền qua thực phẩm và nước uống
Tiêu chảy là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu
ở trẻ em, hầu hết các ca tử vong là do nước bò ô
nhiễm, điều kiện vệ sinh không đảm bảo. Mỗi năm
có gần 2 triệu em tử vong do bệnh tiêu chảy. BĐKH
được dự đoán sẽ làm tăng tỷ lệ mắc và mức độ trầm
trọng của bệnh tiêu chảy [8, 12]. Một nghiên cứu về
mối liên quan giữa nước sạch và bệnh tiêu chảy
tiến hành ở một số đảo khu vực Thái Bình Dương
đã chỉ ra rằng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đặc biệt dễ bò
tổn thương bởi tiêu chảy [4]. Rotavirus vẫn là
nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tiêu chảy ở trẻ em.
Các yếu tố như nhiệt độ cao, độ ẩm thấp và mực
nước sông cao đã làm tăng tỷ lệ mới mắc của bệnh
tiêu chảy do rotavirus ở Dhaka, Bangladesh [4]. Tỷ
lệ tử vong của trẻ em do tiêu chảy ở các nước có thu
nhập thấp, đặc biệt ở khu vực cận Sahara luôn ở
mức cao mặc dù đã có những cải thiện trong việc
chăm sóc và sử dụng liệu pháp bù nước qua đường

uống. Trẻ em ở khu vực này có thể sống sót sau khi
trải qua các căn bệnh cấp tính nhưng sau đó lại tử
vong do tiêu chảy kéo dài hoặc suy dinh dưỡng [9].
Theo Yoko và cộng sự, trẻ em phải chòu gánh nặng
lớn nhất do bệnh tả ở một số nước như Indonesia,
Ấn Độ và Mozambique [4].
3.2.3. Các bệnh đường hô hấp
BĐKH liên quan tới ô nhiễm không khí ở cả hai
khía cạnh nguyên nhân (thải các khí gây hiệu ứng
nhà kính) và khía cạnh ảnh hưởng (các đợt sóng
nhiệt ở các khu vực đô thò làm tăng nồng độ các chất
ô nhiễm trong không khí) [4]. Một chất gây ô nhiễm
không khí phổ biến là hạt bụi mòn (PM), có mối liên
quan với sự gia tăng các ca bệnh dò ứng và hen
suyễn [14]. Trẻ em đặc biệt dễ bò tổn thương bởi các
bệnh gây ra do ô nhiễm không khí do phổi của trẻ
em còn đang trong giai đoạn phát triển và nhòp thở
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 7
của trẻ em cao hơn người trưởng thành. Phổi của trẻ
chưa phát triển hoàn thiện sẽ khó có thể hồi phục
hoàn toàn sau tổn thương [4]. Tỷ lệ sinh non, trẻ nhẹ
cân, và tử vong sơ sinh đều tăng lên ở những cộng
đồng có nồng độ chất hạt mòn cao [24]. Nhiệt độ
không khí ấm lên thường đi kèm với nồng độ ô zôn
tăng cao. Ô nhiễm ô zôn mặt đất là một chất gây
kích thích phổi, làm ảnh hưởng tới màng nhầy của
hệ hô hấp, các mô phổi và chức năng hô hấp. Phơi
nhiễm với nồng độ cao ô zôn làm tăng số ca nhập
viện do viêm phổi, hen suyễn, viêm mũi dò ứng, và

cả tử vong sơ sinh. Theo đánh giá của Perry và cộng
sự, BĐKH vào những năm 2020 có thể làm tăng số
ca cấp cứu phải nhập viện do hen suyễn của trẻ từ
0 - 17 tuổi ở khu vực trung tâm của thành phố New
York lên khoảng 7,3% [12, 25].
3.2.4. Các bệnh lây truyền qua vector
Sốt rét
Sự phân bố và lây truyền theo mùa của bệnh
sốt rét bò ảnh hưởng bởi BĐKH vì cả vector và kí
sinh trùng (KST) đều nhạy cảm với nhiệt độ [29].
Nhiệt độ ảnh hưởng tới tốc độ phát triển của KST
sốt rét trong vector là muỗi và cả tốc độ phát triển
của muỗi. Số ca sốt rét mới mắc tăng lên ở các vùng
miền núi của Kenya có mối liên quan với lượng
mưa và nhiệt độ tăng cao 3 - 4 tháng trước đó [17].
Theo WHO, hàng năm có từ 350 - 550 triệu ca mắc
sốt rét, trong đó hơn 1 triệu ca tử vong. Do hệ miễn
dòch chưa phát triển hoàn chỉnh nên trẻ em có nguy
cơ tử vong cao hơn, 75% các ca tử vong do sốt rét
xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi [4]. Bệnh sốt rét gây ra
bởi KST Plasmodium, lây truyền từ người này sang
người khác qua vết đốt của muỗi Aonopheles mang
KST. Đây là một vấn đề sức khỏe đặc biệt nghiêm
trọng ở châu Phi, với 20% số ca tử vong của trẻ em
khu vực này là do sốt rét [20]. Theo ước tính của
WHO, ở khu vực cận Sahara có khoảng 250 triệu ca
sốt rét trong đó 90% gây ra bởi Plasmodium
falciparum, dẫn tới 881.000 ca tử vong vào năm
2008, trong đó 80% các ca tử vong này xảy ra ở trẻ
em dưới 5 tuổi [3].

Sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) làm ảnh hưởng
tới 50 - 100 triệu người mỗi năm, và gây ra hàng
chục nghìn ca tử vong ở trẻ em [23]. Những đánh giá
về thay đổi trong giới hạn đòa lý của lây truyền
SXHD tính đến yếu tố BĐKH và dân số đã chỉ ra
rằng 50 - 60% dân số toàn cầu sẽ bò ảnh hưởng bởi
sốt xuất huyết vào cuối thế kỷ 21. SXHD ảnh hưởng
tới tất cả các độ tuổi, tuy nhiên gánh nặng bệnh tật
và phần lớn các ca tử vong do SXHD cao nhất ở
nhóm trẻ em. Ở một số quốc gia châu Á, SXHD là
nguyên nhân hàng đầu dẫn tới các ca nhập viện và
tử vong ở trẻ em [4, 16]. Ước tính có khoảng 1/3 dân
số toàn cầu đang sống ở những khu vực có khí hậu
phù hợp cho sự lây truyền virus dengue. Lượng mưa
cao và nhiệt độ cao có thể làm tăng sự lây nhiễm,
tuy nhiên các nghiên cứu còn chỉ ra rằng hạn hán
cũng có thể là một nguyên nhân do các vật dụng
chứa nước trong gia đình tăng lên, tạo điều kiện
thuận lợi cho môi trường sinh sản của muỗi [9].
3.2.5. Suy dinh dưỡng
BĐKH gây ra các điều kiện thời tiết cực đoan
làm trầm trọng hơn tình trạng suy dinh dưỡng [11].
Các điều kiện thời tiết cực đoan như hạn hán và lũ
lụt làm đe dọa tới năng suất cây trồng và năng suất
chăn nuôi. Do vậy, BĐKH tác động trực tiếp đến an
ninh lương thực và làm trầm trọng hơn tình trạng suy
dinh dưỡng ở trẻ em [22]. Suy dinh dưỡng là nguyên
nhân cơ bản dẫn tới ít nhất 3,5 triệu ca tử vong mỗi
năm, và 1/3 trong số này là trẻ em dưới 5 tuổi. Trẻ

em bò suy dinh dưỡng mạn tính trong vòng 2 - 3 năm
đầu đời có thể bò tăng trưởng chậm và ảnh hưởng
đến khả năng học tập. Trẻ nhẹ cân còn có hệ miễn
dòch yếu nên trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm trùng [11,
20]. Một nghiên cứu đã được tiến hành ở một vùng
sa mạc của Ấn Độ để tìm hiểu tác động của hạn hán
đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em 0 - 5 tuổi.
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em trong nghiên cứu
được đánh giá bởi số liệu nhân trắc học, chế độ ăn
uống và các dấu hiệu lâm sàng của thiếu hụt dinh
dưỡng, và kết quả cho thấy cả suy dinh dưỡng thể
gầy còm và suy dinh dưỡng thể còi cọc, các dấu
hiệu suy dinh dưỡng trong thời gian ngắn và cả
trong thời gian dài [4].
3.2.6. Di cư và tiếp cận với các dòch vụ y tế
cơ bản
Phụ nữ và trẻ em chiếm tỷ lệ lớn trong số những
người mất nơi ở do thiên tai. Sự di dân, thay đổi chỗ
ở thường gây những ảnh hưởng bất lợi cho trẻ em
như làm tăng nguy cơ trẻ bò lạm dụng và buôn bán.
Những gia đình nghèo mất chỗ ở thường phải sống
ở vùng ngoại ô có cơ sở hạ tầng kém, gần với những
khu công nghiệp, tiếp xúc với chất thải độc hại [4].
Tổ chức Bảo vệ Trẻ em của Anh đã ước tính rằng
hàng triệu trẻ em sẽ bò giết hại, và có nguy cơ bò đói,
8 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
bệnh tật, bò lạm dụng cả về thể chất và tình dục khi
di cư [11]. Ngoài ra các can thiệp về y tế chẳng hạn
như tiêm vắc xin (đặc biệt với bệnh sởi) có tác động

quan trọng đến sự sống sót của trẻ em, nhưng thực
tế thì rất khó khăn để tiến hành những can thiệp y
tế này trong nhóm dân số khó quản lý. Trẻ em bò suy
dinh dưỡng và phụ nữ mang thai là những nhóm đối
tượng có nguy cơ cao khi họ di chuyển tới những khu
vực bệnh sốt rét lưu hành. Di dân tạo điều kiện
thuận lợi cho sự lan rộng của kí sinh trùng sốt rét P.
falciparum kháng thuốc chloroquine, đặc biệt ở
những người tò nạn ở Đông Nam Á và Nam Á [4].
3.3. Ứng phó với biến đổi khí hậu
3.1. Thích ứng và giảm nhẹ tác động của
biến đổi khí hậu
Chúng ta chỉ có thể giảm nhẹ và thích ứng với
BĐKH do đây là một quá trình không thể đảo ngược
được. Những nước đang phát triển đang phải đối
mặt với nguy cơ lớn hơn từ BĐKH, nó tác động tới
sự phát triển kinh tế - xã hội và khả năng dễ bò tổn
thương của con người [1, 2]. Hệ thống cảnh báo sớm
các đợt sóng nhiệt đã được thực hiện nhằm cảnh báo
cho người dân và chính quyền về dòch bệnh có thể
bùng phát dựa vào dự báo về thời tiết và môi trường.
Những dự báo theo mùa có thể được sử dụng để tăng
khả năng phục hồi với BĐKH, bao gồm cả thảm họa
liên quan đến thời tiết [9]. Các biện pháp giảm nhẹ
BĐKH phần lớn tập trung vào nguyên nhân gây ra
BĐKH, đó là hạn chế và giảm thiểu sự phát thải các
khí nhà kính. Theo IPCC, cần thiết phải cắt giảm từ
60 - 70% khí thải gây hiệu ứng trên toàn cầu để cân
bằng nồng độ các khí gây hiệu ứng nhà kính trong
khí quyển và hạn chế những thiệt hại cho hệ sinh

thái cũng như các hệ lý sinh khác [27].
3.2. Sự tham gia của trẻ em vào các chương
trình ứng phó với biến đổi khí hậu
Bảng 1 dưới đây là một số hoạt động ứng phó
với BĐKH liên quan đến trẻ em. Các hoạt động này
cần có sự tham gia của trẻ em trong các gia đình,
trường học và ở cộng đồng.
Kết luận và khuyến nghò
Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về tác động
của BĐKH tới sức khỏe con người tại Việt Nam, đặc
biệt chưa có nghiên cứu ở lónh vực tác động của
BĐKH tới sức khỏe của trẻ em. Các nghiên cứu đã
chỉ ra rằng cần ưu tiên nhóm đối tượng trẻ em trong
các biện pháp giảm thiểu nguy cơ chung của cộng
đồng do biến đổi khí hậu. Do vậy, nhóm tác giả có
một số khuyến nghò như sau:
- Các chính phủ và các cơ quan quốc tế, các tổ
chức cần đẩy mạnh hơn nữa các hành
động/chương trình nhằm tiến tới giảm thiểu
lượng khí nhà kính được thải vào khí quyển.
- Cần có các nghiên cứu, các chương trình đánh
giá tác động của BĐKH tới sức khỏe của con
người nói chung, đặc biệt là sức khỏe của trẻ em.
- Lồng ghép các vấn đề của trẻ em vào văn bản
chính sách liên quan đến BĐKH: Các ban ngành
cần phải tham gia vào quá trình hình thành các
văn bản chính sách để đảm bảo rằng các nhu cầu
của trẻ được đáp ứng.
- Tăng cường giáo dục môi trường và kỹ năng
sống cho trẻ.

- Đảm bảo sự tham gia của trẻ em trong những nỗ
lực thích ứng với BĐKH.
Bảng 1. Một số hoạt động ứng phó với BĐKH liên
quan đến trẻ em
Nguồn : UNICEF (2008) [11].
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 9
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo dục ứng phó với
biến đổi khí hậu (tài liệu tập huấn cho cán bộ quản lý ngành
Giáo dục).
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tiếng Anh
3. Aaron S. Bernsteina, b. and d. Samuel S. Myerc (2011),
Climate change and children's health. Curr Opin Pediatr 23:
221 - 226.
4. Akachi, Y., Donna Goodman, David Parker (2009),
Global Climate Change and Child Health: A review of
pathways, impacts and measures to improve the evidence
base, Innocenti Discussion Paper No. IDP 2009-03.
Florence: UNICEF Innocenti Research Centre,
5. Anthony Costello, M. A., Adriana Allen, Sarah Ball,
Sarah Bell, Richard Bellamy, Sharon Friel, Prof Nora Groce
et al (2009), Lancet and Univeristy College London Institute
for Global Health Commission. Managing the health effects
of climate change. The Lancet. 373: 1693-733.
6. Anthony J McMichael PhDa , R. E. W. P., Simon Hales
PhDb (2006), Climate change and human health: present

and future risks. The Lancet. 367(9513): 859-869
7. Bates, B. C., Z.W. Kundzewicz, S. Wu and J.P.
Palutikof, Eds. (2008), Climate change and water.
Technical Paper of Intergovernmental Panel on Climate
Change, IPCC Secretariat, 210
/>d_data_technical_papers.shtml#.T4hyqVF1Cq8 (14th
April 2012)
8. Berkman, D. S., et al. (2002), Effects of stunting,
diarrhoeal disease, and parasitic infection during infancy on
cognition in late childhood: a follow-up study. The Lancet.
359(9306): 564-571.
9. Confalonieri, U., B. Menne, R. Akhtar, K.L. Ebi, M.
Hauengue, R.S. Kovats, B. Revich and A. Woodward
(2007), Human health. Climate Change 2007: Impacts,
Adaptation and Vulnerability. Contribution of Working
Group II to the Fourth Assessment Report of the
Intergovernmental Panel on Climate Change, , O.F.
Canziani M.L. Parry, J.P. Palutikof, P.J. van der Linden and
C.E. Hanson, Cambridge University Press, Cambridge, UK,
391-431,
10. Daniel G. Huber, P. D. Jay Gulledge, and C. f. C. a. E.
Solutions (2011), Extreme weather and climate change:
Understanding the link and managing the risk,
/>sf6/documents/conf12_Extreme-Weather_JayGulledge.pdf
(18th March 2012)
11. Donna L. Goodman, S. I., David Parker, Marta Santos
Pais, et al (2008), Climate Change and Children: A human
security challenge, UNICEF, Innocenti Research Centre,
12. Ebi, K. L. and J. A. Paulson (2010), Climate change and
child health in the United States. Curr Probl Pediatr Adolesc

Health Care. 40(1): 2-18.
13. Elizabeth J Kistin, J. F., 2 Ryan Shaening Pokrasso, 3
Michael McCally, 4 Peter G McCornick5 (2010), Climate
change, water resources and child health. Arch Dis Child.
95: 545-549.
14. EPA (2012), Climate Change and the health of children,
/>htm (20th March 2012)
15. EPA (2009), Technical Support Document for
Endangerment and Cause or Contribute Findings for
Greenhouse Gases under Section 202(a) of Clean Air Act
Climate Change Division , Office of Atmospheric Programs
U.S Environmental Protection Agency, Washington, DC.,
/>ds/TSD_Endangerment.pdf (18th March 2012)
16. Few, R. and P. G. Tran (2010), Climatic hazards, health
risk and response in Vietnam: Case studies on social
dimensions of vulnerability. Global Environmental Change.
20(3): 529-538.
17. Gage, K. L., et al. (2008), Climate and Vectorborne
Diseases. American Journal of Preventive Medicine. 35(5):
436-450.
18. IPCC (2007), Climate Change 2007: The Physical
Science Basis. Contribution of Working Group I to the
Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel
on Climate Change, S. Solomon, D. Qin, M. Manning, Z.
Chen, M. Marquis, K.B. Averyt, M. Tignor and and H.L.
Miller, Cambridge University Press, Cambridge, United
Kingdom and New York, NY, USA
19. IPCC (2007), Summary for Policymakers. In: Climate
Change 2007: The Physical Science Basis. Contribution of
Working Group I to the Fourth Assessment Report of the

Intergovernmental Panel on Climate Change S. [Solomon,
D. Qin, M. Manning, Z. Chen, M. Marquis, K.B. Averyt,
M.Tignor and H.L. Miller (eds.)]. , Cambridge University
Press, Cambridge, United Kingdom and New York, NY,
USA,
10 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
20. J Pronczuk, M N. B., and F Gore, World Health
Organization, Geneva, Switzerland (2011), Children's
Environmental Health in Developing Countries.
21. Kenneth L. Gage, P., Thomas R. Burkot, PhD, Rebecca
J. Eisen, PhD, Edward B. Hayes, MD (2008), Climate and
Vectorborne Diseases. American Journal of Preventive
Medicine. 35 (5): 436-450.
22. Pasricha, S. R. and B. A. Biggs (2010), Undernutrition
among children in South and South-East Asia. J Paediatr
Child Health. 46(9): 497-503.
23. Senior, K. (2008), Climate change and infectious
disease: a dangerous liaison? Lancet Infect Dis. 8(2): 92-3.
24. Shea, K. M. (2007), Global climate change and
children's health. Pediatrics. 120(5): 1359-67.
25. Sheffield, P. E., et al. (2011), Modeling of regional
climate change effects on ground-level ozone and childhood
asthma. Am J Prev Med. 41(3): 251-7; quiz A3.
26. Sheffield, P. E. and P. J. Landrigan (2011), Global
climate change and children's health: threats and strategies
for prevention. Environ Health Perspect. 119(3): 291-8.
27. Supinda Bunyavanich, M. C. P. L., MD, MPH; Anthony
J. McMichael, MBBS, PhD; Paul R. Epstein, MD, MPH
(2003), The impact of Climate Change on Child Health.

Ambulatory Pediatrics. 3: 44-52.
28. UNICEF and I. R. Centre (2008), Impacts of climate
change on children, 9 - 12
cef-
irc.org/publications/pdf/climate_change.pdf (12nd April
2012)
29. Van Lieshout, M., et al. (2004), Climate change and
malaria: analysis of the SRES climate and socio-economic
scenarios. Global Environmental Change. 14(1): 87-99.
30. WHO (2003), Climate change and human heath risks
and responses, ed. D.H. Campbell-Lendrum A.J.
McMichael, C.F. Corvalán, K.L. Ebi, A.K. Githeko, J.D.
Scheraga, A. Woodward.
31. WHO (2008), Protecting Health from Climate Change
- World Health Day 2008 World Health Organization,
/>day/toolkit/report_web.pdf (8th April 2012)

×