Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

chăm sóc, hỗ trợ và điều trị bệnh nhân nhiễm hiv/aids huyện Tiên Du tình Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.43 KB, 8 trang )

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 29
Chăm sóc, hỗ trợ và điều trò cho người nhiễm
HIV/AIDS tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Phạm Thò Cầm Giang (*) và Đỗ Mai Hoa (***)
Chăm sóc, hỗ trợ và điều trò cho người nhiễm HIV/AIDS đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV và góp phần giảm hậu quả do HIV/AIDS gây ra. Để tìm
hiểu thực trạng công tác chăm sóc, hỗ trợ và điều trò cho người nhiễm HIV/AIDS tại Tiên Du, Bắc
Ninh, nghiên cứu đã sử dụng số liệu hồi cứu và phương pháp nghiên cứu đònh tính với các cán bộ y
tế tham gia công tác phòng chống HIV/AIDS và người nhiễm HIV. Kết quả cho thấy, với nguồn lực
hạn chế, Tiên Du đã cung cấp các dòch vụ chăm sóc, hỗ trợ cấp thiết cho người nhiễm HIV/AIDS,
chủ yếu thông qua y tế tuyến xã. Tuy nhiên các dòch vụ này vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại như: cơ
chế phối hợp chuyển gửi giữa các dòch vụ có liên quan chưa chặt chẽ; Không có sự kết nối với Phòng
khám ngoại trú tỉnh - nơi duy nhất thực hiện điều trò thuốc kháng virut (ARV) tại Bắc Ninh; Chất
lượng hoạt động tại tuyến xã chưa đồng đều và chưa đi vào chiều sâu; Dòch vụ chăm sóc, hỗ trợ cho
người nhiễm chưa tận dụng nguồn lực từ cộng đồng và người nhiễm HIV; Công tác chăm sóc, hỗ trợ,
điều trò cho người nhiễm HIV/AIDS chưa được chính quyền và các ban ngành quan tâm. Kết quả trên
cho thấy Tiên Du cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho chương trình chăm sóc và điều trò HIV/AIDS
trong thời gian tới nhằm huy động thêm các nguồn lực cho việc chăm sóc hỗ trợ cho người nhiễm.
Việc thiết lập mạng lưới chăm sóc của những người có H+ là việc nên sớm được thực hiện. Sự gắn
kết giữa các dòch vụ không chỉ trong phạm vi huyện mà với cả những huyện lân cận và tuyến tỉnh sẽ
tạo thuận lợi cho người nhiễm HIV tiếp cận với những dòch vụ chăm sóc, hỗ trợ và điều trò HIV/AIDS
phù hợp và cần thiết.
Từ khóa: HIV/AIDS, Tiên Du, chăm sóc, hỗ trợ, điều trò
Care, support and treatment for people
living with HIV/AIDS in Tien Du district,
Bac Ninh province
Pham Thi Cam Giang (*); Do Mai Hoa (**)
Care, support and treatment for people living with HIV/AIDS (PLHA) play a very important role in
improving PLHA quality of life and reducing HIV/AIDS consequences. In order to assess the HIV/AIDS
care, support and treatment program in Tien Du, Bac Ninh, retrospective data and qualitative


techniques were used in this study with HIV/AIDS health care providers and PLHA. Findings show
30 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
1. Đặt vấn đề
Tiên Du là một huyện đồng bằng nằm ở phía
Tây Nam của tỉnh Bắc Ninh, được mệnh danh là
vương quốc lễ hội với nhiều lễ hội truyền thống
được tổ chức hàng năm. Ngành nghề của người dân
nơi đây chủ yếu là nông nghiệp, cơ cấu nông nghiệp
đan xen với các khu công nghiệp làng nghề. Hiện
nay, huyện đã hình thành một số khu, cụm công
nghiệp, tạo việc làm cho người dân.
Kể từ trường hợp phát hiện nhiễm HIV đầu tiên
tại huyện năm 1996, tính đến cuối năm 2009 huyện
Tiên Du đã có 178 người nhiễm HIV, trong đó 79
trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS và 69
trường hợp tử vong do AIDS. 12/14 xã, thò trấn đã
báo cáo có người nhiễm HIV [1,2]. Tình hình dòch
tại huyện mỗi năm tăng lên đi cùng với sự phức tạp
của tình hình tệ nạn ma túy, mại dâm. HIV mang lại
nhiều tác động tiêu cực đối với bản thân người
nhiễm HIV và gia đình, tới nền kinh tế xã hội và đặc
biệt đối với hệ thống y tế của mỗi quốc gia. Do
HIV/AIDS là tình trạng bệnh mãn tính không thể
chữa khỏi hẳn và đồng thời là một vấn đề xã hội nên
ngoài việc phải chòu đựng những đau đớn, bệnh tật
về mặt thể xác, người nhiễm HIV/AIDS và gia đình
của họ còn phải chòu sự kỳ thò và phân biệt đối xử
của cộng đồng. Do đó, để đảm bảo chất lượng cuộc
sống, giảm nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng và có

khả năng đóng góp cho xã hội, họ cần được chăm
sóc, hỗ trợ cả về mặt thể chất và tinh thần [4,6,7].
Với sự gia tăng số trường hợp nhiễm HIV hàng
năm, nhu cầu được chăm sóc, hỗ trợ và điều trò cho
người nhiễm HIV tại Tiên Du ngày càng cao. Do đó,
việc đánh giá, tìm hiểu hiện trạng chăm sóc, hỗ trợ
và điều trò cho người nhiễm HIV/AIDS là việc cần
thiết để có những đònh hướng phù hợp cho chương
trình trong thời gian sắp tới.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu hiện trạng công tác chăm sóc, hỗ
trợ và điều trò cho người nhiễm HIV/AIDS bao gồm:
mô tả hiện trạng các dòch vụ chăm sóc, hỗ trợ và
điều trò HIV/AIDS; đánh giá sự tiếp cận và sử dụng
dòch vụ của người nhiễm HIV; tìm hiểu nhu cầu và
mối quan tâm của người nhiễm về chăm sóc, hỗ trợ
và điều trò, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp
nghiên cứu đònh tính kết hợp hồi cứu số liệu.
that most of HIV/AIDS care, support and treatment services in Tien Du were offered through commune
health facilities with limited resources. There still remain many difficulties and gaps such as the loose
referral service coordination and mechanism among related facilities, no linkages with the provincial
Outpatient Clinic (OPC) - the unique OPC offering antiretroviral therapy (ARV) in Bac Ninh; poor
operational activity quality at commune level, no mobilization of resources from the community and
PLHA, little concern shown by the local authorities and relevant sectors to care, support and treatment
of PLHA. This study recommends that Tien Du needs to develop a more concrete plan for care and
treatment of PLHA in the coming time to mobilize resources for HIV/AIDS care and treatment. A
network of PLHA should be established in Tien Du as soon as possible. HIV/AIDS care and treatment
services connected to other services should be established not only within the district but also with
the adjacent districts and at the provincial level which will greatly facilitate the PLHA in Tien Du to
access to the needed and appropriate care, support and treatment services.

Key words: HIV/AIDS, Tien Du, care, support, treatment.
Tác giả:
(*) Ths. Phạm Thò Cầm Giang - cán bộ Khoa tư vấn chăm sóc và điều trò - Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS
thành phố Cần Thơ. Đòa chỉ: Số 04 Châu Văn Liêm, P. An Lạc, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ; Điện thoại:
0710. 3820683; Email:
(**) TS. Đỗ Mai Hoa - Trưởng Bộ môn Quản lý hệ thống y tế - Trường Đại học Y tế công cộng.
Đòa chỉ: 138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội. Điện thoại: 04 62662349. E.mail:
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 31
Nghiên cứu đònh tính bao gồm 1 cuộc thảo luận
nhóm với cán bộ phụ trách chương trình AIDS tuyến
xã, 4 cuộc phỏng vấn sâu cán bộ tuyến huyện và
tỉnh, 10 cuộc phỏng vấn sâu người nhiễm HIV thuộc
3 nhóm: 04 người nhiễm đang ở giai đoạn đầu, 04
người nhiễm đang ở giai đoạn sau, đang được điều
trò nhiễm trùng cơ hội (NTCH) (trong đó có 02 người
đang điều trò ARV) và 02 người nhiễm HIV giai
đoạn cuối.
Hồi cứu số liệu bao gồm việc rà soát và tổng
hợp thông tin từ các sổ sách và báo cáo về tình hình
chăm sóc, hỗ trợ và điều trò HIV/AIDS.
Quy trình thu thập số liệu: nhóm nghiên cứu
phối hợp cùng Trung tâm y tế (TTYT) huyện Tiên
Du tiến hành sắp xếp các buổi phỏng vấn sâu cán
bộ y tế tại huyện và tỉnh tại nơi làm việc, tổ chức
thảo luận nhóm với 06 cán bộ phụ trách chương
trình AIDS tuyến xã tại TTYT và phỏng vấn sâu
người nhiễm HIV tại hộ gia đình. Tất cả các cuộc
thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu đều được ghi âm,
gỡ băng, và phân tích theo nhóm chủ đề. Các kỹ

thuật tổng hợp, so sánh và đối chiếu số liệu từ các
đối tượng nghiên cứu khác nhau cũng được áp dụng
nhằm tăng cường chất lượng và sự phong phú của
các thông tin thu thập được.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Tình hình dòch HIV/AIDS tại huyện
Tiên Du
Theo báo cáo kết quả hoạt động phòng, chống
AIDS của Ban chỉ đạo Phòng, chống AIDS và
phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm huyện Tiên
Du, tính đến 31/12/2009:
Tích lũy số người nhiễm HIV: 178
Tích lũy số trường hợp
chuyển thành AIDS: 79
Tích lũy trường hợp tử vong do AIDS: 69
Số trường hợp còn sống và được quản lý: 51
Huyện Tiên Du có 13 xã và 1 thò trấn, 12/14 xã
thò trấn đã báo cáo về các trường hợp nhiễm HIV,
trong đó số trường hợp nhiễm HIV tập trung cao ở
3 xã: Lạc Vệ, Liên Bão và Tân Chi.
Trong số các ca nhiễm được báo cáo, nam giới
chiếm 69% (120 người) (Biểu đồ 1) và 79,2% (142
người) ở độ tuổi từ 20 -39 tuổi (Biểu đồ 2). Trong
những năm gần đây, số người trẻ nhiễm HIV có xu
hướng gia tăng và sự lây truyền qua đường tình dục
khác giới cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn.
Biểu đồ 3 cho thấy tiêm chích ma túy là con
đường lây nhiễm chính tại huyện với 47% (84
người). Theo cán bộ phụ trách chương trình AIDS
huyện, số trường hợp nhiễm là những người tiêm

chích ma túy được dự báo là sẽ tiếp tục có ảnh
hưởng đến sự gia tăng dòch HIV do tình hình ma túy
trên đòa bàn huyện đang diễn ra phức tạp. Bên cạnh
đó, lây nhiễm HIV trong quần thể nam giới và nam
mua dâm sẽ có chiều hướng gia tăng do sự phát
triển của các khu công nghiệp mới tại huyện. Mặc
dù số lượng người bán dâm nhiễm HIV tại huyện
không cao, nhưng sự lây lan từ nhóm này sang
khách làng chơi sẽ thúc đẩy sự lây truyền HIV từ
chồng sang vợ.
3.2. Nguồn lực cho công tác chăm sóc,
hỗ trợ và điều trò HIV/AIDS tại huyện
Tính đến tháng 12/2009, 100% cán bộ tham gia
công tác phòng chống HIV/AIDS từ huyện đến xã
Biểu đồ 1. Tình hình nhiễm HIV theo giới.
Biểu đồ 2. Tình hình nhiễm HIV theo nhóm tuổi
Biểu đồ 3. Tình hình nhiễm HIV theo nhóm đối
tượng xét nghiệm
32 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
đều là kiêm nhiệm, đặc biệt cán bộ phụ trách
chương trình tại xã là các Trưởng trạm y tế. Hầu hết
các hoạt động tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ cho tất cả
người nhiễm HIV trong một xã đều do Trạm trưởng
trạm y tế xã đảm nhiệm. Với những xã có lượng
người nhiễm tập trung cao (như xã Tân Chi, Lạc Vệ)
thì đây là một khó khăn lớn.
Số lượng cộng tác viên tuyến xã trung bình 2
người/xã góp phần hỗ trợ công tác tiếp cận, truyền
thông tuyến cơ sở. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của

cộng tác viên chỉ là truyền thông và hỗ trợ khi cần,
kỹ năng chăm sóc y tế không cao do đó, công tác
chăm sóc, hỗ trợ, chuyển tuyến vẫn do cán bộ phụ
trách tại xã đảm nhiệm chính.
Sự tham gia của các ban ngành đoàn thể vào
công tác phòng, chống HIV/AIDS tại huyện trong
những năm gần đây được quan tâm đáng kể. Một số
ban ngành đã chủ động liên lạc và phối hợp tổ chức
các cuộc truyền thông như Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, công an huyện,… Tuy nhiên, ban ngành vẫn
đang dừng lại ở công tác thông tin, truyền thông và
giáo dục sức khỏe, chưa tham gia vào việc chăm
sóc, hỗ trợ cho người nhiễm HIV, đặc biệt là chưa
có hỗ trợ nghề nghiệp, hỗ trợ vốn.
Kinh phí hoạt động của Chương trình phòng,
chống HIV/AIDS huyện Tiên Du được hỗ trợ chính
từ Chương trình mục tiêu quốc gia. Bên cạnh đó,
huyện được sự hỗ trợ của dự án Life-Gap để thành
lập Phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Lao-HIV.
Theo Giám đốc Trung tâm y tế huyện Tiên Du,
nguồn kinh phí cho chương trình hiện nay quá thấp
gây nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy các hoạt
động, đặc biệt là kinh phí hỗ trợ cán bộ y tế và kinh
phí hỗ trợ chăm sóc người nhiễm HIV.
3.3. Hiện trạng các dòch vụ chăm sóc, hỗ
trợ và điều trò HIV/AIDS tại huyện (phía
cung cấp dòch vụ)
Với nguồn lực hạn hẹp, những năm gần đây
Trung tâm y tế huyện Tiên Du đã nỗ lực đưa các
dòch vụ y tế cần thiết đến với người nhiễm HIV trên

đòa bàn. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết chương
trình phòng, chống AIDS năm 2009 của huyện, tỉ
lệ người nhiễm HIV được tiếp cận và sử dụng dòch
vụ chăm sóc, hỗ trợ và điều trò tại huyện Tiên Du
vẫn chưa cao, với tổng số 109 người nhiễm HIV tại
đòa phương, huyện chỉ quản lý được 60 người và lập
sổ theo dõi sức khỏe cho 51 người.
Cụ thể, các dòch vụ đã được cung cấp như sau:
- Tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VCT): phòng
VCT được đặt tại Trung tâm Y tế huyện. Với sự tài
trợ của dự án Life Gap tất cả bệnh nhân lao đều
được tầm soát HIV. Đối với các đối tượng nguy cơ
(mà không phải là bệnh nhân lao) thì được tư vấn
và xét nghiệm theo kinh phí của chương trình mục
tiêu quốc gia (CTMTQG).
- Dự phòng lây truyền HIV: Huyện chưa có các
nhóm đồng đẳng viên. Nguồn BKT, BCS được phân
bổ từ Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS, huyện
cấp về Trạm y tế xã để cấp phát đến các đối tượng
có nguy cơ. Tuy nhiên số lượng rất hạn chế.
- Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con: Bà
mẹ mang thai được tư vấn, lấy mẫu máu tại TTYT
huyện. Điều trò dự phòng lây truyền từ mẹ sang con
được thực hiện tại tuyến tỉnh.
- Điều trò thuốc kháng virus (ARV) và nhiễm
trùng cơ hội: dòch vụ này được cung cấp miễn phí
tại PKNT tỉnh với sự tài trợ của CDC/Life Gap.
Việc hỗ trợ tuân thủ điều trò do cán bộ tư vấn tại
PKNT thực hiện, không có sự hỗ trợ của các nhóm
cộng đồng khác. Tại huyện, người nhiễm bò các

bệnh NTCH chỉ được khám và điều trò miễn phí khi
có thẻ bảo hiểm.
- Chăm sóc, tư vấn, hỗ trợ tại nhà và cộng đồng:
dòch vụ này do cán bộ phụ trách xã cung cấp. Hoạt
động được lồng ghép các buổi thăm hỏi tại nhà để
tư vấn, hướng dẫn thêm cho người thân trong gia
đình cách chăm sóc người nhiễm HIV, tư vấn về
dinh dưỡng.
- Các biện pháp chăm sóc y tế bổ sung và thay
thế (nhóm hỗ trợ người nhiễm, hỗ trợ xã hội,….): một
vài người nhiễm HIV tại Tiên Du đang tham gia
nhóm Vì ngày mai tươi sáng của tỉnh Bắc Ninh tuy
nhiên hoạt động hỗ trợ nhóm vẫn chưa được hình
thành tại huyện. Các hỗ trợ xã hội khác như: hỗ trợ
phát triển sinh kế, dinh dưỡng, hỗ trợ mai táng,…
cũng chưa được triển khai mạnh mẽ.
Với nguồn lực hạn chế, huyện đã cố gắng cung
cấp nhiều dòch vụ cần thiết đến với người nhiễm
HIV, tuy nhiên hoạt động của các dòch vụ vẫn còn
nhiều hạn chế và nhiều vấn đề tồn tại:
Như đã đề cập ở trên, các hoạt động chăm sóc,
hỗ trợ và điều trò những người nhiễm HIV/AIDS
chủ yếu do trạm trưởng các trạm y tế xã đảm nhiệm
nên họ ít có thời gian để tư vấn, chăm sóc cũng như
theo dõi tình trạng bệnh của người nhiễm. Các buổi
tư vấn, hỗ trợ chưa đi vào chiều sâu và thường chỉ
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 33
tập trung nhiều cho những người mới phát hiện bò
nhiễm HIV/AIDS.

"Đối với những đối tượng mới, chúng tôi tiếp
cận, tư vấn nhiều lần, giới thiệu đến VCT, PKNT.
Những đối tượng cũ, đã quen nên thường khi họ có
vấn đề gì sẽ liên lạc với chúng tôi."(cán bộ y tế xã)
Với tình trạng trên, việc tư vấn, chăm sóc hỗ trợ
tại xã cho những người đã được phát hiện nhiễm
HIV/AIDS lâu thường bò bỏ ngỏ. Bên cạnh đó, cán
bộ y tế tuyến huyện và xã chưa được tập huấn về
thuốc ARV và kỹ năng tư vấn tuân thủ điều trò tại
cộng đồng, do đó vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi
cần tư vấn, hỗ trợ cho những người nhiễm đang điều
trò ARV.
"Khi biết bệnh nhân đang điều trò ARV, cán bộ
chuyên trách xã đôi khi muốn hỗ trợ tuân thủ điều
trò cũng gặp khó khăn vì họ chưa được tập huấn về
thuốc và cách tư vấn như thế nào" (Cán bộ phụ trách
chương trình AIDS huyện).
Nguồn thuốc NTCH miễn phí tại huyện chưa có,
người nhiễm khi có vấn đề về sức khỏe thường đến
Trạm y tế xã gặp cán bộ phụ trách để được khám
và kê đơn, sau đó phải tự đi mua thuốc nếu không
có thẻ bảo hiểm.
"Tại xã không có thuốc NTCH miễn phí, thường
thì chò khám và kê toa miễn phí, nếu người bệnh có
thẻ bảo hiểm thì mới được lấy thuốc không trả tiền,
không thì vẫn phải mua thuốc"(Cán bộ phụ trách
chương trình AIDS tại xã)
May mắn là tại một số xã đã kết hợp với các
chương trình khác cấp thẻ bảo hiểm cho người
nghèo đã chọn một số người nhiễm có gia cảnh khó

khăn để cấp thẻ.
"Khi có đợt cấp thẻ bảo hiểm cho người nghèo,
tôi cũng để ý ưu tiên cho một số người nhiễm nghèo
tại xã, nhưng tất nhiên không phải ai cũng được, số
lượng cũng hạn chế lắm" (cán bộ phụ trách chương
trình AIDS tại xã)
Các dòch vụ có liên quan tại huyện cũng như
tỉnh đang hoạt động khá độc lập, chưa có sự kết nối
chặt chẽ để hỗ trợ cho nhau. Vai trò điều phối trong
công tác chuyển gửi, chuyển tuyến chưa được quan
tâm dẫn đến hoạt động của các dòch vụ rời rạc, chất
lượng chưa cao.
Phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VCT) đặt
tại TTYT huyện Tiên Du với số lượng khách hàng
4-5người/tháng, quá thấp so với chỉ tiêu 40 khách
hàng/tháng. Nguồn khách hàng chủ yếu do cộng tác
viên (CTV) và cán bộ phụ trách tuyến xã giới thiệu
đến, tuy nhiên việc chuyển gửi này thực hiện khá
hình thức, sự phối hợp giữa bên chuyển và bên nhận
chưa nhòp nhàng và đồng nhất do chưa có cơ chế
phối hợp rõ ràng.
"…CTV hay cán bộ trạm y tế có giới thiệu đối
tượng có nguy cơ đến phòng VCT của chúng tôi,
nhưng số lượng ít lắm… nhiều khi gần cuối tháng
chúng tôi phải gọi xuống trạm để nhờ họ dẫn người
lên vì ít người đến phòng VCT quá…" (Cán bộ phụ
trách phòng VCT)
Phòng khám ngoại trú (PKNT) tỉnh Bắc Ninh là
nơi duy nhất trên đòa bàn tỉnh Bắc Ninh thực hiện
điều trò ARV cho toàn tỉnh. Phòng khám làm việc

khá độc lập và không có sự liên kết với phòng VCT,
cán bộ phụ trách chương trình AIDS tại tuyến
huyện/xã và các cơ sở khác. Tất cả các thông tin
liên quan đến bệnh nhân đều được bảo mật kể cả số
liệu thống kê.
"Không cần biết bệnh nhân từ đâu đến, cứ nhiễm
HIV là chúng tôi tiếp nhận. Chúng tôi không quan
tâm bệnh nhân được ai giới thiệu đến. Bệnh nhân đến
đây được bảo mật thông tin hoàn toàn, chúng tôi
không cung cấp hay trao đổi thông tin với bất cứ đơn
vò nào khác ngoài Ban quản lý dự án"(Bác só phụ
trách PKNT)
Theo cán bộ phụ trách PKNT, mỗi bệnh nhân
khi đến đây đều được ký vào bản cam kết bảo mật
thông tin, dựa vào bản cam kết này, phòng khám có
chủ trương hoạt động hoàn toàn độc lập, không có
sự liên kết, phối hợp, trao đổi thông tin nào giữa
PKNT với các tuyến quận/huyện hoặc các đơn vò có
liên quan. Sự cứng nhắc trong việc phối hợp dẫn
đến sự khó khăn trong công tác hỗ trợ tuân thủ điều
trò tại phòng khám cũng như công tác chăm sóc hỗ
trợ tại cộng đồng.
"Chúng tôi không trao đổi hay phối hợp gì với
các nhóm hay cán bộ ngoài PKNT vì như thế là vi
phạm cam kết bảo mật thông tin với bệnh nhân. Bệnh
nhân ra khỏi PKNT muốn thông báo cho ai nữa thì
đó là quyền cá nhân của họ, chúng tôi không can
thiệp vào" (Bác só phụ trách PKNT)
Hiện nay, vấn đề tuân thủ điều trò của bệnh
nhân tại PKNT đang là một tồn tại lớn, tỉ lệ không

tuân thủ điều trò tại PKNT hơn 40%, tập trung cao
ở đối tượng tiêm chích ma túy. Tư vấn tuân thủ điều
trò tại PKNT dường như chưa đủ về chất lẫn về
lượng để hỗ trợ bệnh nhân tuân thủ điều trò.
34 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
"Người nhiễm HIV có tiêm chích ma túy thường
không tuân thủ điều trò, chúng tôi ở đây cũng tư vấn
nhiều lần, nhắc đi nhắc lại nhưng họ vẫn thế, lâu lâu
lại hết thuốc không đúng ngày. Chúng tôi cũng đành
chòu, không thể không phát thuốc tiếp cho họ" (Bác
só phụ trách PKNT)
Với hoạt động khép kín như vậy, tuyến huyện
hầu như không nắm bắt được số lượng bệnh nhân
của huyện mình đang điều trò ARV tại PKNT tỉnh
là bao nhiêu.
"Huyện không nắm rõ chính xác số người nhiễm
đang được điều trò ARV vì huyện không trực tiếp điều
trò, PKNT họ mới biết nhưng chưa có sự trao đổi
thông tin, số liệu với họ được" (Cán bộ phụ trách
chương trình AIDS huyện)
Người nhiễm HIV khi có các dấu hiệu chuyển
giai đoạn (theo quan sát của cán bộ chuyên trách
xã) cán bộ phụ trách mới chuyển gửi lên PKNT để
được chẩn đoán điều trò ARV. Khi đã chuyển bệnh
nhân đến PKNT, tuyến huyện cũng như xã không
nắm bắt được quá trình điều trò tiếp sau đó của bệnh
nhân, điều này dẫn đến việc hỗ trợ tuân thủ điều trò,
chăm sóc bò hạn chế.
"Bệnh nhân khi đã được chuyển lên PKNT,

chúng tôi không nắm được tình hình điều trò của
bệnh nhân trên đó nữa, chỉ khi gặp bệnh nhân, họ nói
thì mình mới biết thôi" (Cán bộ chuyên trách xã)
Công tác chăm sóc, hỗ trợ cuối đời cho bệnh
nhân AIDS chưa được quan tâm, chú trọng. Huyện
chưa tìm được các nguồn hỗ trợ cho bệnh nhân
AIDS cũng như gia đình như mai táng, hỗ trợ tâm
linh,…khi bệnh nhân tử vong.
"Trước đây chương trình mục tiêu quốc gia cũng
có một chút chi phí hỗ trợ mai táng cho bệnh nhân
AIDS, nhưng năm nay thì không còn. Chúng tôi cũng
gặp khó khăn trong việc huy động các ban ngành góp
phần hỗ trợ cho gia đình bệnh nhân…" (Lãnh đạo
TTYT huyện)
Nhìn chung, trong những năm gần đây, công tác
chăm sóc, hỗ trợ và điều trò cho người nhiễm HIV
đã được ngành y tế huyện quan tâm hơn. Tuy nhiên
với nguồn lực hạn chế, mọi hoạt động hầu hết do
ngành y tế thực hiện, đặc biệt là cán bộ tuyến xã.
Các dòch vụ được triển khai một cách riêng lẻ, chưa
có sự phối hợp, sự tham gia của các ban ngành đoàn
thể còn hạn chế nên chưa tạo được một mạng lưới
bao phủ trên đòa bàn huyện.
3.4 . Nhu cầu, mối quan tâm và sự tiếp cận
dòch vụ chăm sóc, hỗ trợ và điều trò của
người nhiễm HIV
Nhu cầu về hỗ trợ tinh thần: nhu cầu được chia
sẽ, đồng cảm từ những người cùng cảnh ngộ được
người nhiễm quan tâm. Một số người nhiễm đã và
đang sinh hoạt tại các câu lạc bộ/nhóm bạn giúp bạn

đều cho rằng đây là hình thức phù hợp, mang lại sự
thoải mái về tinh thần cho người nhiễm.
"Mình thấy những người cùng cảnh ngộ sẽ dễ
thông cảm với nhau hơn, mình không sinh hoạt trong
nhóm nào nhưng mình cũng đã đến động viên, an ủi
1 vài người giống mình, họ gặp mình là khóc và kể
rất nhiều chuyện, những chuyện đó mình đã từng trải
qua nên rất đồng cảm" (Người nhiễm xã Hoàng Sơn)
"Em có sinh hoạt trong nhóm Vì ngày mai tươi
sáng ở Bắc Ninh, thấy các anh chò trong nhóm rất
nhanh nhẹn, em cũng vài lần đi đến những người
giống mình để động viên rồi nhờ chò trưởng nhóm hỗ
trợ, giới thiệu đến những chỗ khác. Em thấy sinh
hoạt vậy rất bổ ích" (Người nhiễm xã Cảnh Hưng)
Hiện tại, người nhiễm ở giai đoạn mới phát hiện
thường được cán bộ chuyên trách xã đến tư vấn, hỗ
trợ để vượt qua khủng hoảng ban đầu, giới thiệu đến
VCT huyện. Đối với người nhiễm thì cán bộ y tế xã
đã trở thành một điểm tựa cho họ.
"Cũng nhờ mấy anh đến khuyên giải, động viên
nhiều lần tôi mới dần dần vượt qua được cú sốc này.
Bây giờ sống chỉ nghó đến con thôi, đó là niềm vui
sống của tôi" (Người nhiễm HIV xã Minh Đạo)
Tư vấn về dinh dưỡng, cách chăm sóc bản thân
và dự phòng lây nhiễm HIV được cán bộ y tế và
cộng tác viên tuyến xã lồng ghép và các buổi đến
thăm hộ gia đình để hướng dẫn về cách ăn uống,
sinh hoạt trong gia đình để tránh lây nhiễm cho
người thân. Người nhiễm cũng được phát một cuốn
sổ hướng dẫn cách chăm sóc cho người nhiễm HIV

tại gia đình và cộng đồng.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, người
nhiễm HIV tại huyện Tiên Du đã được sự quan tâm
của ngành y tế huyện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất
cập trong công tác chăm sóc, tư vấn gây nên những
hoang mang trong cuộc sống của người nhiễm. Tư
vấn chưa đi vào chiều sâu, tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của người nhiễm để cung cấp dòch vụ đúng
nhu cầu.
"Tôi muốn cho con đi xét nghiệm xem cháu có bò
nhiễm không, mấy chò cũng dẫn cháu đi xét nghiệm
nhưng không thấy cho hay kết quả, tôi hỏi nhiều lần
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 35
lắm thì mấy chò mới cho biết là cháu không nhiễm,
tôi lo mấy chò sợ tôi bò sốc nên nói cho tôi yên tâm.
Thế là tôi nhờ người quen dẫn cháu lên Hà Nội xét
nghiệm lại, may quá kết quả âm tính" (Người nhiễm
xã Tân Chi)
Trẻ em nhiễm HIV và chòu ảnh hưởng bởi HIV
chưa được sự quan tâm của chính quyền đòa phương,
đa phần các em gặp nhiều khó khăn trong việc đến
trường và dinh dưỡng.
"Cháu nó học lớp 4 rồi, mấy năm trước năm nào
cũng được học sinh giỏi, năm nay sức khỏe cháu yếu
hơn, nhà cũng khó khăn không đủ điều kiện dinh
dưỡng thêm cho cháu nên cháu bệnh liên tục, kết quả
học hành cũng giảm sút" (Người nhiễm xã Tân Chi).
Do huyện chưa có nguồn thuốc điều trò NTCH
miễn phí nên người nhiễm HIV/AIDS tại Tiên Du

vẫn phải tự chi trả chi phí điều trò các bệnh NTCH
nếu họ không có thẻ bảo hiểm, hoặc chưa được điều
trò ARV tại PKNT tỉnh. Phần lớn người nhiễm HIV
tại huyện có hoàn cảnh khó khăn, không có bảo
hiểm y tế, do đó họ rất mong nhận được sự hỗ trợ,
chăm sóc sức khỏe và điều trò miễn phí. Bệnh nhân
giai đoạn cuối thường gặp khó khăn trong sinh hoạt,
đôi khi cuộc sống của họ phải hoàn toàn dựa vào sự
chăm sóc của người khác.
"Lúc chồng tôi bệnh nặng, không đi lại được
nữa, chỉ mỗi mình tôi chăm sóc anh ấy, nhà đơn
chiếc quá. Giờ chồng mất, 2 mẹ con nương tựa nhau
sống, tôi chỉ lo sau này tôi mà trở bệnh thì không biết
phải làm sao vì con còn nhỏ quá" (Người nhiễm xã
Tân Chi)
Thêm vào đó, gia đình và người thân luôn là
chỗ dựa của những người nhiễm HIV, do đó, ngoài
việc tư vấn cho người nhiễm thì việc truyền thông,
tư vấn và chia sẻ với gia đình người nhiễm để tạo
một nền tảng tinh thần vẫn chắc cho người nhiễm
tại gia đình là việc làm cần thiết:
"…nếu ba mẹ chồng mà không thông cảm, thương
yêu em thì chắc em chết lâu rồi… em thấy mình cũng
cần truyền thông cho gia đình, người thân của bệnh
nhân để họ thông cảm, chia sẻ với bệnh nhân vì sống
chung một nhà mà không thương yêu nhau thì sao
sống nổi…" (Người nhiễm xã Tân Chi).
Nhu cầu hỗ trợ về vật chất: hỗ trợ về vốn cũng
như hỗ trợ đònh hướng nghề nghiệp thật sự cần thiết
cho người nhiễm hiện nay tại huyện.

"Mấy lần gặp mấy chò ở trạm y tế em đều xin khi
nào có nguồn nào thì cho em vay ít vốn để em nuôi
gà tại nhà kiếm thêm thu nhập"(Người nhiễm xã
Tân Chi).
"Từ ngày biết mình bò nhiễm HIV, sức khỏe cũng
không như trước nên mình không đi làm thợ hồ được
nữa, 2 vợ chồng cũng mong được vay ít vốn để mở
cái tạp hóa nhỏ ở nhà để nuôi con"(Người nhiễm xã
Minh Đạo).
Ngoài ra, nhu cầu được nắm bắt các thông tin
liên quan đến dòch vụ cũng được sự quan tâm của
người nhiễm, giúp họ chủ động hơn trong việc tiếp
cận và sử dụng dòch vụ.
"Thời gian mới phát hiện mình bò bệnh, chò
hoang mang lắm, tự mình đi lên Hà Nội tìm hiểu mấy
chỗ điều trò bệnh, vất vả lắm. Bây giờ thì được mấy
chò ở trạm giúp đỡ, nhưng nếu có mấy tờ rơi hay đòa
chỉ những nơi chăm sóc cho người nhiễm ở đòa
phương thì sẽ tiện hơn, với lại khi mình muốn giới
thiệu cho những người giống mình thì cũng biết nơi
để chỉ" (Người nhiễm xã Tân Chi).
4. Bàn luận
Nhìn chung, hoạt động chăm sóc, hỗ trợ và điều
trò tại nhà cho người nhiễm HIV tại huyện Tiên Du
mới đáp ứng được một phần nhu cầu chăm sóc cấp
thiết của người nhiễm HIV/AIDS trên đòa bàn. Tỉ lệ
người nhiễm HIV được tiếp cận và sử dụng dòch vụ
chăm sóc, hỗ trợ và điều trò tại huyện Tiên Du vẫn
chưa cao, với tổng số 109 người nhiễm HIV tại đòa
phương, huyện chỉ quản lý được 60 người và lập sổ

theo dõi sức khỏe cho 51 người. Nhiều bất cập và
tồn tại trong công tác tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người
nhiễm dẫn đến việc hạn chế sự tiếp cận các dòch vụ.
Sự điều phối, gắn kết các dòch vụ trên đòa bàn
huyện và tỉnh chưa hiệu quả, từng dòch vụ đang hoạt
động rời rạc, không có sự liên kết hoặc có nhưng
chưa chặt chẽ. VCT, PKNT và cả y tế tuyến xã
không có thông tin phản hồi cho nhau khi thực hiện
các hoạt động chuyển gửi, đặc biệt là PKNT tuyến
tỉnh - nơi duy nhất tại tỉnh Bắc Ninh thực hiện điều
trò ARV. HIV/AIDS luôn cần sự phối hợp thực hiện
đa ngành, từ phòng khám đến cộng đồng. Tuy
nhiên, sự cứng nhắc trong quản lý và điều phối của
PKNT dẫn đến việc thiếu phản hồi với các cán bộ
tuyến cơ sở, từ đó hạn chế việc tiếp cận và sử dụng
dòch vụ điều trò của người nhiễm HIV. Hỗ trợ tại
cộng đồng là hoạt động cần thiết cho người nhiễm,
đặc biệt là những bệnh nhân điều trò ARV, tuy nhiên
nếu không nắm được tình hình điều trò thì tuyến cơ
sở khó mà hỗ trợ được cho bệnh nhân. Vì vậy, một
36 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
hội thảo chuyển tuyến là điều cần thiết thực hiện để
tìm tiếng nói chung giữa các dòch vụ liên quan, đồng
thời cũng cần nâng cao vai trò điều phối của cán bộ
phụ trách chương trình AIDS tại huyện thông qua
các buổi họp giao ban với các dòch vụ có liên quan
tại huyện. Mạng lưới dòch vụ chăm sóc hỗ trợ và
điều trò cho người nhiễm cần được liên kết chặt chẽ
và rộng khắp sẽ giúp tăng số lượng người nhiễm

được tiếp cận các dich vụ này tại đòa phương.
Chất lượng của từng dòch vụ chưa đồng đều ở
mỗi nơi. Tại một số xã, công tác tư vấn, chăm sóc
cho người nhiễm được thực hiện khá chu đáo, cán
bộ trạm y tế trở thành điểm tựa của nhiều người
nhiễm HIV. Tuy nhiên, vẫn có một số xã chưa có sự
quan tâm đến công tác này, việc tư vấn, hỗ trợ
thường chỉ được thực hiện ở giai đoạn tiếp cận
trường hợp mới, sau đó thường khi người nhiễm có
vấn đề gì về sức khỏe sẽ tự tìm đến cán bộ trạm.
Việc tư vấn, hướng dẫn cho người nhiễm HIV và gia
đình cũng chưa đi vào chiều sâu, đáp ứng theo nhu
cầu dẫn đến sự hoang mang, lo lắng cho người
nhiễm HIV. Sự quan tâm, giám sát hỗ trợ của tuyến
huyện cho tuyến xã để có sự hỗ trợ kòp thời về mặt
chuyên môn như tập huấn bổ sung, cung cấp tài
liệu,… sẽ giúp công tác chăm sóc, hỗ trợ HIV/AIDS
tại tuyến cơ sở có chất lượng tốt hơn.
Nguồn tiếp cận, chăm sóc và hỗ trợ người
nhiễm HIV tại Tiên Du chưa đa dạng. Hiện nay
nguồn tiếp cận chủ yếu dựa vào cán bộ y tế xã
nhưng với sự kiêm nhiệm của các Trưởng trạm y tế
thì việc đảm bảo 100% người nhiễm tại xã sẽ là một
thách thức đối với những xã có số người nhiễm cao
như Tân Chi, Hoàng Sơn,… Bên cạnh đó, người
nhiễm còn có tâm lý e ngại tiếp xúc với cán bộ y tế.
Phỏng vấn cán bộ y tế và người nhiễm HIV đều cho
rằng nếu có nhóm bạn giúp bạn của những người
cũng hoàn cảnh thì việc tiếp cận cũng như chăm
sóc, hỗ trợ sẽ dễ dàng hơn vì những người nhiễm với

nhau sẽ dễ chia sẻ, thông cảm và tạo được sự tin
tưởng cho nhau. Hiện nay tại Tiên Du mới chỉ có
một vài người nhiễm HIV đang là hội viên của Câu
lạc bộ (CLB) Vì ngày mai tươi sáng Bắc Ninh, đây
sẽ là nguồn lực chủ chốt để Tiên Du bước đầu có thể
thành lập nhóm bạn giúp bạn tại huyện và sẽ là cầu
nối đắc lực cho các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ
tuyến xã, huyện cũng như kết nối với CLB tỉnh, từ
đó các dòch vụ cũng sẽ được cung cấp với độ bao
phủ cao.
Hoạt động phòng, chống HIV/AIDS của các ban
ngành tại huyện vẫn đang dừng ở mức độ truyền
thông trong khi đó công tác hỗ trợ người nhiễm như:
bảo hiểm y tế, trẻ đến trường, vay vốn, hỗ trợ mai
táng,… rất cần sự phối hợp của ban ngành đoàn thể
có liên quan. Hội thảo chuyển tuyến với sự tham gia
của đại diện ban ngành đồng thời thành lập Ban
điều phối chuyển tuyến cấp huyện với sự tham gia
đại diện của các dòch vụ, ban ngành cũng sẽ giúp
ban ngành đoàn thể hiểu rõ hơn về công tác chăm
sóc, hỗ trợ người nhiễm và đưa ra các phương hướng
phối hợp cụ thể.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. BCĐ.PC AIDS và PC TNMT-MD huyện Tiên Du (2009),
Báo cáo kết quả hoạt động Phòng, chống AIDS 6 tháng đầu
năm 2009 và phương hướng hoạt động 6 tháng cuối năm.
2. Ban chỉ đạo phòng chống AIDS và PC TNMT-MD huyện
Tiên Du (2009), Báo cáo kết quả hoạt động Phòng, chống
AIDS năm 2009 và phương hướng hoạt năm 2010.

3. Bộ Y tế (2006), Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra
hội chứng suy giảm miễn dòch mắc phải ở người
(HIV/AIDS), Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2008), Chương trình phòng chống HIV/AIDS tại
Việt Nam, NXB Y học.
5. Cục phòng chống HIV/AIDS (2010), Tình hình nhiễm
HIV trong toàn quốc q III/2009, ,
Thời gian truy cập: ngày 05 tháng 02 năm 2010
6. Đỗ Mai Hoa và cộng sự (2009), Mô hình chăm sóc và hỗ
trợ cho những người có H tại quân Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng, Tạp chí y tế công cộng, 13(1), (Trang 32-37)
7. Nguyễn Phương Thuỳ (2009), Tổng quan tài liệu: Đánh
giá tổng quan về thực trạng chăm sóc liên tục toàn diện cho
người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam và các nước đang phát
triển. Hà Nội.
Tiếng Anh
1. Thomas Rehle, Stephen Mills, Robert Magnani (2006),
Evaluating Programs for HIV/AIDS Prevention and Care in
Developing Countries Family International Health
2. Ian J Hodgson Andrew S Furber, Alice Desclaux, David
S Mukasa (2004), Barriers to better care for people with
AIDS in developing countries. BMJ, 329: p. 1281-1283.

×