BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ HOÀNG PHÚC
TÁC ĐỘNG CỦA TÀI SẢN TRÍ TUỆ ĐẾN TỐC
ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ QUỐC GIA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ HOÀNG PHÚC
TÁC ĐỘNG CỦA TÀI SẢN TRÍ TUỆ ĐẾN TỐC
ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ QUỐC GIA
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HAY SINH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: “Tác động của tài sản
trí tuệ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia” này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Hay Sinh.
Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chính xác trong phạm
vi hiểu biết của tôi.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực của đề tài
nghiên cứu này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014
Học viên
LÊ HOÀNG PHÚC
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục hình ảnh
Tóm tắt
Chương 1 – TỔNG QUAN 1
1.1. Nguyên nhân chọn đề tài 1
1.2. Ý nghĩa của đề tài 2
1.3. Phạm vi nghiên cứu 4
1.4 Mục tiêu nghiên cứu 4
1.5. Phương pháp nghiên cứu 5
1.6. Kết cấu của luận văn 5
Kết luận Chương 1 6
Chương 2 – CƠ SỞ LÝ LUẬN 7
2.1. Cơ sở khoa học về tăng trưởng kinh tế 7
2.2. Lý thuyết liên quan đến tài sản trí tuệ 8
2.3. Cơ sở thực nghiệm về phát triển tài sản trí tuệ 11
2.3.1 Các nghiên cứu thực nghiệm với mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ 11
2.3.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về số lượng tài sản trí tuệ 14
2.3.3. Giải thích việc sử dụng các biến trong mô hình 16
Kết luận Chương 2 22
Chương 3 – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
3.1. Mô tả bộ dữ liệu 23
3.2. Vận dụng mô hình nghiên cứu 23
3.2.1 Biến và nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu 24
3.2.2. Quy trình nghiên cứu 29
Kết luận Chương 3 33
Chương 4 – NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
4.1. Thống kê mô tả dữ liệu 34
4.2. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến 38
4.3. Tài sản trí tuệ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế
giới như thế nào ? (Câu hỏi 1) 40
4.4. Tài sản trí tuệ tác động như thế nào đển tốc độ tăng trưởng kinh tế tại các nhóm
nước có GNI bình quân khác nhau? (Câu hỏi 2) 46
4.4.1. Hồi quy dữ liệu nhóm nước có thu nhập cao (38 quốc gia) 46
4.4.2. Hồi quy dữ liệu nhóm nước có thu nhập trung bình cao (25 quốc gia) 50
4.4.3. Hồi quy dữ liệu nhóm nước thu nhập trung bình thấp (21 quốc gia) 51
4.4.4. Hồi quy dữ liệu nhóm nước thu nhập thấp (16 quốc gia) 53
4.5. Việt Nam nên có những chính sách như thế nào quản lý như thế nào để phát
triển và khai thác tài sản trí tuệ một cách hiệu quả? (Câu hỏi 3) 60
Kết luận Chương 4 61
Chương 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 62
5.1. Kết luận chung về tài sản trí tuệ 62
5.2. Đóng góp của kết quả nghiên cứu 63
5.3. Những hạn chế của nghiên cứu và đề xuất 64
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
FDI : Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign direct investment)
FEM : Mô hình tác động cố định (Fixed Effected Model)
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
GMM : Mô hình hồi quy Generalized Method of Moments
GP : Chỉ số bảo hộ quyền sáng chế Ginarte-Park
IP : Tài sản trí tuệ (Intellectual Property)
IPR : Quyền tài sản trí tuệ (Intellectual Property Right)
IPT : Tổng số tài sản trí tuệ (Intellectual Property in Total)
PM : Mô hình hồi quy bình phương tối thiểu gộp (Pooled OLS)
PPP : Ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity)
R&D : Nghiên cứu và Phát triển (Research and Development)
REM : Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effected Model)
rGDP : Tốc độ tăng GDP bình quân (Rate of GDP per capital growth)
TFP : Năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity)
TPP : Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership)
TRIPS : Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ (Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights)
WB : Ngân hàng Thế giới (World Bank)
WIPO : Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property
Organization)
WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Mô tả biến dùng trong nghiên cứu 24
Bảng 4.1 Bảng thống kê tính đầy đủ của các biến 34
Bảng 4.2 Thống kê mô tả dữ liệu 36
Bảng 4.3 Thống kê mô tả dữ liệu đã logarit hóa 37
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến 38
Bảng 4.5 Hồi quy thử các biến giải thích với biến gdp_ln 39
Bảng 4.6 So sánh kết quả hồi quy với biến ope và lab có độ trễ 1 năm 40
Bảng 4.7 So sánh kết quả ước lượng của các mô hình cho mẫu chung 41
Bảng 4.8 Ma trận tương quan giữa phần dư và biến giải thích của ước lượng cho
mẫu chung 43
Bảng 4.9 Kết quả ước lượng mẫu chung bằng GMM 44
Bảng 4.10 So sánh kết quả ước lượng của các mô hình trong nhóm nước thu
nhập cao 46
Bảng 4.11 Ma trận tương quan giữa phần dư và biến giải thích của ước lượng
cho nhóm các nước thu nhập cao 48
Bảng 4.12 Kết quả ước lượng mẫu các nước thu nhập cao bằng GMM 49
Bảng 4.13 So sánh kết quả ước lượng của các mô hình trong nhóm nước thu
nhập trung bình cao 50
Bảng 4.14 So sánh kết quả ước lượng của các mô hình trong nhóm nước thu
nhập trung bình thấp 52
Bảng 4.15 So sánh kết quả ước lượng của các mô hình cho mẫu các nước thu
nhập thấp 53
Bảng 4.16 Ma trận tương quan giữa phần dư và biến giải thích của ước lượng
cho các nước thu nhập thấp 55
Bảng 4.17 Kết quả ước lượng mẫu các nước thu nhập thấp bằng GMM 56
Bảng 4.18 Kết quả hồi quy tổng hợp từ các nhóm quốc gia 57
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.1. Bảo hộ sở hữu trí tuệ và đổi mới (Furukawa, 2010) 9
Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu 32
HÌnh 4.1. Tác động của IPT đến tăng trưởng kinh tế 58
Hình 4.2. Tác động của IPR đến tăng trưởng kinh tế 59
TÓM TẮT
Vào cuối thế kỷ 20, khái niệm “bảo hộ sở hữu trí tuệ” bắt đầu được quan tâm và
nghiên cứu trên thế giới. Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về tăng trưởng kinh
tế và những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu này đã đề
cập đến hai yếu tố tài sản hữu hình và tài sản vô hình, bao gồm tài sản trí tuệ.
Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tài sản trí tuệ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
tăng trưởng kinh tế của quốc gia và các nhóm quốc gia. Tuy nhiên, trong phạm vi
tìm kiếm của tác giả, các bài nghiên cứu chưa đề cập nhiều đến số lượng bằng độc
quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế kiểu dáng công nghiệp, thương hiệu, …
các loại có tác động thật sự đến các nhóm quốc gia có thu nhập bình quân khác
nhau như thế nào, nhất là sau khi nền kinh tế thế giới vừa trải qua bão “đại suy
thoái” vào năm 2008.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng kết hợp các mô hình hồi quy gộp (Pooled
OLS Model), mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model), mô hình tác
động cố định (Fixed Effect Model) và mô hình GMM. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu
hàng năm của 100 quốc gia liên quan đến biến số lượng tài sản trí tuệ và mức độ
bảo hộ sở hữu trí tuệ cùng với một số biến kiểm soát liên quan đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng các bằng độc quyền có tác động tích cực tới
tăng trưởng kinh tế nhưng với mức độ khác nhau. Bên cạnh đó, mức độ bảo hộ sở
hữu trí tuệ cũng tác động khác nhau lên các nền kinh tế có thu nhập trung bình khác
nhau theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Phát hiện này có phần nào tương đồng với
lý thuyết hình chữ U ngược đã được Furukawa (2010) đề cập và giải thích.
Qua tìm hiểu về tác động giữa số lượng tài sản trí tuệ với tăng trưởng kinh tế, tác
giả kỳ vọng cung cấp được các đề xuất hợp lý cho việc thúc đẩy tăng trưởng nền
kinh tế của một nước có thu nhập GNI bình quân đầu người ở mức dưới trung bình
như Việt Nam.
1
Chương 1 – TỔNG QUAN
1.1. Nguyên nhân chọn đề tài
Năm 1988, Chin và Grossman (1988) trong “Intellectual Property Rights and North-
South Trade” cho rằng trong khi các công ty phía Bắc thực hiện R&D để giảm chi
phí sản xuất, các công ty phía Nam có thể bắt chước nếu chính phủ các nước này
không thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ. Sau đó, vào ngày 1 tháng 1 năm 1995, Hiệp
định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) có hiệu lực và
là một trong những điều kiện bắt buộc đối với tất cả các thành viên Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Stiglitz (2008) cho rằng tài sản trí tuệ đã trở thành một trong
những đề tài chính của xã hội toàn cầu. Toàn cầu hoá là một trong những vấn đề
quan trọng ngày nay, đặc biệt khi thế giới hướng về nền kinh tế tri thức. Làm thế
nào để chúng ta có thể điều chỉnh và quản lý tốt việc sản xuất tri thức và quyền tiếp
cận tri thức trong khi TRIPS có thể làm cho việc tiếp cận tri thức trở nên khó khăn
hơn, vì vậy tạo cách biệt về tri thức và gây khó khăn cho phát triển.
Để nâng cao uy tín thương mại quốc tế, Việt Nam đã quyết định gia nhập WTO từ
ngày 11/1/2007 qua nhiều vòng đàm phán khó khăn. Do đó, Việt Nam phải cam kết
thực hiện Hiệp định TRIPS. Thực tế, sau khi nộp đơn xin gia nhập WTO năm 1995,
hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn với
TRIPS về tính đầy đủ và tính hiệu quả. Năm 2005, Việt Nam ban hành Bộ luật Dân
sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 14 tháng 06 năm 2005 sửa đổi, bổ sung quy định về quyền tài sản
nhằm đảm bảo tài sản thực sự là hàng hoá trong giao dịch dân sự, trong đó bao gồm
quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, những quy định trong Bộ luật Dân sự chủ yếu là
những nguyên tắc cơ bản và liên quan đến khía cạnh dân sự. Cho đến khi Luật sở
hữu trí tuệ được ban hành vào tháng 11/2005 thì hệ thống pháp luật về Sở hữu trí
tuệ của Việt Nam mới bước đầu phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS.
Kể từ thời điểm đó đến nay, Luật Sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi bổ sung vào năm
2009. Cùng với sự phát triển của luật, các văn bản dưới luật cũng liên tục được bổ
2
sung, thay đổi để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội Việt Nam có liên quan đến
loại tài sản khá đặc biệt này. Tuy nhiên, hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ của
Việt Nam vẫn được nhận định là chưa thực sự có hiệu quả trong Hội thảo “Sở hữu
trí tuệ trong môi trường thương mại toàn cầu: Giải pháp khắc phục điểm yếu của
doanh nghiệp Việt Nam” do Cục Sở hữu Trí tuệ, Tạp chí Tia Sáng, và Hội Doanh
nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao phối hợp tổ chức ngày 28/5/2013 tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Có thể vì vậy mà đến nay doanh nghiệp vẫn thờ ơ với bảo hộ sở
hữu trí tuệ và số lượng đăng ký tài sản trí tuệ còn hạn chế. Trong tình hình đó, Việt
Nam vẫn đang tiếp tục đàm phán gia nhập khối Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương. Để gia nhập, Việt Nam phải đồng ý với Hiệp định thương mại xuyên Thái
Bình Dương (TPP) với những yêu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ cao hơn TRIPS trước
đây.
Trần Hồng Minh và Ngô Văn Giang (2008) cho rằng có thể có “lợi ích đáng kể” của
số đông khi mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ “tương đối lỏng lẻo” có thể tiếp cận được
với công nghệ bằng giá tiền không quá đắt đỏ như lĩnh vực phần mềm để phát triển
kinh tế. Như vậy, cần so sánh việc tăng trưởng kinh tế nhờ vào “công nghệ giá rẻ”
so với lợi ích sẽ thu được có xứng đáng để Việt Nam, một nước thuộc nhóm có thu
nhập trung bình thấp, lựa chọn gia nhập TPP? Tác giả chọn đề tài “Tác động của tài
sản trí tuệ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia” để nghiên cứu nhằm tìm hiểu
một phần quy luật tác động lên tốc độ tăng trưởng kinh tế của mức độ bảo hộ sở
hữu trí tuệ và tổng tài sản trí tuệ qua các nhóm nước có thu nhập khác nhau, từ đó
đóng góp cho định hướng phát triển về hội nhập quốc tế và nền kinh tế tri thức của
Việt Nam.
1.2. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nhằm xem xét khả năng và các hành động nên thực hiện đối với một quốc gia
đang phát triển thuộc nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp như Việt Nam, để
huy động tối ưu nguồn lực hiện có của đất nước vào việc thúc đẩy tăng trưởng nền
kinh tế.
3
Nguồn lực phát triển quốc gia có thể là tài nguyên, vốn, con người. Tuy nhiên, trong
tình hình của các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc sử dụng các nguồn lực
tài chính và tài nguyên để bắt kịp sự phát triển của các nước phát triển hầu như khó
khăn vì:
- Nguồn vốn: khả năng tích lũy tài chính thấp, khó có khả năng phát triển nhanh
về công nghiệp
- Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên: cạn kiệt theo thời gian, phát triển không bền
vững
Ngược lại, nguồn lực con người là một loại nguồn lực đặc biệt, thể hiện khả năng
của con người thông qua các kỹ năng cứng và mềm tăng lên theo thời gian, dễ tái
tạo và phát triển bền vững.
Các ý tưởng sáng tạo của con người khi hội đủ điều kiện (tính mới, tính sáng tạo,
khả năng ứng dụng sản xuất công nghiệp, …) có thể được bảo hộ của pháp luật.
Quyền sở hữu trí tuệ lúc này trở thành những tài sản dùng trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, đầu tư với các mức giá trị có thể rất cao.
Solow (1956) cho rằng nền kinh tế phát triển dựa trên mối tương quan với các yếu
tố Lao động (L), Vốn (K) và công nghệ (A) theo hàm số Y=A.f(L,K). Trong đó, tài
sản trí tuệ được xem là một phần của yếu tố A, nên việc phát triển nó được xem như
một vấn đề quan trọng để phát triển kinh tế, cung cấp cho nền kinh tế một sức bật
mạnh hơn nhiều so với L và K.
Khi nhận thấy rõ sự tương quan giữa Tài sản trí tuệ và Tăng trưởng kinh tế trong
từng giai đoạn phát triển (theo GNI bình quân), nhà quản lý có thể có thêm cơ sở để
quyết định hợp lý liên quan đến việc phát triển tài sản trí tuệ về mặt số lượng hay
mức độ bảo hộ của pháp luật, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế tốt nhất. Nguồn lực
quốc gia có thể tập trung đúng thời điểm để mang lại hiệu quả cao hơn cho tăng
trưởng kinh tế.
4
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trong phạm vi dữ liệu của 100 quốc gia phân bố ở các nhóm
nước có thu nhập GNI bình quân đầu người khác nhau:
- Nhóm các nước thu nhập cao (38 quốc gia)
- Nhóm các nước thu nhập trung bình cao (25 quốc gia)
- Nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (21 quốc gia)
- Nhóm các nước thu nhập thấp (16 quốc gia)
Nghiên cứu được thực hiện thành 2 phần: Nghiên cứu trên mẫu chung và nghiên
cứu trên các nhóm nước khác nhau. Trong đó, tác giả thực hiện tổng hợp số liệu thứ
cấp được công bố trên website của Ngân hàng thế giới (các chỉ số kinh tế, giáo
dục,…) và của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (các chỉ số về lượng tài sản trí tuệ
đang ở giai đoạn nộp đơn xin bảo hộ).
Để xem xét sức mạnh về bảo hộ sở hữu trí tuệ, tác giả sử dụng chỉ số đo lường mức
độ bảo hộ sở hữu trí tuệ do Ginarte và Park (1997) phát triển, Park (2008) cập nhật.
Chỉ số này hiện đang được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế sử dụng khi nghiên cứu
các vấn đề về đổi mới, tăng trưởng kinh tế liên quan đến sở hữu trí tuệ.
1.4 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm mục tiêu xem xét tác động của số lượng tài sản trí tuệ tới tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế các quốc gia trong mối tương quan với yếu tố pháp luật
bảo hộ sở hữu trí tuệ thông qua việc tìm lời giải cho các câu hỏi sau:
1. Kiểm chứng tài sản trí tuệ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia trên thế giới như thế nào?
2. Tài sản trí tuệ tác động như thế nào đến tốc độ tăng trưởng kinh tế tại các nhóm
nước có GNI bình quân khác nhau?
3. Trong tình hình kinh tế hiện nay, Việt Nam nên có những chính sách quản lý
như thế nào để phát triển, khai thác tài sản trí tuệ hiệu quả?
5
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp thống kê, phân tích kết quả từ các
mô hình định lượng Pooled OLS, FEM, REM và GMM trên phần mềm thống kê
Stata 12.0.
Các kiểm định được sử dụng trong nghiên cứu là kiểm định đa cộng tuyến, kiểm
định nội sinh, kiểm định Pagan L-M, kiểm định Hausman, kiểm định Arellano-
Bond. Trường hợp sử dụng các hồi quy Pooled OLS, FEM, REM, tác động của hiện
tượng phương sai thay đổi sẽ được kiểm soát bằng robust khi thực hiện hồi quy.
Số liệu dùng trong nghiên cứu là số liệu thứ cấp được tác giả thu thập, tổng hợp từ
nguồn dữ liệu được công bố chính thức tại Ngân hàng thế giới và Tổ chức sở hữu trí
tuệ thế giới.
Để xây dựng mô hình hồi quy, tác giả kế thừa và phát triển từ các mô hình của các
tác giả Gould và Gruben (1996), Falvey và Greenaway (2006). Ngoài hai biến giải
thích là số lượng tài sản trí tuệ và mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ, tác giả đã dùng các
biến kiểm soát khác như mức đầu tư, chi phí cho giáo dục, tốc độ tham gia lực
lượng lao động, … căn cứ vào các nghiên cứu của nhiều tác giả khác (xem thêm
mục 2.3.3)
Từ kết quả phân tích định lượng, tác giả rút ra các kết luận về liên quan đến việc
giải thích các vấn đề đã nêu ở mục 1.4.
1.6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mục lục, Danh mục các hình, bảng biểu, Tóm tắt, Tài liệu tham
khảo và Phụ lục, tác giả trình bày nghiên cứu theo các phần như sau:
- Chương 1 - Tổng quan
- Chương 2 - Cơ sở lý luận
- Chương 3 -Phương pháp nghiên cứu
- Chương 4 -Nội dung và kết quả nghiên cứu
- Chương 5 - Kết luận và kiến nghị
6
Kết luận Chương 1
- Qua chương này, tác giả đã xác định nguyên nhân của việc lựa chọn đề tài, xác
định mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
- Tác giả đã sơ bộ phác thảo phương pháp nghiên cứu sẽ sử dụng trong bài.
- Giới thiệu kết cấu luận văn để người đọc dễ theo dõi các hoạt động của nghiên
cứu.
7
Chương 2 –CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Cơ sở khoa học về tăng trưởng kinh tế
Harrod (1939) và Domar (1946) xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế cho thấy tốc
độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tỉ lệ giữa tiết kiệm S và lượng vốn K. Tiết
kiệm S được kỳ vọng được dùng vào đầu tư I. Do đó càng tiết kiệm nhiều thì đầu tư
càng nhiều, điều này sẽ tác động tích cực lên mức tăng trưởng của nền kinh tế.
=
(
⁄
)
– =
(
⁄
)
−
Tuy nhiên, theo mô hình tăng trưởng tân cổ điển, việc tiết kiệm bổ sung thêm không
làm cho tăng trưởng tăng theo quan hệ tuyến tính mà mức độ tăng giảm dần theo
quy luật lợi nhuận biên giảm dần theo vốn bổ sung. Ngoài ra, tỉ lệ tăng dân số còn
có vai trò cho phép có sự thay thế giữa vốn và lao động trong quá trình tăng trưởng.
(Solow, 1956). Nguồn nhân lực lại là một yếu tố có thể thay đổi nhanh chóng, có
thể tạo ra những giá trị vượt trội nhờ vào việc vận dụng khả năng tư duy của mình.
Baier và cộng sự (2006) cho rằng năng suất trong 40 năm, từ 1960 đến 2000, tăng
chủ yếu nhờ vào TFP chứ không phải là tăng lượng đầu vào. Trong đó, yếu tố nhân
lực giữ vai trò tác động bên cạnh cơ sở hạ tầng và yếu tố công nghệ. Điều này cũng
được (Lucas, 1988) khẳng định từ trước về lao động hay vốn nhân lực có thể nâng
cao kỹ năng (tăng giá trị theo thời gian) thông qua hoạt động đào tạo lý thuyết và
thực hành (on the job training, learning by doing) từ đó có thể tác động lên tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, Abramovitz (1993) và Eaton và Kortum (1995) đều
cho rằng nhờ vào tiếp cận với các tiến bộ về công nghệ (thông qua giáo dục, học tập
và sử dụng các sản phẩm và quy trình), vốn con người sẽ tăng lên trong dài hạn, dẫn
đến tăng năng suất lao động.
Sự gia tăng kỹ năng của vốn nhân lực không chỉ tác động trực tiếp lên việc tạo sản
phẩm, dịch vụ tại doanh nghiệp, mà còn là tăng năng lực R&D. Eaton và Kortum
(1995) cho rằng bằng sáng chế thể hiện đầu ra của nghiên cứu và phát triển được
bảo hộ.
8
Todaro và Smith (2012) cho rằng sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 3 nhóm yếu
tố:
- Tích lũy vốn bao gồm tất cả các khoản đầu tư mới trong đất, thiết bị và nguồn
nhân lực thông qua cải thiện các kỹ năng y tế, giáo dục và công việc.
- Tăng trưởng dân số dẫn đến tăng trưởng lực lượng lao động
- Công nghệ mới
2.2. Lý thuyết liên quan đến tài sản trí tuệ
(Cadot và Lippman, 1995; Horowitz và Lai, 1996; O'Donoghue và Zweimuller,
2004 và Scotchmer và Green, 1990) trong quá trình nghiên cứu đã tìm thấy mối liên
hệ giữa mức bảo hộ sở hữu trí tuệ và đổi mới biểu hiện dưới dạng đường cong hình
chữ U ngược. Sau đó nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích hỗ trợ cho lý thuyết này
như (Furukawa, 2007; Futagami và Iwaisako, 2007; Horii và Iwaisako, 2007).
Furukawa (2010) đã phân tích lý thuyết ủng hộ sự tồn tại của đường cong hình chữ
U ngược (inverted U-shape) thể hiện mối liên hệ giữa mức độ bảo hộ tài sản trí tuệ
với tốc độ đổi mới như sau:
- Việc tích lũy vốn con người thông qua kỹ năng, kinh nghiệm được trau dồi sẽ
khuyến khích đổi mới. Tuy nhiên, khi tăng bảo hộ, việc điều chỉnh sản lượng
thấp do giá cả độc quyền sẽ làm kỹ năng của người lao động giảm sút và giảm
tích lũy vốn con người.
- Ở hình 2.1, sự gia tăng bảo hộ tài sản trí tuệ (tăng ) đến một mức độ nhất định
(mức *), tốc độ đổi mới đạt mức cao nhất. Nếu mức bảo hộ vượt quá * sẽ
khiến việc tích lũy vốn con người bị giảm sút, từ đó sẽ tác động tiêu cực trở lại
với tốc độ đổi mới.
- Hàm ý chính sách : đường này phụ thuộc vào chi phí ban đầu cho đổi mới, nếu
chi phí đổi mới cao, trong khi mức độ bảo hộ quá cao hoặc quá thấp sẽ ức chế
tốc độ đổi mới.
Có thể giải thích tình trạng bảo hộ sở hữu trí tuệ quá mức gây ảnh hưởng đến tốc độ
đổi mới như sau: Khi tăng cường bảo hộ sẽ dẫn đển gia tăng tình trạng độc quyền.
9
Nhờ lợi thế độc quyền, nhà sản xuất sẽ tìm cách thu lợi nhuận độc quyền bằng cách
tăng giá bán và hạn chế sản lượng. Sản lượng thấp có thể làm tăng tình trạng thất
nghiệp, dẫn đến giảm sút điều kiện sống, thu nhập của người lao động. Điều kiện để
học tập, rèn luyện kỹ năng của lao động bị giảm theo. Việc giảm sút điều kiện học
tập làm giảm sút khả năng sáng tạo, tạo ra sự đổi mới, gián tiếp góp phần vào việc
hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia bảo hộ sở hữu trí tuệ quá mức.
Hình 2.1. Bảo hộ sở hữu trí tuệ và đổi mới
Nguồn: Furukawa, 2010
Maskus (1998) nhận định rằng mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm tăng trưởng. Nguyên nhân có thể là do hệ thống bảo hộ quá mức gây hạn
chế lợi ích xã hội về sáng chế vì làm giảm khả năng phổ biến sản phẩm của sáng
chế đó. Nhưng một hệ thống bảo hộ quá yếu có thể làm giảm sự đổi mới vì không
thu hút được đầu tư. Quan điểm này tương tự với phân tích lý thuyết hình chữ U
ngược của Furukawa (2010), nhưng Furukawa (2010) tập trung vào nguyên nhân là
việc tăng hay giảm vốn con người, còn Maskus (1998) đã mở rộng tác động của bảo
hộ sở hữu trí tuệ tới lợi ích chung của xã hội.
Trong thực tế, chúng ta có thể nhận thấy nếu một nhà sáng chế nhờ có nhiều năm
kinh nghiệm, trăn trở và suy nghĩ để tìm được một giải pháp kỹ thuật mà từ trước
10
đến nay chưa ai giải quyết được vấn đề tương tự. Nhưng quá trình suy nghĩ, lao
động khó khăn và lâu dài đó của nhà sáng chế không được bảo hộ nên bị người khác
bắt chước và làm được ngay, thậm chí bán được nhiều sản phẩm hơn, thu được lợi
nhuận cao hơn. Nhà sáng chế sẽ mất động lực tạo ra các giải pháp khác, hệ quả là
toàn xã hội sẽ bị giảm sút khả năng đổi mới để tạo ra năng suất lao động cao hơn.
Như vậy, tình trạng pháp luật quá lỏng lẻo trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng đã
góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Để có thể tạo được sự công bằng cho nhà sáng chế khi tạo ra tài sản trí tuệ thì việc
tăng cường luật pháp để bảo hộ sở hữu trí tuệ là điều cần phải làm. Nhà sáng chế
phải có trách nhiệm nhận diện các đơn vị tài sản trí tuệ của mình, lưu chứng để tạo
lập tài sản và tiến hành các thủ tục để được bảo hộ. Lúc này, bảo hộ sở hữu trí tuệ
mới có thể tạo ra sự công bằng cho nhà sáng chế trước toàn xã hội.
Sự công bằng cũng thể hiện ở chỗ không gây gây thiệt hại cho xã hội vì bảo hộ tràn
lan. Không phải tất cả ý tưởng đều được bảo hộ. Sáng chế chỉ được bảo hộ độc
quyền nếu “có tính mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp”,
hay bí mật kinh doanh cũng chỉ được bảo hộ nếu “không phải là hiểu biết thông
thường, không dễ dàng có được, tạo được lợi thế kinh doanh cho người nắm giữ và
được chủ sở hữu bảo mật …” (Điều 58 và 84, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi
bổ sung năm 2009). Ngay cả trong trường hợp được bảo hộ, tùy tính chất và sự cân
bằng lợi ích giữa chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích xã hội, Pháp luật cũng có
giới hạn về thời gian bảo hộ hoặc hình thức bảo hộ. Ví dụ: Sáng chế chỉ được bảo
hộ trong thời gian 20 năm kể từ ngày nộp đơn (Điều 93, luật Sở hữu trí tuệ năm
2005, sửa đổi bổ sung năm 2009). Điều này cho thấy, chủ thể quyền sở hữu tài sản
trí tuệ được pháp luật bảo vệ để khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản của mình trong
một khung thời gian nhất định, sau đó, các thông tin về sáng chế sẽ được cộng đồng
sử dụng rộng rãi và mang lại lợi ích cho xã hội sau khi đã ưu tiên cho nhà sáng chế.
Nếu sự bảo hộ này là vô hạn, thì xã hội sẽ không được hưởng lợi từ việc sáng tạo
gây ảnh hưởng đến tăng trưởng chung.
11
2.3. Cơ sở thực nghiệm về phát triển tài sản trí tuệ
2.3.1 Các nghiên cứu thực nghiệm với mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ
Trong nghiên cứu định lượng liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ, các nhà nghiên
cứu thực hiện hồi quy dữ liệu bảng với nhiều phương pháp khác nhau. Trong phạm
vi tìm hiểu của tác giả, kỹ thuật định lượng được các nhà nghiên cứu sử dụng càng
lúc càng phức tạp dần theo thời gian, điều này phù hợp với đặc điểm số liệu của
kinh tế vĩ mô, rất dễ xảy ra các hiện tượng như tự tương quan, nội sinh, … do đó,
các phương pháp phải hoàn thiện dần để khắc phục được các nhược điểm số liệu.
Ban đầu, kỹ thuật hồi quy đơn giản nhất được Gould và Gruben (1996) là hồi quy
dạng hàm Log – Linear, sau đó Thomson và Rushing (1999) dùng phương pháp
bình phương tối thiểu 2 và 3 giai đoạn. Đến năm 2005, Schneider (2005) thực hiện
nghiên cứu định lượng với hồi quy OLS và mô hình hiệu ứng cố định FEM cho dữ
liệu dạng bảng. Năm 2006, Falvey và Greenaway (2006) nghiên cứu thực nghiệm
bằng phương trình ước lượng tăng trưởng phi tuyến, tập trung vào các ngưỡng đặc
biệt (thresholds in particular). Với khả năng kiểm soát được hiện tượng nội sinh,
phương pháp GMM được Kim và cộng sự (2012) dùng đồng thời với các phương
pháp OLS và FEM. Ngoài ra, để trả lời sâu hơn về các câu hỏi về ngưỡng tác động,
Hudson và Minea (2013) dùng kỹ thuật hồi quy ngưỡng linh hoạt dữ liệu bảng
1
để
xem xét ngưỡng tác động của mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ và mức độ đổi mới
(innovation)
Trong các một số mô hình nghiên cứu định lượng về bảo hộ sở hữu trí tuệ tác động
đến tăng trưởng kinh tế, có tác giả cho rằng bảo hộ sở hữu trí tuệ có tác động trực
tiếp đến tăng trưởng kinh tế như Falvey và Greenaway (2006), nhưng cũng có một
số khác như Gould và Gruben (1996), Park và Ginarte (1997), Thompson và
Rushing (1999), Schneider (2005), Hudson và Minea (2013) lại cho rằng tác động
của bảo hộ sở hữu trí tuệ là gián tiếp thông qua “đổi mới”, “R&D”.
1
The Panel Smooth Threshold Regression - PSTR
12
Bảo hộ sở hữu trí tuệ chịu tác động từ chính sách kinh tế của quốc gia, đối với
những nước có nền kinh tế đóng, nhỏ, hầu như các nguồn lực dành chủ yếu vào hệ
thống pháp luật nhằm bảo vệ thị trường trong nước. Tuy nhiên, khi thị trường mở
cửa thì việc cạnh tranh sẽ thúc đẩy đổi mới, do đó, quốc gia sẽ dành nguồn lực
nhiều hơn để tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ. Vì vậy, (Gould và Gruben, 1996;
Thompson và Rushing, 1999; Falvey và Greenaway, 2006) cho rằng nền kinh tế
càng lớn, độ mở cửa càng lớn thì bảo hộ sở hữu trí tuệ càng gia tăng.
Các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp, không đầu tư vào nghiên cứu
và phát triển thì mức bảo hộ sở hữu trí tuệ thấp và ngược lại các nước có thu nhập
cao, có năng lực nghiên cứu và phát triển thì mức bảo hộ có thể phát triển cao (Park
và Ginarte, 1997; Thompson và Rushing, 1996; Thompson và Rushing, 1999).
Bảo hộ sở hữu trí tuệ đồng biến với tăng trưởng kinh tế, nó được xem là một yếu tố
quan trọng trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Gould và Gruben (1996) cho rằng
bảo hộ sở hữu trí tác động trở lại nền kinh tế vì có mối quan hệ đặc biệt tới vốn con
người, thông qua việc tạo môi trường thuận lợi cho việc tích lũy kiến thức, tăng cải
tiến và dẫn đến tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, tác động của bảo hộ sở hữu trí tuệ đến tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào
mức độ phát triển của nền kinh tế. Trong nghiên cứu của Falvey và Greenaway
(2006), bảo hộ sở hữu trí tuệ tác động tích cực đáng kể đến sự phát triển của các
nước thu nhập thấp và thu nhập cao, nhưng tác động không đáng kể đến tăng trưởng
kinh tế các nước thu nhập trung bình.
Trong nhóm các nước thu nhập thấp, quan hệ giữa bảo hộ sở hữu trí tuệ và tăng
trưởng cũng có sự khác biệt: tác động tích cực đáng kể vào tăng trưởng ở các nước
nghèo nhất, nhưng tác động không đáng kể đối với các nước có thu nhập trung bình.
Falvey và Greenaway (2006) giải thích tác động khác nhau này được cho là do các
nguyên nhân sau:
- Tác động tích cực đáng kể của bảo hộ sở hữu trí tuệ đến tăng trưởng kinh tế ở
các nước thu nhập thấp không phải do R&D và đổi mới trong nước. Kết quả
13
này có thể do bảo hộ sở hữu trí tuệ mạnh làm tăng nhập khẩu và FDI vào từ các
nước tiên tiến.
- Bảo hộ sở hữu trí tuệ không tác động đáng kể đến tăng trưởng của các nước thu
nhập trung bình có thể do 2 tác động đối nghịch nhau: Tuy bảo hộ tác động tích
cực lên tăng trưởng thông qua thương mại và thu hút FDI, nhưng nó cũng làm
cho kiến thức khuếch tán chậm đi và ngăn chặn việc bắt chước.
Kết quả nghiên cứu của Schneider (2005) cho thấy bảo hộ sở hữu trí tuệ là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hướng đến tốc độ đổi mới bên cạnh các yếu tố
khác như quy mô thị trường, nhập khẩu công nghệ cao, vốn con người, mức độ
R&D, cơ sở hạ tầng, vốn. Tuy nhiên, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ không phải lúc nào
cũng có tác động giống nhau đến đổi mới. Nó có tác động tích cực đến tốc độ đổi
mới của các nước phát triển nhưng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự đổi mới ở các
nước đang phát triển. Tác giả Schneider (2005) cho rằng sự đổi mới ở các nước
đang phát triển hầu hết là do sự bắt chước hoặc áp dụng các sáng chế chứ không
phải do việc bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Không chỉ xem xét về bảo hộ sở hữu trí tuệ cho các bằng sáng chế, Kim và cộng sự
(2012) mà còn đi vào nghiên cứu sâu hơn một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ khác
có bản chất gần giống với sáng chế, đó là giải pháp hữu ích. Tác động của 2 nhóm
tài sản trí tuệ này có tác động khác nhau đến mức độ đổi mới. Bảo hộ bằng sáng chế
có tác động tích cực đến các nước có nền kinh tế phát triển trong khi đó bảo hộ giải
pháp hữu ích có thể là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đổi mới ở các
nước thu nhập trung bình đến thấp. Các nước đang phát triển nên tập trung vào bảo
hộ giải pháp hữu ích nhiều hơn để tăng trưởng kinh tế.
Qua đó có thể thấy, việc nghiên cứu liên quan đến bảo hộ tài sản trí tuệ không thể
chỉ dừng lại ở các sáng chế, hay giải pháp hữu ích mà nhà nghiên cứu cũng cần
quan tâm đến các loại tài sản trí tuệ khác mà pháp luật có thể và có quy định bảo hộ
như thương hiệu, quyền tác giả và các quyền liên quan đến quyền tác giả, bí mật
kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, … vì việc
bảo hộ các loại tài sản này vẫn đang diễn ra và chúng cũng có những vai trò nhất
14
định đối với tăng trưởng kinh tế thông qua việc khai thác, kinh doanh quyền tài sản
loại này.
Để trả lời cho câu hỏi cụ thể mức độ nào của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ có tác
động như thế nào đến việc đổi mới, Hudson và Minea (2013) nhận thấy bảo hộ sở
hữu trí tuệ mạnh sẽ làm tăng sự đổi mới ở một số nước và làm giảm nó ở các nước
khác và tác động có thể thay đổi khi mức độ bảo hộ sở hữu trí tuệ của quốc gia vượt
qua một ngưỡng nhất định. Tuy nhiên, kết luận của các tác giả này lại đi ngược với
chứng minh trong mô hình chữ U ngược của Furukawa (2010): bảo hộ sở hữu trí tuệ
sẽ tác động tích cực đến đổi mới ở mức dưới 1.8 và trên 3.3 mà không phụ thuộc
vào GDP bình quân đầu người.
Ngoài ra, bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng chịu sự chi phối của một số yếu tố kinh tế tác
động lên nó:
- Mức độ bất ổn chính trị không có tác động có ý nghĩa thống kê tới mức độ bảo
hộ sở hữu trí tuệ (Thompson và Rushing, 1996).
- (Thompson và Rushing, 1996; Park và Ginarte, 1997) nhận thấy cơ sở hạ tầng
nghiên cứu và phát triển có tương quan thuận với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ,
nghĩa là các nước càng phát triển cơ sở hạ tầng nghiên cứu và phát triển càng
chú trọng vào bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, Hudson và Minea (2013) nhận định chỉ số bảo hộ sáng chế GP, hiện đã
và đang được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng, không phải là một "biến đo được" để
đánh giá sức mạnh của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, cho đến hiện tại thì chỉ
số này được xem như là chỉ số tốt có thể có cho các nhà nghiên cứu kinh tế .
2.3.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về số lượng tài sản trí tuệ
Từ năm 1951, Schmookler đã sử dụng số liệu thống kê bằng sáng chế như một chỉ
số của đầu ra sáng tạo để giải thích về sự tăng trưởng TFP của nền kinh tế Mỹ,
nhưng không tìm thấy mối tương quan. Tuy nhiên, Griliches (1998) vẫn cho rằng số
liệu thống kê bằng sáng chế là một chỉ số tốt về đầu vào, về sự khác biệt trong hoạt
15
động sáng tạo vốn không quan sát được. Số liệu này là nguồn tài nguyên cho việc
phân tích các quá trình thay đổi kỹ thuật và được xem như chỉ số đặc trưng cho kiến
thức có giá trị về mặt kinh tế và là đầu ra của nghiên cứu và phát triển. Sau đó, Kim
và cộng sự (2012) cũng đã sử dụng số liệu về bằng sáng chế và giải pháp hữu ích
trong quá trình nghiên cứu ở cấp độ quốc gia và doanh nghiệp Hàn Quốc.
Mặc dầu cho rằng số liệu thống kê bằng sáng chế dùng để đo lường và hiểu rõ hơn
về các quá trình kinh tế nhằm giảm chi phí sản xuất và phát triển các sản phẩm và
dịch vụ mới (cả đầu vào và đầu ra của quá trình), Griliches (1998) nhận thấy có hai
vấn đề chính trong việc sử dụng bằng sáng chế cho phân tích kinh tế:
- Khó phân loại dữ liệu bằng sáng chế theo đúng ngành công nghiệp, sản phẩm
tương ứng.
- Chưa có phương pháp tính "trọng số" phù hợp cho những sáng chế khác nhau
về kỹ thuật và giá trị kinh tế.
Có thể đó là nguyên nhân khiến chỉ số về số lượng tài sản trí tuệ chưa được các nhà
nghiên cứu kinh tế sử dụng nhiều.
Trong phạm vi tìm hiểu của tác giả, các nghiên cứu về sở hữu trí tuệ hiện nay
thường chỉ quan tâm đến bằng độc quyền sáng chế (Patent) và chỉ số quyền sáng
chế (Patent Rights Index). Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Kim và cộng sự (2012)
thì các doanh nghiệp nhỏ, tụt hậu và các quốc gia đang phát triển lại có thể dựa vào
các giải pháp hữu ích để phát triển, tăng trưởng. Như vậy, nếu chỉ sử dụng các số
liệu thống kê về sáng chế sẽ làm hạn chế tính chính xác của kết quả của nghiên cứu
về tài sản trí tuệ.
Do đó, việc nghiên cứu kinh tế liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ, theo tác giả,
cần được mở rộng hơn tới việc ghi nhận sự tồn tại và khả năng mang lại lợi ích cho
nền kinh tế của tất cả các dạng của tài sản trí tuệ. Vì tất cả các loại tài sản này, nếu
được chủ thể quyền sở hữu khai thác đúng mức sẽ mang lại lợi nhuận kinh tế rất
lớn. Ví dụ, giá trị thương hiệu Coca Cola năm 2013 được công bố là 79,213 triệu
USD trên www.interbrand.com. Trong tương lai, nếu thương hiệu này vẫn được
16
quản trị và khai thác tốt giá trị sẽ không dừng lại ở đó. Như vậy, chủ sở hữu thương
hiệu này đã góp phần không ít vào tăng trưởng kinh tế GDP của Mỹ.
2.3.3. Giải thích việc sử dụng các biến trong mô hình
Qua các mô hình đã xem xét trong phần sơ lược lý thuyết và các nghiên cứu định
lượng về tài sản trí tuệ, tác giả sử dụng mô hình với các biến như sau :
- Biến phụ thuộc : rGDP (tốc độ tăng GDP bình quân đầu người)
- Biến giải thích : gồm 2 nhóm
o Biến quan tâm : các biến liên quan đến sở hữu trí tuệ (IPR và IPT)
o Biến kiểm soát : các biến thể hiện tình trạng nền kinh tế và có liên quan
đến tăng trưởng kinh tế quốc gia (GDP, INV, EDU, OPE, LAB, GOC,
INF)
2.3.3.1. rGDP - Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người
- Tình hình sử dụng: tốc độ tăng trưởng GDP thực hàng năm của các quốc gia
trong mô hình là biến phụ thuộc, nó phản ánh khả năng tăng trưởng của nền
kinh tế một quốc gia là nhanh hay chậm và được Gould và Gruben (1996);
Thompson và Rushing (1999) và Falvey và Greenaway (2006) sử dụng trong
mô hình nghiên cứu tăng trưởng kinh tế của mình.
- Tên chỉ số chính thức: GDP per capita growth (annual %)
- Đơn vị tính : %
- Cách tính: Xác định GDP bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội GDP
chia cho dân số giữa năm. Sau đó, tính tốc độ gia tăng hàng năm của GDP bình
quân đầu người.
2.3.3.2. GDP - GDP bình quân đầu người
- Tình hình sử dụng: (Gould và Gruben, 1996; Thompson và Rushing, 1999;
Schneider, 2005; Falvey và Greenaway, 2006; Kim và cộng sự, 2012; Hudson
và Minea, 2013) đều dùng GDP bình quân đầu người để đo mức độ phát triển
kinh tế như một biến giải thích trong mô hình.